Đề tài Rào cản trong cạnh tranh của ngành thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 2

PHẦN NỘI DUNG 6

CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ RÀO CẢN CẠNH TRANH 6

1. Khái niệm cạnh tranh. 6

1.1 Khái niệm về cạnh tranh 6

1.2 Vai trò trong cạnh trạnh 6

2. Khái niệm rào cản trong cạnh tranh. 7

2.1 Khái niệm 7

2.2 Phân loại rào cản trong cạnh tranh 7

CHƯƠNG 2 : RÀO CẢN TRONG CẠNH TRANH CỦA NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG MỸ. 8

1. Khái quát về ngành thủy sản nước ta 8

1.1 Tình hình nuôi trồng thủy sản trong nước 11

1.2 Tình hình xuất khẩu của thủy sản Việt Nam sang các nước khác 11

1.3 Tình hình xuất khẩu thủy sản củaViệt Nam sang thị trường Hoa Kì 13

2. Các rào cản trong cạnh tranh của ngành thủy sản Việt Nam tại Mỹ 18

2.1 Sự cản trở của những chính sách bảo hộ của Mỹ 18

2.2 Doanh nghiệp Việt Nam chưa hiểu nhiều phong tục tập quán, tác phong khi đàm phán, pháp luật đều mới lạ. 19

2.3 Các loại thủy sản nước ta xuất khẩu vào thị trường Mỹ vẫn ở dạng sơ chế, có giá trị chưa cao. 19

2.4 Hàng hóa xuất khẩu vào Mỹ phải trải qua hải quan chặt chẽ. 20

2.4.1 Hệ thống thuế quan của Mỹ 20

2.4.1.1 Luật Thuế: 20

2.4.1.2 Các mức thuế 23

2.5.1 Quy định của Hoa Kỳ về vệ sinh an toàn thực phẩm 25

2.5.1.1 Quy trình chấp nhận an toàn vệ sinh sản phẩm thuỷ sản nhập khẩu vào Hoa Kỳ: 27

2.5.1.2 Quy định về kiểm soát dư lượng hoá chất trong các sản phẩm thuỷ sản 29

2.5.1.3 Quy định của Hoa Kỳ về kiểm dịch 32

2.5.2 Quy định của Hoa Kỳ về nhãn mác 34

2.5.3 Quy định của Hoa Kỳ về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm 36

2.5.4 Quy định của Hoa Kỳ về bảo vệ môi trường và nguồn lợi 41

2.5.5 Quy định của Hoa Kỳ liên quan đến bình đẳng thương mại 42

2.7 Rào cản về đối thủ cạnh 49

2.8 Chính sách trong nước và thủ tục trong nước còn rườm rà, gây không ít những khó khăn 50

CHƯƠNG III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thị trường xuất khẩu thủy sản vào Mỹ 50

1. Giải pháp mang tính vĩ mô 50

2. Giải pháp mang tính doanh nghiệp 53

3. Một số lưu ý đối với nhà xuất khẩu 54

3.1. Cảnh báo nhập khẩu và tự động giữ hàng 54

3.2. Kiểm nghiệm và cho phép trước khi đưa vào lưu thông trên thị trường 55

3.3. Lưu thông hàng hoá giữa các bang 56

 

 

