Đề tài Sản xuất cao su hàng hóa trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

MỤC LỤC

Lời cam đoan i

Lời cảm ơn ii

Tóm lược luận văn iii

Danh mục các sơ đồ, hình vẽ iv

Danh mục các bảng v

Mục lục vi

PHẦN MỞ ĐẦU 1

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 2

3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2

4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI 3

PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 4

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA 4

1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA 4

1.1.1. Khái niệm về sản xuất hàng hóa 4

1.1.2 Ý nghĩa của sản xuất hàng hóa 5

1.1.3. Sản xuất hàng hóa nông sản 6

1.1.3.1. Khái niệm sản xuất nông sản hàng hóa 6

1.1.3.2. Đặc điểm của sản xuất hàng hóa nông sản 7

1.1.3.3. Những đặc trưng của nông sản hàng hóa 7

1.2. GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA CAO SU 11

1.3. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ CÁC YÊU CẦU KỸ THUẬT ĐỐI VỚI CÂY CAO SU 12

1.3.1. Đặc điểm sinh học 12

1.3.2. Yêu cầu kỹ thuật đối với cây cao su 15

1.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SẢN XUẤT CAO SU HÀNG HÓA 17

1.4.1. Các nhân tố vĩ mô 17

1.4.2. Các nhân tố vi mô 20

1.5. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ CAO SU TRÊN THẾ GIỚI VÀ TẠI VIỆT NAM 21

1.5.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ cao su trên thế giới 21

1.5.1.1. Tình hình sản xuất 21

1.5.1.2. Tình hình tiêu thụ và xuất khẩu cao su 22

1.5.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ cao su ở Việt Nam 24

1.6. HỆ THỐNG CÁC CHỈ TIÊU NGHIÊN CỨU 26

CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CAO SU TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH THỪA THIÊN HUẾ 29

2.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 29

2.1.1. Điều kiện tự nhiên 29

2.1.1.1. Vị trí địa lý 29

2.1.1.2. Địa hình 30

2.1.1.3. Đặc điểm khí hậu thủy văn 31

2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 33

2.1.2.1. Tình hình sử dụng đất đai 33

2.1.2.2. Tình hình dân số, lao động 34

2.1.2.2. Tình hình cơ sở hạ tầng 35

2.2 TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CÂY CAO SU TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH THỪA THIÊN HUẾ 37

2.2.1. Tình hình phát triển diện tích cao su của tỉnh 37

2.2.2. Cơ cấu các loại giống cao su trồng trên địa bàn tỉnh 39

2.2.3. Biến động sản lượng, năng suất cao su trên địa bàn tỉnh 40

2.3. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CAO SU HÀNG HÓA CỦA CÁC HỘ ĐIỀU TRA 41

2.3.1. Năng lực sản xuất của các hộ điều tra 41

2.3.2. Quy mô, cơ cấu diện tích cao su của các hộ điều tra 42

2.3.3. Tình hình đầu tư cho 1 ha cao su 44

2.3.3.1. Chi phí đầu tư cho 1 ha cao su thời kỳ kiến thiết cơ bản 44

2.3.3.2. Chi phí 1 ha cao su thời kỳ kinh doanh 49

2.3.4. Năng suất, sản lượng mủ cao su của các hộ điều tra 50

2.3.5. Kết quả và hiệu quả sản xuất cao su hàng hóa của các hộ điều tra 53

2.4. TÌNH HÌNH TIÊU THỤ CAO SU HÀNG HÓA TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH THỪA THIÊN HUẾ 54

2.5. TỶ XUẤT HÀNG HÓA CỦA CÁC HỘ ĐIỀU TRA NĂM 2008 60

2.6. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SẢN XUẤT CAO SU HÀNG HÓA ĐỐI VỚI CÁC NÔNG HỘ 61

2.6.1. Các nhân tố vĩ mô 61

2.6.1.1. Chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển cao su tiểu điền 61

2.6.1.2. Sự phát triển cơ sở hạ tầng 64

2.6.1.3. Công tác quy hoạch của tỉnh Thừa Thiên Huế đối với sản xuất cao su 64

2.6.1.4. Nhu cầu thị trường về sản phẩm cao su 65

2.6.1.5 Sự phát triển của hệ thống dịch vụ 66

2.6.1.6 .Tác động của tình hình hội nhập kinh tế quốc tế đến với sản xuất cao su hàng hóa khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) 67

