Đề tài Sự cần thiết phải bảo hộ sản xuất trong nước bằng các biện pháp phi thuế và kinh nghiệm của một số nước

CHƯƠNG I 1

SỰ CẦN THIẾT PHẢI BẢO HỘ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC BẰNG CÁC BIỆN PHÁP 1

PHI THUẾ VÀ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC 1

A.SỰ CẦN THIẾT PHẢI ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP BẢO HỘ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC. 1

I.SỰ CẦN THIẾT PHẢI BẢO HỘ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC. 1

1.TÍNH CẦN THIẾT CHUNG PHẢI BẢO HỘ CỦA CÁC QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI. 1

2.SỰ CẦN THIẾT PHẢI BẢO HỘ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC CỦA VIỆT NAM. 1

II.PHƯƠNG THỨC BẢO HỘ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC. 2

1.CÁC BIỆN PHÁP BẢO HỘ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC. 2

A.BIỆN PHÁP THUẾ QUAN 2

B.CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ (NTM) 3

C.SỰ KẾT HỢP GIỮA HAI BIỆN PHÁP ĐỂ BẢO HỘ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC. 5

2.CÁC NTM ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐỂ BẢO HỘ. 5

3.THỜI GIAN BẢO HỘ. 6

4.CÁC NGÀNH ĐƯỢC BẢO HỘ. 6

5.XU HƯỚNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC NTM ĐỂ BẢO HỘ. 6

B.KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG CÁC NTM ĐỂ BẢO HỘ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC. 7