doc56 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2422 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Rào cản trong cạnh tranh của ngành thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong phạm vi từ dưới 1% đến gần 40%, trong đó hầu hết các mặt hàng chịu mức thuế từ 2% đến 7%. Mức thuế phi tối huệ quốc (Non-MFN) được áp dụng đối với những nước chưa phải là thành viên WTO và chưa ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ như Lào, Cuba, Bắc Triều Tiên. Thuế suất Non - MFN nằm trong khoảng từ 20% đến 110%, cao hơn nhiều so với thuế suất MFN. Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (Generalized System of Preferences - GSP). Một số hàng hoá nhập khẩu từ một số nước đang phát triển được Hoa Kỳ cho hưởng GSP được miễn thuế nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Chương trình GSP của Hoa kỳ thực sự được thực hiện từ 1 tháng 1 năm 1976 với thời hạn ban đầu là 10 năm. Từ đó đến nay, chương trình này đã được gia hạn nhiều lần với một số sửa đổi. Các ưu đãi thuế quan khác: Hoa Kỳ còn dành ưu đãi thuế quan cho những  hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ thuộc diện hưởng lợi của Luật Thương mại các Sản phẩm Ô tô (được ký hiệu trong biểu thuế là B), Hiệp định Thương mại Máy bay dân dụng (được ký hiệu trong biểu thuế là C), Hiệp định Thương mại các Sản phẩm Dược (được ký hiệu trong biểu thuế là K), và những cam kết giảm thuế của Vòng đàm phán Uruguay đối với hoá chất nguyên liệu trực tiếp của thuốc nhuộm (được ký hiệu trong biểu thuế là L).        2.5 Hệ thống hàng rào phi thuế quan của Mỹ       Thị trường Mỹ đòi hỏi sản phẩm phải có chất lượng tốt, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, cho nên họ đặt ra những luật lệ rất nghiêm nhặt về vấn đề này: hàng rào phi thuế quan của Mỹ khắt khe hơn nhiều so với thị trường khác Hệ thống phi thuế quan trong thương mại, đôi khi cũng được gọi là rào cản phi thuế quan, rào cản kỹ thuật, là một trong những biện pháp kỹ thuật nhằm bảo vệ người tiêu dùng trong nước, lợi ích quốc gia, bảo hộ sản xuất trong nước. Ở tầm thế giới, các biện pháp này tập trung trong Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong thương mại (viết tắt theo tiếng Anh là TBT) do Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) soạn thảo. Hiện nay, các rào cản kỹ thuật bao gồm: các biện pháp kỹ thuật, các loại thuế và phí trong nước, các quy định và thủ tục hải quan, các thủ tục và quy trình hành chính, các công cụ bảo hộ trong nước… Tuy nhiên, sự lạm dụng các hàng rào kỹ thuật trong thương mại đã tạo ra một môi trường thương mại không tích cực và ngày càng được sử dụng nhiều như một rào cản nhằm hạn chế nhập khẩu.  Ðối với các sản phẩm thực phẩm nói chung và thuỷ sản nói riêng, hàng rào kỹ thuật bao gồm các qui định về : + Các chỉ tiêu dinh dưỡng như đạm, mỡ, muối, nước, khoáng chất bắt buộc phải đạt theo mức hoặc tỷ lệ nhất định, nhằm đảm bảo dinh dưỡng theo yêu cầu cho người sử dụng hoặc yêu cầu riêng biệt cho một nhóm đối tượng tiêu dùng (như trẻ em, người ăn kiêng ). + Các quy định về chủng loại, kích cỡ, khối lượng, cách chế biến, phương pháp ghi nhãn, kiểu cách bao gói, nhằm thoả mãn yêu cầu sử dụng và ngăn chặn việc gian lận thương mại. + Việc nuôi trồng, đánh bắt nguyên liệu để chế biến ra sản phẩm đó phải không phương hại đến các loài động vật quý hiếm và không làm phương hại đến môi sinh và môi trường. Ví dụ, từ năm 1997 Hoa Kỳ đưa ra quyết định không nhập khẩu tôm biển của những nước sử dụng lưới kéo tôm không có thiết bị xua đuổi rùa biển (TED) vì cho rằng lưới này có thể làm hại đến rùa biển- một loài có tên trong Sách Đỏ. 2.5.1 Quy định của Hoa Kỳ về vệ sinh an toàn thực phẩm          Theo luật, tất cả