2.6.2. Các nhân tố vi mô 70

2.6.2.1. Ảnh hưởng của quy mô diện tích đến hiệu qủa sản xuất của nông hộ 70

2.6.2.2. Ảnh hưởng của mức độ đầu tư đến sản xuất cao su hàng hóa 72

2.6.2.3. Đánh giá chung của nông hộ về mức độ quan trọng của các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất cao su hàng hóa ở các xã điều tra 74

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT CAO SU HÀNG HÓA 78

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ 78

3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CAO SU HÀNG HÓA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ 78

3.1.1 Những căn cứ định hướng phát triển trong thời gian tới 78

3.1.2 Những định hướng cơ bản nhằm phát triển cao su hàng hóa trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế 80

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT CAO SU HÀNG HÓA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ 82

3.2.1. Giải pháp phục vụ cho phát triển sản xuất 83

3.2.1.1. Nhóm giải pháp tổng thể 83

3.2.1.2. Nhóm giải pháp cụ thể 84

3.2.2. Giải pháp về thị trường 87

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 89

I. KẾT LUẬN 89

II. KIẾN NGHỊ 90

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

 

doc106 trang | Chia sẻ: lethao | Lượt xem: 1815 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sản xuất cao su hàng hóa trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Cây cao su có mặt trên đất Thừa Thiên Huế từ năm 1993, theo các dự án trong Chương trình 327, phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Lúc đầu, các hộ nông dân trực tiếp thực hiện dự án ở các huyện Phong Điền, Hương Trà, Nam Đông, A Lưới cũng không mấy tin tưởng vào hiệu quả kinh tế của cây cao su. Thế nhưng, điều bất ngờ thú vị đã xảy ra, cây cao su bén duyên rất nhanh trên đất Thừa Thiên Huế. Nhiều vùng đất xưa kia nghèo khó, chỉ sau hơn 10 năm trồng cao su đã trở nên giàu có hơn, như vùng kinh tế mới Phú Mậu (Nam Đông), các xã vùng gò đồi Phong Mỹ, Phong Xuân, Phong Sơn (Phong Điền); Hương Vân, Hương Bình, Bình Điền (Hương Trà)... Gần 6.000 hộ gia đình nghèo ở vùng sâu vùng xa đã thoát nghèo, nhiều người vươn lên thành triệu phú, tỷ phú từ cây cao su. Vụ khai thác mủ cao su năm 2006, 2007 và 2008, nhiều hộ trồng cao su ở Hương Trà, Phong Điền, Nam Đông, A Lưới... đã có thu nhập trên 1 triệu đồng/ngày, bình quân toàn tỉnh thu 50 triệu đồng/ha/năm. Chính từ hiệu quả kinh tế thiết thực nên diện tích trồng cao su ở Thừa Thiên Huế được nhân rộng rất nhanh. Nếu giai đoạn 1993 - 1997, toàn tỉnh trồng được 1.600ha, thì đến giữa năm 2007, diện tích này đã lên đến 8.500ha, tập trung nhiều nhất là huyện Nam Đông với gần 3.000ha, Phong Điền 2.500ha, Hương Trà 2.500ha... Diện tích cao su được khai thác trong năm 2007 là gần 3.500ha, sản lượng mủ khô trên 3.000 tấn và kim ngạch xuất khẩu cao su đạt hơn 7 triệu USD/năm. Có thể nói, cây cao su đang trở thành cây trồng chủ lực trong xóa đói giảm nghèo ở Thừa Thiên Huế, bởi chưa một loại cây trồng nào ở Thừa Thiên Huế có tốc độ nhân rộng diện tích nhanh và đem lại hiệu quả kinh tế cao như cây cao su. Loại cây này đã thế chỗ cho rất nhiều cây trồng truyền thống hiện nay như sắn, mía, chè, tiêu... ở huyện Nam Đông và Phong Điền. Nhờ có cây cao su mà một xã như Phong Mỹ nghèo nhất tỉnh Thừa Thiên Huế trước đây, sau hơn 10 năm gắn bó với cây cao su nay đã vươn lên thành địa phương có thu nhập tính theo đầu người cao nhất huyện Phong Điền. Sau gần 15 năm có mặt trên đất Thừa Thiên Huế, cây cao su đã khẳng định được vị thế trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng chủ lực của địa phương, khẳng định vị thế của nông nghiệp hàng hóa, là “cây vàng” của hàng ngàn hộ dân trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên, để cây cao su phát huy hiệu quả kinh tế lâu dài, bền