I.THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC NTM CỦA HOA KỲ. 7

II.THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC NTM CỦA THÁI LAN. 8

1.HẠN NGẠCH NHẬP KHẨU. 8

2.CẤP PHÉP NHẬP KHẨU. 8

doc74 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1200 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự cần thiết phải bảo hộ sản xuất trong nước bằng các biện pháp phi thuế và kinh nghiệm của một số nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n, khó có thể lượng hóa cụ thể sự tác động của các dịch vụ này đối với hoạt động nhập khẩu. Nhưng nếu Việt Nam có thể phát triển các ngành dịch vụ này với sự tham gia hiệu quả của các doanh nghiệp nước ngoài thì rõ ràng khả năng cung ứng hàng hóa (nhu cầu hàng hóa xét về khía cạnh nào đó) sẽ tăng lên. Ngược lại, tính kém hiệu quả của các dịch vụ đó sẽ cản trở hàng hóa nhập khẩu. Hiện trạng ở nước ta: - Với một số liên doanh và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giám định hàng hóa xuất nhập khẩu, các dịch vụ về giám định và kiểm định hàng hóa khá phát triển; - Dịch vụ về thuế được các công ty tư vấn luật cung cấp nhưng chưa phát triển; - Dịch vụ về vận tải nội địa do các nhà cung ứng vận tải trong nước đảm nhiệm. Tuy nhiên trình độ phát triển của đội ngũ vận tải này chưa cao. - Dịch vụ khai báo Hải quan thuê: giúp các doanh nghiệp khai báo Hải quan lập tờ khai Hải quan. Hiện nay dịch vụ này phát triển chưa nhiều. C. Tổng quan các NTM liên quan tới nhập khẩu của Việt Nam 1.Các biện pháp quản lý định lượng. Trong giai đoạn 1997-2000, Việt Nam áp dụng các biện pháp quản lý định lượng sau: a.Cấm nhập khẩu. Ngoài các mặt hàng cấm nhập khẩu vì mục đích an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội như ma túy, hóa chất độc, vũ khí, đạn dược, v.v..., Việt Nam còn cấm nhập khẩu một số mặt hàng nhằm bảo hộ sản xuất trong nước như thuốc lá điếu, ô tô từ 12 chỗ ngồi trở xuống, xe 2 bánh gắn máy nguyên chiếc và linh kiện lắp ráp dạng CKD, hàng tiêu dùng đã qua sử dụng. b.Hạn ngạch nhập khẩu. Từ năm 1996 đến 1999, hạn ngạch nhập khẩu được áp dụng ngày càng chặt chẽ đối với các mặt hàng: ô tô chở khách từ 12 chỗ ngồi trở xuống, xe tải và xe khách loại khác, xe 2 bánh gắn máy nguyên chiếc, cụ thể là: Mặt hàng Mức độ hạn chế số lượng áp dụng năm 1997 Mức độ hạn chế số lượng áp dụng từ năm 1999 đến nay Ô tô chở khách dưới 12 chỗ ngồi Hạn mức 3.000 chiếc Cấm nhập khẩu (áp dụng với ôtô dưới 16 chỗ ngồi từ năm 2000 ) Xe tải, xe khách loại khác Hạn mức 30.000 chiếc Giấy phép nhập khẩu Xe 2 bánh gắn máy nguyên chiếc Hạn mức 350.000 chiếc Cấm nhập khẩu và linh kiện lắp ráp xe 2 bánh gắn máy. Các doanh nghiệp trong nước có đầu tư sản xuất, lắp ráp xe 2 bánh gắn máy dạng IKD được nhập khẩu linh kiện IKD theo năng lực sản xuất phù hợp với giấy phép đăng ký kinh doanh đã cấp (ngoài phương thức đổi hàng với Lào) Một số mặt hàng khác nếu xét về hình thức thì có thể coi như được nới lỏng quản lý định lượng như: Mặt hàng Mức độ hạn chế số lượng áp dụng năm 1997 Mức độ hạn chế số lượng áp dụng năm 2000 Thép xây dựng Hạn mức 500.000 tấn Giấy phép nhập khẩu Phôi thép Hạn mức 900.000 tấn Giấy phép nhập khẩu Xi măng Hạn mức 500.000 – 700.000 tấn Chỉ áp dụng giấy phép nhập khẩu đối với xi măng đen Clinker Hạn mức 1.100.000 tấn Giấy phép nhập khẩu Giấy in báo, giấy viết, giấy in thường, giấy vệ sinh Cấm nhập khẩu Giấy phép nhập khẩu Giấy in chất lượng cao, giấy carton duplex Hạn mức 20.000 tấn Giấy phép nhập khẩu Đường Hạn mức 10.000 tấn đường RE, cấm nhập các loại đường khác Giấy phép nhập khẩu Tuy nhiên, như sẽ giới thiệu ở mục c. dưới đây, các mặt hàng áp dụng biện pháp giấy phép