các loại thực phẩm sản xuất trong nước và nhập khẩu đều phải chịu sự điều tiết của các luật Liên bang như: Luật về Thực phẩm, Dược phẩm, Luật về Bao bì và Nhãn hàng ( Fair Packaging and Labelling Act - FPLA), và một số phần của luật về Dịch vụ y tế ( PHSA). Ngoài ra còn có các quy định riêng của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), hoặc Cục Nghề cá biển quốc gia Hoa Kỳ (NMFS). Ngoài hệ thống pháp luật liên bang, mỗi bang hoặc khu hành chính đều có hệ thống pháp luật riêng. Pháp luật bang và khu hành chính không được trái với Hiến pháp của Liên bang. Bất cứ hàng hoá nào khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ phải đảm bảo các tiêu chuẩn như là các sản phẩm nội địa. Nhà xuất khẩu và chế biến đều phải tuân theo các quy định của Hoa Kỳ, cụ thể là theo Bộ luật Liên bang Hoa Kỳ CFR ( Code of Federal Regulations) để đảm bảo sản phẩm không có độc tố, an toàn trong sử dụng và được sản xuất trong điều kiện vệ sinh. Không phải mọi doanh nghiệp có hàng thuỷ sản đều có thể đưa hàng vào Hoa Kỳ. Bộ luật liên bang Hoa Kỳ 21 CFR ( Code of Federal Regulations), quy định từ ngày 18/12/1997 chỉ có các doanh nghiệp nước ngoài nào đã thực hiện kế hoạch HACCP có hiệu quả mới được đưa hàng thuỷ sản vào Hoa Kỳ. HACCP ( Hazard Analysis Control Critical Point - Hệ thống phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn) là một kế hoạch quản lý chất lượng theo cách tiếp cận mang tính phòng ngừa nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm và chất lượng thực phẩm thông qua việc phân tích mối nguy và thực hiện các biện pháp kiểm soát tại các điểm kiểm soát tới hạn. Kế hoạch HACCP nhấn mạnh vai trò của nhà sản xuất, thường xuyên ngăn ngừa và xử lý kịp thời những mối nguy có thể xâm nhập vào sản phẩm từ khâu nguyên liệu tới sản phẩm cuối cùng. Quy định này yêu cầu phải phân tích, kiểm soát dây chuyền công nghệ sản xuất tại các điểm kiểm soát trong suốt quá trình để đảm bảo sản phẩm an toàn, vệ sinh, thay cho phương pháp kiểm soát sản phẩm cuối cùng đã được áp dụng trước đây. US FDA là cơ quan có thẩm quyền kiểm tra chương trình HACCP. Họ có trách nhiệm kiểm tra điều kiện vệ sinh của nhà máy, xí nghiệp, xem xét các chương trình HACCP, lấy mẫu và phân tích các sản phẩm cuối cùng. Các cơ quan giám định có thẩm quyền của quốc gia xuất khẩu sẽ ký và cấp giấy chứng nhận vệ sinh. Giấy này được gửi kèm mỗi chuyến giao hàng. Các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản muốn xuất hàng sang Hoa Kỳ cần phải lập kế hoạch HACCP cho sản phẩm xuất khẩu của mình và gửi cho cơ quan FDA của Hoa Kỳ trước mỗi chuyến giao hàng thông qua nhà nhập khẩu. 2.5.1.1 Quy trình chấp nhận an toàn vệ sinh sản phẩm thuỷ sản nhập khẩu vào Hoa Kỳ: Đánh giá tính an toàn vệ sinh đối với sản phẩm thuỷ sản bằng tập hợp các chỉ tiêu phản ánh các mối nguy an toàn thực phẩm đối với người tiêu dùng như: -          Về vật lý: tồn tại mảnh kim loại, thuỷ tinh, vật sắc nhọn… -          Về hoá học: dư lượng kim loại nặng, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kích thích sinh sản và sinh trưởng, thuốc chữa bệnh cho thuỷ sản, độc tố từ thức ăn nuôi thuỷ sản như aflatoxin, các hoá chất bảo quản, chất tẩy rửa và khử trùng, các chất phụ gia và phẩm màu… -          Về sinh học: ký sinh trùng, virút, vi sinh vật gây bệnh, tảo có độc tố và độc tố sinh học.  