vững, tỉnh Thừa Thiên Huế cần phải có một chiến lược định hướng, quy hoạch cụ thể về quỹ đất để phát triển cũng như chuyển giao công nghệ trồng, khai thác, chế biến, phân phối, tiêu thụ, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ, tránh tình trạng phát triển ồ ạt theo phong trào, khi rớt giá lại chặt phá như một số loại cây trồng trước đây. Để có thể mô tả, đánh giá khái quát tình hình sản xuất và tiêu thụ cao su trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách phát triển của tỉnh, tôi quyết định chọn đề tài “Sản xuất cao su hàng hóa trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế” làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Mục tiêu tổng quát Mục tiêu tổng quát là đánh giá thực trạng hình hình sản xuất cao su trên địa bàn theo hướng sản xuất hàng hóa tỉnh Thừa Thiên Huế, trên cơ sở đó đề xuất những hướng giải pháp nhằm đẩy mạnh khả năng sản xuất cao su trên địa bàn tỉnh. Mục tiêu cụ thể Đánh giá thực trạng cũng như kết quả, hiệu quả sản xuất cao su trên địa bàn từ đó tìm ra nguyên nhân tác động đến công tác sản xuất cao su nói chung và cao su hàng hóa nói riêng. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và tiêu thụ mủ cao su trong thời gian tới. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp duy vật biện chứng để xem xét các sự vật hiện tượng trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau có tính khách quan, logic và khoa học. Phương pháp phân tổ thống kê để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến kết quả và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của cây cao su. Phương pháp thu thập số liệu: Số liệu thứ cấp được thu thập thông qua nhiều nguồn khác nhau có liên quan như báo chí, báo cáo, sách, tạp chí... Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua phỏng vấn 90 hộ sản xuất cao su của 3 xã thuộc 3 huyện trên địa bàn tỉnh. Phương pháp tổng hợp số liệu thống kê: Để tổng hợp các số liệu thống kê sử dụng các phương pháp sau: + Tổng hợp, phân tích, so sánh các chỉ tiêu cơ bản của sản xuất nông nghiệp + Phân tổ thống kê + Sơ đồ, bảng biểu... Phương pháp phân tích ANOVA được dùng để kiểm định sự khác nhau về trị trung bình các ý kiến đánh giá của nông hộ điều tra về có hay không có sự khác nhau về mức độ quan trọng của cơ sở hạ tầng, chính sách của Nhà nước đối với nông hộ và năng lực của hộ sản xuất đến sản xuất cao su giữa các địa phương với nhau và giữa từng địa phương với mức trung bình của các đơn vị điều tra. Phương pháp phân tích chuỗi chung nhằm phân tích các khâu trung gian, các đầu mối thu mua và quá trình tạo lại giá trị qua các khâu. 4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI Đối tượng nghiên cứu Tình hình sản xuất cao su trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Phạm vi nghiên cứu + Về không gian Đề tài nghiên cứu tại 3 xã của 3 huyện: Xã Phong Mỹ huyện Phong Điền; xã Hương Bình huyện Hương Trà; xã Hương Hòa huyện Nam Đông. Đây là 3 xã có sản xuất cao su hàng hóa với số lượng lớn, còn ở các xã khác chủ yếu là đang ở thời kỳ kiến thiết cơ bản. + Về thời gian Đề tài được nghiên cứu từ tháng 6/2008 đến tháng 6/2009. PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA 1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA 1.1.1. Khái niệm về sản xuất hàng hóa Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế đó là sản xuất tự cung tự cấp và sản xuất hàng hóa. Sản xuất tự cung tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao động tạo ra nhằm thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất. Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế ở đó sản phẩm được sản xuất ra để trao đổi hoặc bán trên thị trường. Hai kiểu tổ chức đó đã đưa một sản phẩm chỉ đơn thuần là thỏa mãn nhu cầu của người sản xuất thành một hàng hóa trao đổi mua bán trên thị trường. Không phải bất cứ một sản phẩm nào được sản xuất ra đều được gọi là hàng hóa, nó chỉ được coi là hàng hóa khi có đủ những điều kiện sau đây: + Là sản phẩm của lao động sản xuất ra. + Thỏa mãn một hay một số nhu cầu nào đó của con người. + Được mua bán trao đổi trên thị trường. Một sản phẩm khi vượt qua ranh giới tự cung tự cấp được gọi là hàng hóa thì chỉ có hai con đường tồn tại hoặc không tồn tại, nếu nó được thị trường chấp nhận thì tồn tại còn nếu không thì ngược lại. Ngành sản xuất có hai trạng thái là tự cung tự cấp và sản xuất hàng hóa. Để sản xuất hàng hóa ra đời cần có hai điều kiện sau: Thứ nhất là phân công lao động xã hội, tức là phân chia lao động ra làm nhiều ngành, nghề khác nhau của nền sản xuất xã hội. Phân công lao động xã hội tạo ra sự chuyên môn hóa, do đó dẫn đến chuyên môn hóa sản xuất thành những ngành nghề khác nhau. Do phân công lao động xã hội nên mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một số sản phẩm nhất định. Nhưng nhu cầu tiêu dùng của con nguời thì vô hạn nên phải có sự trao đổi mua bán qua lại lẫn nhau giữa các thành phần sản xuất khác nhau. Thứ hai là có sự tách biệt tương đối về kinh tế của những người sản xuất tức là có sự quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất mà khởi thủy là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định được người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao động. Như vậy, chính sự quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những người sản xuất độc lập, đối lập nhau nhưng họ nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc nhau về sản xuất và tiêu dùng. 1.1.2 Ý nghĩa của sản xuất hàng hóa Sản xuất hàng hóa là hình thức sản xuất vượt qua được ngưỡng tự cung tự cấp, vượt qua được ngưỡng tự sản tự tiêu để hướng đến đáp ứng được nhu cầu của thị trường mà biểu hiện cao hơn nữa là đáp ứng được đa nhu cầu và khó tính của người tiêu dùng. Sản xuất hàng hóa là biểu hiện bên ngoài và rõ nét về sự phát triển chung của xã hội và mức độ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất. Sản xuất hàng hóa đang ngày càng hướng đến nhu cầu dựa vào tính hữu dụng, tính tự nhiên của vật phẩm, do áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật con người ngày càng cố gắng tìm ra những đặc tính riêng để đáp ứng hơn nữa nhu cầu riêng của tính hữu ích đó. Quá trình sản xuất đi từ sản xuất nhỏ lẻ chỉ đáp ứng được một số nhu cầu hiện hữu đến sự phát triển đại công nghiệp như ngày nay, người tiêu dùng đi từ sự “xếp hàng mua hàng” đến chức danh “thượng đế” mua hàng chính hiệu. Người tiêu dùng đang đứng trước sự lựa chọn đa dạng về mẫu mã, chất lượng, giá cả, hậu mãi sau bán hàng... phù hợp với yêu cầu và sở thích của mình. Hiện nay, nhà sản xuất không chỉ sản xuất và bán những cái mình có mà đi theo hướng sản xuất và bán những cái thị trường đang cần tức là sản xuất hướng nhu cầu người tiêu dùng. Sản xuất không những chỉ chạy theo số lượng mà đang ngày càng hướng đến chất lượng với mục tiêu “chất lượng là hàng đầu” với việc áp dụng khoa học công nghệ là nền tảng, là kim chỉ nam cho sự phát triển riêng lẽ. Sự phát triển của sản xuất xã hội với tính chất mở của các quan hệ hàng hóa tiền tệ làm cho giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển. Từ đó tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa nhân dân. 1.1.3. Sản xuất hàng hóa nông sản 1.1.3.1. Khái niệm sản xuất nông sản hàng hóa Nông nghiệp hàng hóa là một bộ phận của nền kinh tế hàng hóa, là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội sản xuất ra nông sản phẩm không phải để tự mình tiêu dùng mà để trao đổi, mua bán trên thị trường, nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội, vừa có lợi nhuận cho người sản xuất ra nó để tái sản xuất mở rộng và hiện đại hóa nền nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp hàng hóa là ngành sản xuất không những cung cấp lương thực, thực phẩm cho con người, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm mà còn sản xuất ra những mặt hàng có giá trị xuất khẩu, tăng thêm nguồn thu ngoại tệ. Hiện tại cũng như trong tương lai, nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội loài người, không ngành nào có thể thay thế được. Trên 40% số lao động trên thế giới đang tham gia vào hoạt động nông nghiệp. Đảm bảo an ninh lương thực là mục tiêu phấn đấu của mỗi quốc gia, góp phần ổn định chính trị, phát triển nền kinh tế [1]. Do nhu cầu phát triển của xã hội, tiếp cận và ứng dụng nhanh chóng của khoa học công nghệ nên sản xuất hàng hóa nông nghiệp càng ngày càng phát triển. Cho đến nay sản xuất hàng hóa nông sản không những chỉ sản xuất theo số lượng, sản xuất để trao đổi mà cũng đang dần theo xu thế sản xuất hàng hóa nông sản có giá trị cao trước thời kỳ hội nhập và phát triển. Nông sản hàng hóa có giá trị cao không chỉ dựa vào năng suất và chất lượng cao, giá thành hạ, mà sản lượng hàng hóa phải nhiều, phong phú, luôn sẵn sàng xuất bán cho thị trường trong và ngoài nước theo hợp đồng và đáp ứng ngay nhu cầu của thị trường mới kiến lập được. Tổ chức sản xuất nông nghiệp hợp lý là một trong những yếu tố quyết định để hóa giải khó khăn, phát huy thuận lợi nhằm đáp ứng yêu cầu trên. 1.1.3.2. Đặc điểm của sản xuất hàng hóa nông sản Một là tính đa dạng của phân công lao động và sản phẩm. Trong sản xuất hàng hóa, những nhóm ngành được chia thành những ngành vùng nhỏ hơn, mà quá trình phân công lao động, ngoài việc diễn ra trong nội bộ ngành, vùng còn có sự liên kết hợp tác chặt chẽ với công nghiệp dịch vụ đặc biệt là công nghiệp nông thôn và dịch vụ nông nghiệp. Hai là, nông nghiệp hàng hóa là nông nghiệp đa dạng, tổng hợp nhưng trên cơ sở tính đa dạng sinh học của vùng miền. Ba là, sản xuất hàng hóa nông nghiệp có sự khác biệt tương đối so với sản xuất hàng hóa công nghiệp, điều này thể hiện qua sự phân công lao động. Phân công lao động trong công nghiệp có sự phân công cao còn trong nông nghiệp bao giờ cũng kết hợp chuyên môn hóa với phát triển tổng hợp. Mặt khác nông nghiệp còn phụ thuộc vào thiên nhiên trong khi sản xuất công nghiệp sản xuất phụ thuộc vào thị trường. Sản xuất nông nghiệp hướng đến mùa vụ trong khi sản xuất công nghiệp hướng đến nhu cầu người tiêu dùng... Trong nền kinh tế hiện đại, sản xuất nông nghiệp trở thành ngành sản xuất nông sản hàng hóa [9]. 1.1.3.3. Những đặc trưng của nông sản hàng hóa Giá cả dễ biến động mạnh Giá cả của sản phẩm nông sản dễ thay đổi đáng kể và đột ngột trong vòng một ngày hoặc một tuần. Do không có công nghệ bảo quản và sơ chế nên hàng hóa nông sản đều được mua bán dưới dạng tươi sống và phạm vi phân phối hẹp. Mức độ biến động giá do nhu cầu điều phối kém hoặc do không thể bảo quản lâu mà phải bán ngay. Do đó, giá của sản phẩm nông sản có xu hướng giảm nhiều vào cuối ngày vì lúc này loại hàng hóa này bắt đầu hỏng. Hơn nữa khi có một lượng nông sản lớn đột ngột xâm nhập do tính chất thu hoạch đại trà và rầm rộ nên làm cung vượt quá cầu thị trường. Bên cạnh đó, giá nông sản hiện nay còn phụ thuộc vào nhu cầu thế giới thông qua con đường xuất nhập khẩu, ngoài yếu tố nội tại trong nước còn phụ thuộc rất lớn vào mức độ khan hiếm của cung cầu thị trường thế giới. Tính thời vụ Các sản phẩm nông nghiệp thường có thời vụ thu hoạch nhất định, hoặc theo từng chu kì nên giá cả hàng hóa nông sản lúc vào vụ thường rớt giá xuống thấp do lượng cung quá lớn nhưng sau đó lại được đẩy lên cao vào lúc khan hiếm hàng. Tính chất sinh học và tính thích nghi nên tạo mỗi loại cây trồng đều có những mùa vụ nhất định trong năm. Do đặc điểm khí hậu nước ta phân bố đều giữa các vùng miền nên việc gieo trồng và thu hoạch các nông sản thường vào một thời điểm