nhập khẩu trên thực tế hầu như không được cấp phép nhập khẩu. Vì vậy, các biện pháp quản lý định lượng thực ra đã được áp dụng chặt chẽ hơn trong giai đoạn từ 1997 đến 2000. Các mặt hàng: xăng dầu, phân bón được phân bổ hạn ngạch hầu như không thay đổi. Riêng phân NPK không được cấp phép nhập khẩu trong năm 1999 vì sản xuất trong nước đáp ứng gần đủ nhu cầu. c.Giấy phép nhập khẩu không tự động. Từ năm 1997 đến 2000, giấy phép nhập khẩu không tự động được áp dụng ngày càng giảm, có một số mặt hàng nhập khẩu quản lý bằng giấy phép không tự động nhưng thực tế là không cấp phép nhập khẩu. Tình hình cụ thể của năm 2000 như sau: TT Mặt hàng áp dụng giấy phép nhập khẩu Ghi chú 1 Xe 2 bánh, 3 bánh gắn máy nguyên chiếc và linh kiện lắp ráp đồng bộ SKD và CKD Hầu như không cấp phép 2 Một số chủng loại thép xây dựng Hầu như không cấp phép 3 Xi măng Pooc lăng (theo tiêu chuẩn qui định) Thực tế không cấp phép 4 Clinker 5 Đường thô và đường tinh luyện Thực tế không cấp phép 6 Giấy viết, giấy in các loại mã số 4801 và 4802 trong biểu thuế xuất, nhập khẩu. Thực tế không cấp phép 7 Kính xây dựng trắng trơn (độ dày từ 1,5 - 12 mm, không gồm các loại kính hoa, kính nhiều lớp kính an toàn, kính cốt thép). Thực tế không cấp phép 8 Gạch ốp, lát Ceramic và Granit có kích thước 400 X 400 mm và có 1 cạnh từ 400 mm trở xuống Thực tế không cấp phép 9 Máy, khung xe 2 bánh, 3 bánh gắn máy các loại không đồng bộ Thực tế không cấp phép 10 Ô tô từ 16 chỗ ngồi trở xuống Thực tế không cấp phép 11 Dầu thực vật tinh chế (dầu cọ, vừng, lạc, đậu tương) Thực tế không cấp phép Chú thích: các doanh nghiệp chỉ được phép ký hợp đồng nhập khẩu các mặt hàng thuộc danh mục này khi có giấy phép nhập khẩu của Bộ Thương mại. Nhận xét: Các biện pháp hạn ngạch và giấy phép nhập khẩu của Việt Nam trong những năm vừa qua được áp dụng nhằm mục đích hạn chế số lượng nhập khẩu một cách tạm thời để bảo hộ sản xuất trong nước. Khi nào sản xuất trong nước đủ hoặc gần đủ đáp ứng nhu cầu thì hạn ngạch được chuyển thành giấy phép nhập khẩu, thực chất là giảm hạn ngạch hay thậm chí không cấp phép nhập khẩu. Nếu xét một cách dài hạn, khi Việt Nam phải thực hiện cam kết cắt giảm các biện pháp hạn chế số lượng trong AFTA, WTO thì khó tiếp tục áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng một cách tạm thời và không rõ ràng như vậy. 2.Các biện pháp quản lý về giá. a.Trị giá tính thuế Hải quan. Ngoài mục tiêu trực tiếp là tránh gian lận thương mại, biện pháp xác định trị giá tính thuế quan còn gián tiếp tăng cường bảo hộ sản xuất trong nước. Để làm cơ sở cho việc hạn chế gian lận trong khai báo trị giá tính thuế, Chính phủ giao cho Bộ Tài chính cùng với Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan xây dựng Bảng giá tối thiểu các mặt hàng Nhà nước quản lý giá để xác định trị giá tính thuế nhập khẩu. Bộ Tài chính đã ban hành quy định cụ thể về Bảng giá tối thiểu này, trong đó số nhóm mặt hàng Nhà nước quản lý giá tính thuế đã giảm từ 34 (năm 1996) xuống 21 (năm 1997), 15 (năm 1998) và đến nay chỉ còn có với 7 nhóm. Nhiều mặt hàng được sản xuất bởi các ngành công nghiệp trong nước có sức cạnh tranh thấp và đang gặp khó khăn đã được đưa vào Danh mục các nhóm mặt hàng Nhà nước quản lý giá tính thuế. Do ngành Hải quan chưa có đủ điều kiện xác định chính xác trị giá thực tế để tính thuế nhập khẩu vì tính khó khăn, phức tạp của công việc, nên ngoài quy định về các nhóm mặt hàng Nhà nước quản lý trong Bảng giá tối thiểu do Bộ Tài chính quy định, Tổng cục Hải quan cũng ban hành quy định về Bảng giá tính thuế tối thiểu bao gồm những mặt hàng nằm ngoài các nhóm mặt hàng trên. b.Phụ thu. Phụ thu