Các nhân tố trên sẽ gây hại ngay hoặc tích tụ sau một thời gian sử dụng, ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ người tiêu dùng, làm họ không những khó hấp thụ được nguồn dinh dưỡng của sản phẩm mà còn phải chịu hậu quả nghiêm trọng đến sức khoẻ, tính mạng và nhiều khi gây ra đại dịch. Quy trình cho phép nhập khẩu thuỷ sản vào Hoa Kỳ được chia thành 2 giai đoạn: Giai đoạn 1: FDA chấp nhận từng doanh nghiệp: -          Doanh nghiệp tự mình thông qua nhà nhập khẩu đệ trình kế hoạch kiểm soát an toàn trong chế biến thuỷ sản ( HACCP) bao gồm cả nội dung kiểm soát các mối nguy trong thuỷ sản nuôi trồng cho FDA. -          FDA xem xét kế hoạch HACCP, khi cần có thể cử thanh tra đến kiểm tra, nếu đạt yêu cầu thì cho phép doanh nghiệp đó được nhập khẩu thuỷ sản vào Hoa Kỳ. -          FDA kiểm tra từng lô hàng nhập khẩu. Nếu phát hiện không đảm bảo an toàn hoặc có các vi phạm về ghi nhãn, về tạp chất, lô hàng sẽ bị FDA từ chối nhập khẩu hoặc yêu cầu huỷ bỏ tại chỗ, đồng thời tên doanh nghiệp sẽ được đưa lên mạng Internet theo chế độ cảnh báo nhanh. 5 lô hàng tiếp theo của doanh nghiệp này sẽ tiếp tục bị tự động giữ ở cảng nhập để kiểm tra. Sau khi 5 lô hàng này đảm bảo an toàn và doanh nghiệp có đơn đề nghị, FDA mới bỏ tên doanh nghiệp đó ra khỏi mạng cảnh báo. Giai đoạn 2:  Công nhận ở cấp quốc gia, thông qua ký kết văn bản ghi nhớ MOU (Memozandum Of Understanding) là văn bản ghi nhớ giữa FDA và cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm soát an toàn thuỷ sản ở nước xuất khẩu. Nếu nước xuất khẩu đã ký được MOU với Hoa Kỳ thì cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu tự chỉ định các doanh nghiệp được đưa thuỷ sản vào Hoa Kỳ mà không cần xuất trình HACCP. Các quy định về HACCP của FDA đặc biệt tham chiếu đến các nguyên tắc vệ sinh GMP (Good Manufacturing Practices – Các quy phạm sản xuất tốt). GMP dựa trên các quy định cơ bản về vệ sinh cho các nhà sản xuất thực phẩm tại Hoa Kỳ. Các nguyên tắc này nhằm ngăn chặn những khả năng nhiễm bẩn của thực phẩm theo những thói quen không vệ sinh. HACCP không những chỉ yêu cầu các điểm kiểm soát tới hạn phải  được xác định và được kiểm soát nhằm ngăn chặn những nguy cơ, mà cả 10 lĩnh vực về vệ sinh cũng cần phải được kiểm soát là: Nhân sự : kiểm soát bệnh tật, vệ sinh cá nhân của người lao động; Giáo dục, huấn luyện: đủ kiến thức, kinh nghiệm về vệ sinh và an toàn thực phẩm; Nhà máy và khuôn viên: được bảo đảm trong điều kiện chống nhiễm bẩn  thực phẩm; Xây dựng và thiết kế nhà máy: hỗ trợ việc duy trì và xử lý vệ sinh; Các thao tác vệ sinh: liên quan đến khía cạnh vật chất và các chất liệu dùng trong lau chùi, vệ sinh, chứa đựng thực phẩm, kiểm soát thú nuôi, các thiết bị chế biến; Các thiết bị vệ sinh và các thiết bị kiểm soát: như nguồn nước, hệ thống nước, hệ thống chất thải, các thiết bị rửa tay, nhà vệ sinh, thùng chứa chất thải…; Thiết bị và các dụng cụ: thiết bị và dụng cụ được thiết kế dễ dàng cho việc thực hiện vệ sinh; Chế biến và kiểm soát: tuân thủ các nguyên tắc vệ sinh trong kiểm tra, vận chuyển, đóng gói, sản xuất… Sản xuất và kiểm soát chế biến: liên quan đến nhà kho và phân phối;  Các mức độ hoạt động sai sót: các sai sót tự nhiên hoặc không tránh khỏi cho người sử dụng không dẫn đến các nguy cơ cho sức khỏe. Nếu như những điểm này không được kiểm soát, sản phẩm cũng có thể được coi là “không đủ tiêu chuẩn". 2.5.1.2 Quy định về kiểm soát dư lượng hoá chất trong các sản phẩm thuỷ  sản           Các chất kháng sinh khi nhiễm vào thực phẩm sẽ có nguy cơ làm cho cơ thể trở nên nhạy cảm hơn đối với kháng sinh (dị ứng thuốc) hoặc nhờn thuốc, một số chất có thể gây bệnh ung thư, thiếu máu, gây hại cho sức khoẻ người tiêu dùng. Do vậy các thị trường nhập khẩu đã ban hành các qui định cấm hoàn toàn hoặc khống chế dư lượng tối đa của chúng trong thực phẩm. Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (US FDA) cho biết, thông thường ở nhiều nước khác trong nuôi trồng thuỷ sản trừ những loại kháng sinh bị cấm còn các loại kháng sinh khác đều được phép sử dụng. Ngược lại, ở Hoa Kỳ, trừ những loại kháng sinh được phép sử dụng còn lại tất cả các loại kháng sinh khác đều bị cấm. Ở nước này, hiện nay chỉ có 6 loại kháng sinh được phép sử dụng. FDA còn chỉ rõ các loại kháng sinh đó do công ty dược phẩm nào cung cấp và qui định cụ thể đối tượng, điều kiện và cách thức sử dụng của từng loại. Sáu loại kháng sinh đó là: -           Chorionic gonadotropin -           Formalin solution -           Tricaine methanesulfonate -           Oxytetracyline -           Sulfamerazine -          Hỗn hợp sulfadimethoxine/ ormetoprim. Ngoài ra, FDA còn có một danh mục 18 loại khác không phải kháng sinh hiện đang được phép sử dụng trong nuôi trồng thuỷ sản. Danh mục này gồm: - Axít acetic - Papain - Calcium chloride - Potassium chloride - Calcium oxide - Povidone iodine - Carbon dioxide gas - Sodium bicarbonate - Fuller’s earth - Sodium chloride - Tỏi (cả củ) - Sodium sulfite - Hydrogen peroxide - Thiamine hydrochloride - Ice - Axít uric và tannic - Hành (cả củ) - Magnesium sulfate Nếu sản phẩm bị phát hiện là có dư lượng kháng sinh không được phép sử dụng sẽ bị cấm bán ở các bang đã phát hiện ra và cấm nhập khẩu trong một thời gian. Tất cả các hồ sơ và thông tin liên quan đến phân phối, mua bán thuỷ sản hoặc tất cả các loại thực phẩm có chứa thủy sản nhập khẩu từ nước có sản phẩm liên quan phải được lưu giữ trong 2 năm và sẵn sàng để kiểm tra. Mới đây nhất, ba bang của Hoa Kỳ gồm Alabama, Mississippi và Louisiana đã ra lệnh ngưng bán cá tra philê nhập khẩu từ Việt Nam để điều tra an toàn thực phẩm vì cho rằng cá tra philê Việt Nam có chất kháng sinh bị cấm. Chất kháng sinh được tìm thấy trong cá là fluoroquinolone, một chất được phép sử dụng cho người, nhưng Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ và FDA đã cấm sử dụng nó trong thực phẩm vì họ lo ngại rằng thuốc sẽ khiến cho một số bệnh trở nên dễ kháng thuốc hơn. Trong khi EU chỉ giới hạn ở ngưỡng nhất định, thì (FDA) đã cấm hoàn toàn sự có mặt của chất này trong thủy sản nhập khẩu. Hàm lượng thuỷ ngân trong cá ngừ Cơ quan bảo vệ môi trường sẽ kiểm tra sản phẩm bán tại các bang để theo dõi hàm lượng thuỷ ngân trong cá ngừ, cá kiếm. Họ đã cảnh báo người dân không nên ăn quá nhiều cá ngừ, đặc biệt là phụ nữ mang thai, nếu hàm lượng thuỷ ngân trong cá ngừ vượt quá mức cho phép của liên bang. Họ cho rằng nếu hấp thu vào cơ thể trong nhiều năm, hàm lượng thuỷ ngân có thể gây ra những vấn đề liên quan đến hệ thần kinh và quá trình phát triển của thai nhi và trẻ nhỏ. Các mức xử lý đối với thực phẩm có khuyết tật Không có các quy định cụ thể về độ bẩn cho phép trong thực phẩm. FDA coi thực phẩm là bị kém phẩm chất nếu trong thực phẩm có chất bị nhiễm bẩn, bị phân huỷ, thối rữa toàn bộ hoặc từng phần. Tuy nhiên, sản phẩm không bị coi là có chất bẩn, nếu các tạp chất này ở dưới mức tối thiểu sau khi đã dùng mọi biện pháp phòng trừ. FDA quy định các mức xử lý đối với khiếm khuyết trong thực phẩm qua mức độ nhiễm bẩn để quản lý an toàn thực phẩm. Các mức này được quy định sao cho không gây hại sức khoẻ và có thể được FDA thay đổi. Bất kỳ sản phẩm nào có thể gây hại cho người tiêu dùng, hoặc được sản xuất trong điều kiện vi phạm các quy định của GMP đều sẽ bị xử lý, dù cho có vượt quá mức khiếm khuyết cho phép hay không. 