giống nhau. Sản phẩm nông sản khi thu hoạch là những sản phẩm tươi sống có chu kỳ sống nhất định, nên không thể để được lâu nếu không sơ chế kịp thời. Những nông dân sản xuất nhỏ của nước ta không có phương tiện tồn kho, cất trữ và bảo quản thế là phải bán đi hầu hết đầu ra của mình vào lúc giá tương đối hạ. Dao động mạnh về giá giữa các năm Giá nông sản hàng hóa có thể dao động mạnh giữa các năm. Điều kiện tự nhiên như thời tiết, dịch bệnh là nguyên nhân chủ yếu gây ra dao động giá do tác động của nó tới cung. Do tính chất giá cả năm trước sẽ tác động mạnh đến quyết định việc đầu tư mở rộng hay thu hẹp quy mô của người sản xuất, cộng với tính mùa vụ của cây trồng sẽ ảnh hưởng đến giá cả khác nhau của từng năm. Phản ứng của nông dân đối với hiện tượng trên càng làm giá cả biến động mạnh hơn. Nông dân có thể phản ứng quá tích cực khi thấy giá cả của một mặt hàng nhất định tăng lên bằng cách mở rộng diện tích nuôi trồng và thâm canh sản xuất trong những vụ tiếp theo làm cho lượng cung vượt quá cầu dẫn tới giảm giá trong thời điểm thu hoạch. Trong tình huống ngược lại, nông dân lại giảm mạnh sản xuất khi giá sụt nghiêm trọng. Tính rủi ro Bất cứ một ngành sản xuất nào khi bước ra thị trường bên cạnh những thuận lợi vốn có thì ẩn hiện những rủi ro đi kèm buộc người sản xuất phải biết điều phối, sống chung và có những biện pháp giảm thiệt hại một cách thấp nhất. Ngành sản xuất nông nghiệp ngoài những lý do chung thì còn có những lý do mang tính đặc thù như: thiên tai, dịch bệnh, rớt giá, khó khăn trong tiêu thụ nông sản phẩm là những vấn đề rủi ro trong nông nghiệp nông thôn hiện nay. Rủi ro trong nông nghiệp có thể được phân chia ra làm 2 dạng chính: rủi ro về sản lượng và rủi ro về giá cả. Sự rủi ro về sản lượng có nguyên nhân từ sự tác động của điều kiện thiên nhiên, trong khi sự không chắc chắn về kinh tế dẫn đến rủi ro về giá cả. Bên cạnh đó, còn có một rủi ro rất lớn mà chúng ta ít đề cập đến đó là trong thời gian tới, khi những rào cản thương mại được bãi bỏ, thuế nhập khẩu giảm, nông sản nhập khẩu từ các nước phát triển bán trên thị trường với giá thấp sẽ gây sức ép lớn cho kinh tế nông thôn. Nhiều doanh nghiệp có thể phải đối mặt với nguy cơ phá sản, cả kinh tế nông hộ, nông dân lao động nông nghiệp thủy sản sẽ gặp nhiều khó khăn. Nếu không nắm bắt lấy cơ hội quan trọng trong quá trình mở cửa và hội nhập để thúc đẩy kinh tế phát triển, tránh nguy cơ tụt hậu ngày càng xa. Đây thực sự là thách thức lớn nhất cần phải vượt qua đối với phát triển nông nghiệp nông thôn. Chi phí giao dịch và chi phí tiếp thị cao Sau hơn 6 năm thực hiện Quyết định 80/2002/QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng, rất nhiều doanh nghiệp và nông dân đã gặp nhau giữa “cung và cầu”. Tuy nhiên, khoảng cách này đang khá lớn, hàng hóa nông sản phải đi qua nhiều khâu, nhiều kênh phân phối khác nhau, chênh lệch giá giữa người sản xuất và người tiêu dùng cuối cùng có một khoảng cách khá xa. Đây là bất cập vẫn đang thách thức dẫn đến biên độ thị trường lớn cho hàng hóa nông sản Việt Nam [21]. Biên độ thị trường lớn là do quy mô sản xuất nông sản của các hộ nông dân còn rất nhỏ, lại nằm ở các vùng sâu, vùng xa. Vì thế, làm tăng chi phí thu gom, chi phí vận chuyển do các thương nhân phải đi đến tận nơi để thu mua. Và mỗi lần thu mua các tư thương cũng phân loại, sơ chế... bảo quản, cất giữ và tạo một giá trị mới lớn hơn giá trị ban đầu để có lợi trước khi bán lại cho các khâu trung gian trong chuỗi tiếp theo. Bên cạnh đó, hàng hóa nông sản trước thềm hội nhập WTO phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt từ những hàng hóa nông sản có giá trị và chất lượng cao ở các nước khác, việc tìm bạn hàng mới, thị trường mới cộng với chiến lược giá thấp và chất lượng cao buộc ngành nông nghiệp hàng hóa phải đầu tư một lượng chi