là một biện pháp tựa như thuế quan (para-tariff measure) góp phần bảo hộ sản xuất trong nước khá hiệu quả. Ngoài ra, phụ thu còn có tác dụng bình ổn giá và tạo nguồn thu cho ngân sách. Danh mục các mặt hàng chịu phụ thu không cố định. Phụ thu áp dụng với một số mặt hàng khi có biến động giữa giá thế giới và giá trong nước. Nhưng một số mặt hàng có giá thế giới khá ổn định vẫn bị áp dụng phụ thu. Bảng dưới đây liệt kê các mặt hàng chịu phụ thu cũng như mức phụ thu và thời điểm bắt đầu áp dụng: Bảng 6: Các mặt hàng nhập khẩu chịu phụ thu Stt Mặt hàng Tỷ lệ phụ thu (% của giá CIF hoặc FOB) Mục đích Thời điểm bắt đầu thi hành Thời điểm bãi bỏ 1 Thép ống 10 Bình ổn giá (BOG) 1/10/97 2 Thép tròn trơn 10 BOG 15/05/94 3 Thép tròn vành 10 BOG 15/05/94 4 Thép tấm 4 BOG 15/05/94 5 Nhựa PVC 5 (*) Thu ngân sách (TNS) 10/08/98 6 Xăng ôtô 20 TNS 10/11/98 20/5/1999 7 Naphta, refomat và các chế phẩm để pha chế xăng 20 TNS 10/11/98 20/5/1999 8 Diesel 25 TNS 10/11/98 20/5/1999 9 Dầu hỏa 10 TNS 10/11/98 20/5/1999 10 Nhiên liệu bay (TC1, ZA1) 10 TNS 10/11/98 20/5/1999 11 Ma dút 0 TNS 10/11/98 20/5/1999 12 Phân Urê 3 TNS 18/07/98 1/5/2000 13 Phân NPK 4 TNS 18/07/98 14 Phân DAP 5 TNS 18/07/98 15/5/1999 15 Chất hóa dẻo DOP 5 TNS 20/01/99 16 Bột PVC TNS 17 Ruột phích nước nóng và phích nước nóng thông dụng từ 2,5 lít trở xuống 30 và 40 TNS 01/04/2000 18 Các loại bìa, carton phẳng làm bao bì 10 TNS 01/04/2000 19 Ly, cốc, đồ dùng nhà bếp bằng sành sứ, bằng thuỷ tinh (trừ các loại được sản xuất bằng thuỷ tinh pha lê) 20 TNS 01/04/2000 20 Quạt bàn, quạt cây, quạt trần, quạt treo tường, quạt gió dưới 100W 20 TNS 01/04/2000 (*) Từ 18/4/99 là 10% 3.Các biện pháp liên quan đến doanh nghiệp. a.Quyền kinh doanh nhập khẩu. Trước tháng 9/1998, chỉ có các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh nhập khẩu mới được nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam. Sau khi Nghị định số 57/1998/NĐ-CP được ban hành ngày 31/7/1998, quyền kinh doanh xuất nhập khẩu đã được mở rộng một cách đáng kể. Điều 3 Nghị định này qui định "thương nhân là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được thành lập theo qui định của pháp luật được phép xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa theo ngành nghề đã đăng ký trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh". Tuy nhiên qui định này không áp dụng cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được phép nhập khẩu thiết bị, máy móc, vật tư, nguyên liệu, phương tiện vận tải để thực hiện dự án đầu tư, phục vụ sản xuất theo qui định trong giấy phép đầu tư. b.Đầu mối nhập khẩu. Có một số mặt hàng nhà nước qui định chỉ được nhập khẩu thông qua một số doanh nghiệp nhất định (đầu mối nhập khẩu). Ngoài những mục tiêu đảm bảo cung cầu, ổn định xã hội, sức khỏe nhân dân, biện pháp này còn có ý nghĩa bảo hộ sản xuất trong nước. Các đầu mối nhập khẩu được qui định theo một số mặt hàng như sau: Mặt hàng Đầu mối nhập khẩu Xăng dầu Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam, Công ty Thương mại ký thuật và Đầu tư, Công ty Xăng dầu thành phố Hồ Chí Minh, Công ty Xăng dầu Hàng không, Công ty Thương mại Dầu khí Petechim, Công ty Thương mại Dầu khí Đồng Tháp, Công ty Xăng dầu Quân đội, Công ty liên doanh Dầu khí Mê công, Công ty XNK Vật tư đường biển. Phân bón Tổng công ty vật tư nông nghiệp và 34 đầu mối khác Xi măng, clinker Tổng công ty xi măng Việt Nam Rượu 20 đầu mối đáp ứng điều kiện qui định ở Thông tư 12/1999/TT-BTM ngày 19/5/1999 của Bộ Thương mại Dược phẩm Tổng công ty Dược Việt Nam và 31 đầu mối khác do Bộ Y tế qui định 4.Hàng rào kỹ thuật. a.Các qui định kỹ thuật, tiêu chuẩn. Hệ thống Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) trong giai đoạn này có trên 4400 tiêu chuẩn quốc gia, trong đó chỉ có khoảng 150 tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng. Các tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng thường là những tiêu chuẩn liên quan đến các lĩnh vực an toàn, vệ sinh, bảo vệ sức khỏe, bảo vệ môi trường. Về mặt thể chế, Tổng cục Tiêu chuẩn, Đo lường và Chất lượng thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường là cơ quan quản lý nhà nước về các qui định kỹ thuật, tiêu chuẩn và thủ tục xác định sự phù hợp. Một số văn bản liên quan đến vấn đề qui định kỹ thuật và thủ tục xác định sự phù hợp đã được ban hành. Tuy nhiên do trình độ khoa học công nghệ cũng như trình độ quản lý còn nhiều hạn chế nên công tác kiểm tra chất lượng hàng hóa chưa được thực hiện tốt, chưa ngăn cản được hàng kém chất lượng thâm nhập thị trường trong nước, gây ra những tác hại nhất định đến sức khỏe con người và môi trường. Có thể thấy Việt Nam chưa hề sử dụng hàng rào kỹ thuật như một công cụ hạn chế nhập khẩu nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. b.Kiểm dịch động vật và thực vật. Kiểm dịch động vật và thực vật có thể được sử dụng như một hàng rào kỹ thuật hợp pháp để ngăn cản nhập khẩu nông sản. Việt Nam đã có những qui định pháp lý khá chặt chẽ và phù hợp với thông lệ quốc tế về lĩnh vực này nhưng việc thực thi còn kém hiệu quả. Do đó chưa sử dụng tốt được các biện pháp kiểm dịch để bảo vệ sức khỏe con người, động thực vật cũng như tạo ra hàng rào bảo hộ sản xuất trong nước. c.Yêu cầu về ghi nhãn và đóng gói hàng hóa. Đây là một NTM khá quan trọng trong việc bảo hộ sản xuất trong nước. Trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển, biện pháp này được áp dụng như một công cụ bảo hộ hữu hiệu và được quy định chi tiết bằng hệ thống văn bản pháp luật. Đối với Việt Nam, biện pháp này còn rất mới mẻ. Trình độ về tiêu chuẩn kỹ thuật của Việt Nam còn chưa bắt kịp với yêu cầu chung của nền kinh tế trong quá trình hội nhập, lại phải cạnh tranh gay gắt với nước ngoài. Trước năm 1999, Việt Nam hầu như chưa có quy định chi tiết về vận dụng biện pháp này như một công cụ bảo hộ sản xuất trong nước. Tuy nhiên, ngày 30/8/1999, Quy chế ghi nhãn hàng hóa đã được ban hành kèm theo Quyết định số 178/1999/QĐ-TTg cùng ngày của Thủ tướng Chính phủ. Kể từ ngày 1/3/2000, các loại hàng sản xuất tại nước ngoài được nhập khẩu vào thị trường Việt Nam đều phải ghi nhãn hàng hóa theo Quy chế ghi nhãn hàng hóa ban hành theo Quyết định số 178/1999/QĐ-TTg. Hàng hóa nhập khẩu phải tuân thủ qui định về ghi nhãn như sau: Ghi trên phần nhãn nguyên gốc các thông tin thuộc nội dung bắt buộc (tên hàng hóa; tên và địa chỉ của thương nhân chịu trách nhiệm về hàng hóa; định lượng của hàng hóa; thành phần cấu tạo; chỉ tiêu chất lượng chủ yếu; ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, thời hạn bảo quản; hướng dẫn bảo quản, hướng dẫn sử dụng; xuất xứ của hàng hóa) bằng tiếng Việt Nam hoặc làm nhãn phụ ghi những thông tin thuộc nội dung bắt buộc bằng tiếng Việt Nam đính kèm theo nhãn nguyên gốc của hàng hóa đó trước khi đưa ra bán ở thị trường Việt Nam. Qui định về ghi nhãn đối với hàng hóa nhập khẩu có thể tạo ra NTB. 5.Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời. a.Chống bán phá giá. Việt Nam chưa có văn bản pháp luật về chống bán phá giá và cũng chưa bao giờ áp dụng biện pháp này trong thực tế. b.Các biện pháp tự vệ. Việt Nam chưa có văn bản pháp luật về tự vệ nhằm bảo vệ các ngành sản xuất trong nước khi nhập khẩu tăng lên nhanh chóng gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hai nghiêm trọng cho các ngành này. Việt Nam cũng chưa bao giờ áp dụng biện pháp này trong thực tế. c.Trợ cấp và các biện pháp đối kháng. Mặc dù trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (sửa đổi) của Việt Nam có quy định về thuế đối kháng nhưng điều khoản này quá sơ sài và do không đủ điều kiện để tiến hành điều tra về trợ cấp của các nước nên trên thực tế, Việt Nam chưa áp dụng biện pháp đối kháng nào. Việt Nam hiện đang duy trì nhiều hình thức trợ cấp thông qua tín dụng ưu đãi, ưu đãi về thuế (thuế suất ưu đãi, miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp), thưởng xuất khẩu, ưu đãi bảo lãnh tín dụng, rút ngắn thời gian khấu hao tài sản cố định, giảm mức vốn lưu động tối thiểu theo quy định, miễn giảm hoặc hoãn nộp tiền thuê đất. Trợ cấp công nghiệp Bản Thông báo về trợ cấp công nghiệp của Việt Nam theo Điều XVI.1 của GATT 1994 và Điều 25 của Hiệp định về Trợ cấp và Các biện pháp đối kháng giai đoạn 1996-1998 bao gồm các chương trình sau: - Hỗ trợ một số doanh nghiệp điều chỉnh cơ cấu; - Hỗ trợ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất hàng xuất khẩu; - Hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước sản xuất hàng xuất khẩu; - Hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước sản xuất, kinh doanh trong một số lĩnh vực nhất định; - Hỗ trợ các doanh nghiệp nước ngoài sản xuất, kinh doanh trong một số lĩnh vực nhất định; - Hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước sản xuất, kinh doanh trong một số địa bàn nhất định; - Hỗ trợ các doanh nghiệp nước ngoài sản xuất, kinh doanh trong một số địa bàn nhất định; - Tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp ngành vật liệu điện; - Hỗ trợ cơ sở sản xuất gặp khó khăn, cơ sở sản xuất mới thành lập hoặc mở rộng sản xuất, áp dụng công nghệ sản xuất mới; - Hỗ trợ các doanh nghiệp công ích nhà nước. Các chương trình trợ cấp này đã có tác dụng hỗ trợ đáng kể cho một số doanh nghiệp trong nước. Hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản Mức hỗ trợ nông nghiệp trong nước của Việt Nam rất thấp và thường chỉ là các chương trình hỗ trợ dạng “hộp xanh” được WTO cho phép như hỗ trợ nghiên cứu khoa học, đào tạo, hỗ trợ các vùng khó khăn... Mức hỗ trợ ở những hình thức bị WTO yêu cầu cắt giảm như hỗ trợ về giá đối với nông sản là hầu như bằng không1 Các số liệu cụ thể có thể tham khảo tại tài liệu WT/ACC/VN/4 . Trong khi đó quy định của WTO cho phép các nước thành viên đang phát triển có thể duy trì các hỗ trợ dạng này với điều kiện mức hỗ trợ không vượt quá 10% tổng giá trị sản xuất đối với một nông sản cụ thể hay toàn bộ giá trị sản xuất nông nghiệp của nước đó. Việt Nam đã áp dụng một số biện pháp trợ cấp xuất khẩu nông sản (đối với thịt lợn, dứa) nhưng giá trị trợ cấp rất thấp2 Như trên . 6.Các biện pháp liên quan đến đầu tư. a.Yêu cầu về nội địa hóa. Việt Nam áp dụng chính sách nội địa hóa với một số ít ngành công nghiệp có vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của nền kinh tế. Đây là một chính sách quan trọng nhằm phát triển nền công nghiệp quốc gia, bao gồm cả những điều kiện được quy định cho thời hạn tương đối dài (tới 10 năm). - Sản xuất, lắp ráp ôtô: Trong dự án xin cấp phép đầu tư phải bao gồm chương trình sản xuất linh kiện và phụ tùng ôtô tại Việt Nam. Chậm nhất từ năm thứ 5 kể từ khi bắt đầu sản xuất, phải sử dụng linh kiện, phụ tùng sản xuất tại Việt Nam với tỷ lệ ít nhất là 5% giá trị xe và sẽ tăng dần theo từng năm để đến năm thứ 10 đạt ít nhất 30% giá trị xe; - Sản xuất, lắp ráp xe máy và phụ tùng: Từ năm thứ 2 kể từ khi bắt đầu sản xuất phải thực hiện chế tạo chi tiết tại Việt Nam ở