2.5.1.3 Quy định của Hoa Kỳ về kiểm dịch a. Quy định về phụ gia Theo luật FDA, bất kỳ chất nào được sử dụng trong sản xuất, chế tạo, đóng gói, chế biến, xử lý, bao gói, vận chuyển, hoặc lưu giữ thực phẩm, đều có thể coi là phụ gia thực phẩm, trừ các chất được các chuyên gia công nhận là an toàn, các chất được sử dụng phù hợp với phê chuẩn trước đó của FDA theo Luật kiểm tra sản phẩm gia cầm và Luật kiểm tra thịt. Nếu người nhập khẩu hoặc xuất khẩu nước ngoài không chắc chắn là các hoá chất hoặc các thành phần có trong thực phẩm của mình có phải tuân thủ những yêu cầu an toàn đối với phụ gia thực phẩm hay không, thì có thể xem trong điều luật 21 CFR -171. Việc phê chuẩn của FDA đối với chất phụ gia được tiến hành qua các nghiên cứu và thí nghiệm khoa học. Khi FDA phê duyệt trước khi đưa hàng vào lưu thông trên thị trường đối với một chất phụ gia, FDA cũng đồng thời đưa ra các quy định cho phép và giới hạn sử dụng chất phụ gia có trong thực phẩm. Một chất được phép sử dụng theo các quy định về phụ gia thực phẩm vẫn phải tuân thủ tất cả các quy định chung của luật FDCA (Luật về thực phẩm, dược phẩm và Mỹ). b. Quy định về phẩm mầu thực phẩm Phẩm mầu thực phẩm có thể là thuốc nhuộm, chất nhuộm, hoặc các chất khác, được sản xuất tổng hợp hay bào chế từ thực vật, động vật, khoáng sản, hoặc các nguồn khác mà tạo ra màu khi được trộn vào hoặc phủ trên thực phẩm. Thực phẩm chứa các chất phẩm màu chưa được xác nhận là an toàn đối với một mục đích sử dụng nhất định theo các điều kiện của FDA thì bị coi là giả, kém phẩm chất theo Luật FDCA. Danh mục các chất phẩm màu đã được phê duyệt và các điều kiện sử dụng an toàn, trong đó có nêu cả liều lượng sử dụng, được nêu trong điều luật 21 CFR 73, 74 và 81. Trừ những trường hợp được phép đặc biệt, tất cả các loại phẩm mầu phải được FDA kiểm tra và chứng nhận trước khi đưa vào chế biến thực phẩm. Việc chứng nhận của FDA không giới hạn riêng đối với các nhà sản xuất Hoa Kỳ. FDA có thể xem xét chứng nhận theo yêu cầu của nhà sản xuất nước ngoài, nếu có đơn yêu cầu chứng nhận của người sản xuất nước ngoài hoặc của người đại diện tại Hoa Kỳ. Việc chứng nhận chất phẩm mầu do một cơ quan nước ngoài tiến hành không được chấp nhận thay thế cho chứng nhận của FDA. Nếu cần, người kinh doanh có thể gửi yêu cầu chứng nhận phẩm mầu hay yêu cầu cung cấp thông tin liên quan đến thủ tục chứng nhận cho Phòng kỹ thuật màu (Division of Color Technology) thuộc FDA.  2.5.2 Quy định của Hoa Kỳ về nhãn mác Luật pháp Hoa Kỳ quy định các nhãn hiệu hàng hoá phải được đăng ký tại Cục Hải quan Hoa Kỳ. Đạo luật về nhãn hiệu năm 1946 cấm nhập khẩu những sản phẩm làm nhái theo những thương hiệu đã được đăng ký tại Hoa Kỳ, hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn. Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã đăng ký bản quyền đều bị cấm nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Hàng nhập khẩu không đáp ứng yêu cầu về ghi mác sẽ bị giữ ở khu vực Hải quan Hoa Kỳ cho tới khi người nhập khẩu thu xếp tái xuất trở lại hoặc phá huỷ.      Nếu nhãn hàng có ghi bằng tiếng nước ngoài, thì trên nhãn đó vẫn phải ghi cả bằng tiếng Anh tất cả các thông tin theo quy định. Tất cả thực phẩm nhập khẩu phải ghi bằng tiếng Anh tên nước xuất xứ. Điều luật 21 CFR-101 quy định chi tiết về kích cỡ, thể loại, vị trí… của các thông tin ghi trên nhãn hàng như: + Tên và địa chỉ đầy đủ của người sản xuất, người đóng gói hoặc người phân phối. Có thể không cần ghi địa chỉ nếu công ty đó có tên niêm yết trong thành phố đó, hoặc có tên trong danh bạ điện thoại. Nếu thực phẩm không phải do người, công ty có tên trên nhãn hàng sản xuất, thì tên công ty phải ghi thêm “manufactured for” sản xuất cho, “distributed by” phân phối bởi, hoặc các chữ tương tự. + Ghi chính xác số lượng thực phẩm bên trong. Khối lượng phải theo đơn vị đo lường Anh- Hoa Kỳ là pound (1 pound =0,454kg), và ga lông Hoa Kỳ (1 ga lông = 3,79 lít). Hệ đo lường Mét có thể được ghi thêm cùng với hệ đo lường Anh- Hoa Kỳ. Luật có các quy định cụ thể, chi tiết về vị trí, kích cỡ… và cách ghi trọng lượng tịnh. + Tên thông thường của sản phẩm phải được ghi trên mặt chính, cùng với hình dạng của sản phẩm ví dụ như: thái miếng, nguyên con, thái lát… + Các thành phần ghi trên nhãn của một thực phẩm là các chất được dùng làm nguyên liệu trộn vào khi chế biến sản phẩm đó. Nếu một thành phần nào đó được coi là đặc tính của thực phẩm đó, thì có thể phải ghi tên thành phần đó cùng với tên thực phẩm đó. Phụ gia thực phẩm và phẩm mầu được coi là các thành phần của thực phẩm trừ đối với bơ, phomát và kem. Ngoài ra, nhãn hàng thực phẩm phải có thông tin về dinh dưỡng nhằm giúp cho người tiêu dùng lựa chọn thực phẩm phù hợp và tốt cho sức khoẻ của mình. Điều luật 21 CFR -101 quy định rất cụ thể và đầy đủ các thông tin cần có trên nhãn hàng.Các quy định về ghi thành phần dinh dưỡng đã được sửa đổi bổ sung đầy đủ hơn từ năm 1993. Những điều khoản và yêu cầu mới có hiệu lực từ 8/5/1994. Yêu cầu tối thiểu được quy định trong điều luật 21 CFR - 101.9 bao gồm các nội dung như sau: + Liều lượng dùng và số lần dùng của mỗi đơn vị bao gói. + Tổng lượng calo và lượng calo từ chất béo mỗi lần dùng. + Tổng lượng chất béo và chất béo no( saturated) tính theo gam, tổng lượng cholesterol và natri( miligram), tổng lượng carbohydrate, dietary fiber, đường và protein tính bằng gam mỗi lần dùng. + Phần trăm của tất cả các thành phần liệt kê tính theo tỷ lệ cần cho cơ thể trong một ngày trên cơ sở lượng calo cần thiết hàng ngày là 2.000 calo. + Tỷ lệ % trong mức khuyến cáo tiêu thụ hàng ngày của Hoa Kỳ của một số loại vitamin và chất khoáng của một lần dùng. + Ghi các trị giá cần hàng ngày, các trị giá kiến nghị tính bằng gam hoặc miligam tuỳ theo từng thành phần như đối với chất béo, chất béo no, cholesterol, natri … cùng với lượng calo trên gam đối với chất béo, carbohydrate và protein. + Các chất dinh dưỡng khác được coi là thành phần cơ bản trong thức ăn của người có thể được liệt kê nếu những chất này chiếm ít nhất 2% tỷ lệ khuyến cáo tiêu thụ hàng ngày của Hoa Kỳ. Quy định mới của Hoa Kỳ về nhãn hàng sản phẩm Kể từ ngày 1/1/2006, bất kỳ loại thực phẩm nào có chứa các thành phần trong đó có prôtêin trong cá và thủy sản có vỏ sẽ phải được ghi nhãn rõ ràng theo quy định mới của Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA). Quy định này yêu cầu sản phẩm thực phẩm phải ghi nhãn cảnh báo nếu sản phẩm đó có bất kỳ thành phần nào có prôtêin xuất xứ từ 8 loại thực phẩm gây dị ứng chính. Theo quy định của Luật Ghi nhãn dị ứng thực phẩm và Bảo vệ người tiêu dùng 2004 (FALCPA), các nhà sản xuất buộc phải ghi rõ bằng tiếng Anh tất cả các thành phần có chứa prôtêin xuất xứ từ sữa, trứng, cá, thủy sản giáp xác, quả hạch, lạc/đậu phộng, lúa mì và đậu nành trên nhãn sản phẩm. Tên của các nguồn gây dị ứng được ghi đằng sau dòng chữ “contains” (có chứa) và đặt sau hoặc liền kề danh mục các thành phần thực phẩm. Ví dụ như, nếu sản phẩm đó có sử dụng prôtêin xuất xứ từ cá, thì nguồn prôtêin như cá vược, cá bơn, cá tuyết hoặc cá minh thái phải được ghi trên nhãn. Đối với thủy sản có vỏ như tôm hùm, cua, tôm cũng phải được ghi rõ nguồn prôtêin. 2.5.3 Quy định của Hoa Kỳ về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm Quy định 21CFR 103-169 nêu chi tiết các tiêu chuẩn thực phẩm của FDA. Tiêu chuẩn về nhận diện sản phẩm (standards of identify) định nghĩa các loại thực phẩm, xác định tên gọi, các thành phần và các yêu cầu về nhãn mác. Tiêu chuẩn về chất lượng (standards of quality) là các tiêu chuẩn tối thiểu về chất lượng trên mức yêu cầu theo luât FDCA. Không nên lẫn lộn các tiêu chuẩn chất lượng của FDA với các phẩm cấp sản phẩm nông nghiệp của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (US DA) và các phẩm cấp thuỷ sản của Bộ Nội vụ (US DI). Tiêu chuẩn đổ đầy (fill-of-container standards) qui định phải đóng đầy đến mức nào và cách đo như thế nào. Nếu