phí lớn cho công việc quảng cáo và tiếp thị ở những thị trường mới [21]. Thiếu thông tin Khả năng tiếp cận thông tin thị trường kém là một nguyên nhân quan trọng làm cho thị trường nông sản không hiệu quả. Nhìn chung, kiến thức và sự hiểu biết của nông dân về các phương thức hoạt động của thị trường là hạn chế. Bên cạnh đó nông dân chưa tiếp cận được hoặc thiếu thông tin về cầu và giá cả. Thiếu kiến thức làm hạn chế khả năng tiếp cận tới các thị trường có cơ hội mang lại lợi nhuận cao hơn. Không nắm bắt được thông tin từ khách hàng nên hạn chế khả năng đáp ứng yêu cầu của người mua và thương thuyết để đạt được một mức giá hợp lý. Thương nhân và nhà chế biến cũng không có khả năng tiếp cận các thông tin quan trọng về thị trường, nên không thể hoàn toàn điều chỉnh ngay được khi môi trường kinh doanh thay đổi. Nói một cách tổng quát, thiếu thông tin làm cho chi phí tiếp thị và rủi ro cao dẫn tới điều phối cung cầu kém. Nhu cầu ngày một phát triển, thị trường ngày một rộng mở, các yêu cầu khắt khe về các chỉ số, thông số chất lượng của các bạn hàng đã buộc nông sản hàng hóa Việt Nam không ngừng cải tiến và vươn lên. Việc nắm bắt được thông tin là một lợi thế cho vấn đề trên còn không thì ngược lại. Đây là trở ngại rất lớn cho nền nông nghiệp hàng hóa Việt Nam trước thềm hội nhập. Cung kém co giản theo giá Nói chung lượng cung hàng hóa nông sản không đáp ứng nhanh với giá cả, đặc biệt trong ngắn hạn. Nói cách khác, nông dân cần nhiều thời gian để điều chỉnh sản xuất sao cho đáp ứng với sự thay đổi giá. Người nông dân không thể tăng hay giảm diện tích khi giá cả của nông sản đó biến động vì tính chất mùa vụ, thời gian gieo trồng và sản xuất kéo dài. Chỉ có sự lựa chọn duy nhất là điều chỉnh vật tư đầu vào sao cho hợp lý với điều kiện thực tế. Ngoài ra còn một số hạn chế khác về vấn đề đất đai, lao động để mở rộng sản xuất và khả năng tiếp cận những kỹ thuật để người sản xuất nâng cao sản lượng như giống mới, hệ thống thủy lợi.... Độ co giản của cầu theo giá lớn Không giống như cung, cầu nông sản hàng hóa rất nhạy cảm với sự thay đổi của giá. Do có nhiều sản phẩm có thể thay thế được nên người tiêu dùng thường chuyển hướng sang sử dụng loại sản phẩm khác nếu như giá của sản phẩm đang sử dụng tăng lên. Sự đa dạng về chủng loại, chất lượng trong hàng hóa nông sản đã giúp người tiêu dùng có nhiều sự chọn lựa khác nhau giữa những mặt hàng giống nhau. Trong thời kỳ hội nhập, sự xâm chiếm của thị trường hàng ngoại nhập buộc các doanh nghiệp nông nghiệp trong nước nói chung và tất cả các doanh nghiệp nói riêng phải không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và đặc biệt là đa đạng hóa mặt hàng để đáp ứng được sự đa dạng nhu cầu của khách hàng. 1.2. GIÁ TRỊ KINH TẾ CỦA CAO SU Cây cao su được nhân trồng với quy mô lớn trên thế giới là nhờ vào sản phẩm đặc biệt của cây là mủ cao su, đó là một nguyên liệu cần thiết trong nhiều ngành công nghiệp hiện nay. Ngoài ra cây cao su còn cho các sản phẩm khác cũng có công dụng không kém phần quan trọng như: gỗ, dầu hạt... Cây cao su còn có tác dụng bảo vệ môi trường sinh thái, cải thiện vấn đề kinh tế xã hội nhất là các vùng miền núi, góp phần bảo vệ an ninh quốc phòng tại các vùng biên giới. Các sản phẩm kinh tế a. Mủ cao su nguyên liệu Sản phẩm chủ yếu của cao su là mủ cao su với các đặc tính hơn hẳn cao su tổng hợp về độ giãn, độ đàn hồi cao, chống đứt, chống lạnh tốt, ít phát nhiệt khi cọ xát, dễ sơ luyện... Mủ cao su là nguyên liệu không thể thiếu được trong đời sống hằng ngày của con người. Các sản phẩm cao su có thể chia thành các loại chính như: Vỏ, ruột xe; các vật dụng phục vụ cho công nghiệp, y tế... b. Gỗ cao su Khi cao su hết niên hạn kinh tế phải thanh lý thì gỗ cao su là một sản phẩm rất quan trọng, một nguồn kinh tế đáng kể. Sản lượng gỗ tùy thuộc vào mật độ cây