nhập khẩu một loại thực phẩm đã có tiêu chuẩn nhận diện sản phẩm được ban hành, thì phải tuân theo mọi quy cách nêu trong tiêu chuẩn đó. Nếu thực phẩm nhập khẩu không đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng và tiêu chuẩn đổ đầy, bạn cần ghi trên nhãn hàng là hàng tiêu chuẩn phụ (substandard). FDA không yêu cầu ghi phẩm cấp của US DA hoặc US DI trên nhãn hàng thực phẩm, nhưng nếu trên nhãn hàng có ghi các phẩm cấp này thì sản phẩm phải phù hợp với các quy cách của phẩm cấp đó. Điều kiện "Funcy" hoặc "Grade A" chỉ được ghi trên nhãn hàng của các sản phẩm thoả mãn các quy cách của US DA đối với phẩm cấp đó. a. Quy định đối với thực phẩm đóng hộp Các cơ sở sản xuất và xuất khẩu nước ngoài nếu muốn xuất khẩu các loại thực phẩm đóng hộp có hàm lượng axít thấp và thực phẩm axít hóa phải đăng ký và thông báo với FDA về qui trình sản xuất đối với từng loại sản phẩm của mình trước khi giao hàng sang Hoa Kỳ, nếu không hàng đến cảng sẽ không được phép nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Sau khi đăng ký, FDA sẽ cấp cho cơ sở sản xuất Số đăng ký Cơ sở đóng hộp thực phẩm (FCE No) và ghi tên cơ sở trong danh sách các cơ sở nước ngoài đã đăng ký với FDA. Các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ có thể yêu cầu FDA cung cấp danh sách này để họ liên hệ hoặc có căn cứ để ký hợp đồng nhập khẩu. Tuy nhiên, hàng thuộc diện phải đăng ký theo qui định này vẫn phải chịu sự kiểm tra của FDA tại cảng đến Hoa Kỳ theo Luật FDCA trước khi được phép nhập khẩu vào thị trường. Thực phẩm đóng hộp có hàm lượng axít thấp là những sản phẩm như đậu xanh, nấm, và cá ngừ được đóng trong hộp hàn kín có độ pH lớn hơn 4,6 và hoạt tính nước (water activity) lớn hơn 0,85. Thực phẩm được axít hóa là các loại thực phẩm có hàm lượng axít thấp được bổ sung axít để giảm độ pH xuống 4,6 hoặc thấp hơn. Mục đích của việc đăng ký này là nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm, tránh tác hại của các loại vi khuẩn gây hại hoặc các độc tố của chúng, đặc biệt là loại vi khuẩn C (Clostridium botulinum) có thể gây chết người. Thực phẩm đóng hộp có hàm lượng axít thấp là môi trường rất thuận lợi cho vi khuẩn Clostridium botulinum phát triển. Thực phẩm được chế biến theo những phương pháp và qui trình thích hợp sẽ tránh được sự phát triển của loại vi khuẩn này. Theo FDA, khi sản phẩm được axít hóa đến độ pH 4,6 hoặc thấp hơn thì có thể đảm bảo ngăn chặn được sự phát triển của vi khuẩn Clostridium botulinum. Các cơ sở sản xuất nước ngoài có thể tiến hành đăng ký trực tiếp với FDA bằng cách điền các thông tin vào các biểu mẫu của FDA và gửi đến cho FDA hoặc uỷ nhiệm cho người nhập khẩu tại Hoa Kỳ đăng ký với FDA. Trong trường hợp uỷ nhiệm cho đại diện tại Hoa Kỳ đăng ký thì trong bộ hồ sơ đăng ký gửi FDA phải kèm theo thư uỷ nhiệm đăng ký của cơ sở sản xuất nước ngoài. FDA khuyến nghị các cơ sở sản xuất trực tiếp điền các biểu mẫu đăng ký vì đôi khi đại lý không hiểu hết qui trình sản xuất của cơ sở. Trong trường hợp các biểu mẫu do đại lý điền thì cơ sở sản xuất phải kiểm tra và chuẩn y các thông tin điền trong các biểu mẫu trước khi gửi đến cho FDA. Mẫu đăng ký cơ sở sản xuất số FDA 2541, và các mẫu báo cáo qui trình sản xuất số FDA 2541a (đối với tất cả các phương pháp trừ hệ thống đóng gói axít thấp vô trùng) và số FDA 2541c (đối với hệ thống đóng gói axít thấp vô trùng) có thể in từ trang web của FDA tại địa chỉ: Các nhà chế biến và xuất khẩu thực phẩm có hàm lượng axít thấp hoặc axít hóa có thể tránh được bị chậm trễ trong khâu làm thủ tục n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docRào cản trong cạnh tranh của ngành thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.doc
Tài liệu liên quan