còn lại trên vườn và vào độ lớn của cây (đường kính, chiều cao cây...), nếu tính bình quân vườn cây cao su khi thanh lý còn 200 cây với sản lượng gỗ bình quân là 0,25 - 0,3 m3 gỗ/cây thì mỗi ha cao su có được 50 - 60 m3 gỗ và một khối lượng củi ước lượng từ 30 - 40% lượng gỗ. Gỗ cao su đang được giới tiêu thụ trên thế giới ưa chuộng [13]. c. Dầu hạt cao su Vườn cây cao su trưởng thành (6-7 tuổi trở lên) hàng năm sẽ sản xuất hạt cao su với khối lượng 200-300kg/ha. Nhân hạt cao su ngoài thành phần dầu còn chứa một tỷ lệ đáng kể protein nên bánh dầu của hạt sau khi ép được dùng làm thức ăn gia súc bằng cách pha trộn với cám theo một tỷ lệ thích hợp. Bên cạnh đó sử dụng dầu hạt cao su để sản xuất sơn, vecni; xà phòng; và một số chất độn pha thuốc kích thích mủ cao su [13]. d. Mật ong Ngoài các sản phẩm nêu trên, hàng năm vào mùa cao su ra lá non vừa ổn định, có thể nuôi ong để lấy mật từ các tuyến mật ở cuống lá. Chất lượng mật ong từ cây cao su rất tốt và có màu sáng. Khoảng 30% lượng mật ong sản xuất từ Ấn độ là thu hoạch từ vườn cao su. Tại Việt Nam, các nhà nuôi ong hằng năm vẫn đưa đàn ong vào các vườn cao su vào mùa thích hợp để lấy mật ong. e. Các sản phẩm khác Ngoài các sản phẩm nêu trên, trong vườn cây cao su còn có thể thu được các sản phẩm do các cây trồng giữa hàng cao su trong thời gian KTCB như: Cây thảm phủ, cây trồng xen... Ngoài ra có thể chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm trong vườn cao su. 1.3. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ CÁC YÊU CẦU KỸ THUẬT ĐỐI VỚI CÂY CAO SU 1.3.1. Đặc điểm sinh học Cây cao su cũng giống như các loại cây trồng khác, cũng có những đặc tính sinh học riêng nên trong việc trồng và khai thác cần có những quy trình riêng cho phù hợp. Nhưng cao su lại có những đặc thù riêng so với loại cây khác đó chính là quá trình trồng, chăm sóc và khai thác cao su được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn thiết kế cơ bản và giai đoạn kinh doanh. Giai đoạn thiết kế cơ bản: Là khoảng thời gian từ 5 - 8 năm đầu tiên của cây cao su khi trồng cây. Đây là khoảng thời gian cần thiết để vành thân cây cao su đạt được 50 cm đo cách mặt đất 1m. Tùy theo điều kiện sinh thái, chăm sóc, giống và điều kiện sinh thái đặc thù của các vùng Việt Nam sẽ có những con số khác nhau. Thời gian kiến thiết cơ bản phổ biến từ 7- 8 năm. Tuy nhiên với điều kiện chăm sóc, quản lý vườn cây đúng quy trình, chọn giống và vật liệu trồng thích hợp thì có thể rút ngắn thời gian kiến thiết cơ bản từ 6 tháng đến 1 năm [24]. Giai đoạn kinh doanh: Là khoảng thời gian khai thác mủ cao su. Cây cao su được khai thác khi có trên 50% tổng số cây có vành thân ≥ 50cm. Giai đoạn kinh doanh có thể dài từ 25 đến 30 năm. Trong giai đoạn này cây vẫn tiếp tục tăng trưởng nhưng ở mức thấp hơn nhiều so với giai đoạn kiến thiết cơ bản [24]. Để trồng cây cao su có năng suất và hiệu quả kinh tế cao cần phải chú ý những đặc điểm, điều kiện về thực vật học của cây cao su và những điều kiện sinh thái nhất định để có những tác động thích hợp. Những điều kiện đó là: Điều kiện thời tiết, khí hậu - Nhiệt độ: Cây cao su cần nhiệt độ trung bình ở mức cao và đều, với nhiệt độ thích hợp nhất từ 25-30 oC. Nhiệt độ trên 40oC cây sẽ trở nên khô héo và ở mức dưới 10 oC cây có thể chịu đựng được một thời gian tương đối ngắn. Mức nhiệt độ trung bình khoảng 25oC thì cây cho năng suất mủ ở mức cao nhất. Trong khoảng thời gian khai thác mủ (1-5 giờ sáng) thì yêu cầu nhiệt độ phải mát dịu để lượng mủ lấy ra đạt chất lượng tốt và nhiều [24]. - Lượng mưa: Cây cao su có thể trồng ở nhiều vùng đất khác nhau nhưng thích hợp nhất vẫn là những vùng đất có lượng mưa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSản xuất cao su hàng hóa trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.doc
Tài liệu liên quan