mức 5-10% giá trị xe máy, và tăng dần đều đảm bảo mục tiêu sau 5-6 năm kể từ năm bắt đầu sản xuất đạt mức ít nhất 60% giá trị xe máy; - Sản xuất, lắp ráp sản phẩm điện tử dân dụng: Các dự án lắp ráp chỉ chấp thuận dạng IKD với giá trị linh kiện, phụ tùng sản xuất tại Việt Nam trong 2 năm đầu chiếm ít nhất 20% giá trị sản phẩm và sẽ tăng dần trong các năm tiếp theo. Tuy nhiên pháp luật hiện hành Việt Nam không có quy định cụ thể về yêu cầu nội địa hóa đối với sản phẩm của dự án đầu tư ngoại trừ Thông tư số 215/HTĐT-LXT ngày 8/2/1995 của Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư trước đây (liệu văn bản này có còn hiệu lực không cho đến nay vẫn là một điều mập mờ vì chưa có văn bản quy định huỷ bỏ và thay thế). - Các dự án sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh thuộc ngành cơ khí - điện - điện tử và dự án sản xuất, lắp ráp phụ tùng của các sản phẩm hoàn chỉnh này: được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hóa do Bộ Tài chính quy định đối với bán thành phẩm, chi tiết, cụm chi tiết, bộ phận và nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất sản phẩm hoặc phụ tùng. b.Yêu cầu tự cân đối ngoại tệ. Theo quy định hiện hành, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài hợp doanh tự bảo đảm nhu cầu về tiền nước ngoài cho hoạt động của mình. Chính phủ Việt Nam bảo đảm việc hỗ trợ cân đối ngoại tệ đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, sản xuất hàng thay thế nhập khẩu thiết yếu và một số công trình quan trọng khác. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ một phần nhu cầu ngoại tệ cho các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất có nghĩa vụ xuất khẩu sản phẩm trong 3 năm đầu kể từ khi bắt đầu sản xuất kinh doanh để nhập khẩu nguyên liệu sản xuất trong năm, phụ tùng thay thế và trả lãi tiền vay. c.Yêu cầu phải gắn với phát triển nguồn nguyên liệu trong nước. Các dự án chế biến sữa, dầu thực vật, đường mía, gỗ, sản xuất giấy, nước trái cây giải khát, thuộc da (Danh mục loại trừ tạm thời chưa mở cửa cho các nhà đầu tư ASEAN theo Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN): phải gắn với phát triển nguồn nguyên liệu trong nước. Thực chất, một mục tiêu cơ bản của yêu cầu gắn với phát triển nguồn nguyên liệu trong nước là nhu cầu định hướng phát triển một số ngành trong nước như chăn nuôi đàn bò sữa, trồng các loại cây cung cấp nguyên liệu cho các ngành trên... d.Yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc. Quyết định số 229/1998/QĐ-BKH ngày 29/4/1998 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành Danh mục 24 sản phẩm công nghiệp phải đảm bảo xuất khẩu ít nhất 80% do sản xuất trong nước đã đáp ứng đủ nhu cầu về số lượng, chất lượng. Quyết định này chỉ áp dụng đối với các dự án đầu tư được cấp giấy phép kể từ ngày Quyết định 229 đã dẫn trên có hiệu lực, không áp dụng đối với các dự án đang hoạt động. 7.Các biện pháp quản lý hành chính. a.Thủ tục hành chính. Hàng đổi hàng Biện pháp này khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sản xuất chủ yếu từ nguồn nguyên liệu trong nước, khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua hợp đồng hàng đổi hàng trong đó bao gồm cả một số mặt hàng nhập khẩu có điều kiện. Biện pháp hàng đổi hàng được duy trì trong nhiều năm qua, chủ yếu với Lào. Đặt cọc Biện pháp này yêu cầu các doanh nghiệp muốn nhập khẩu những mặt hàng nhà nước không khuyến khích nhập khẩu phải đặt cọc lượng tiền nhất định mà không được hưởng lãi xuất trong một khoảng thời gian nào đó. Đây là một NTM có tác dụng bảo hộ khá rõ. b.Thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan của Việt Nam gây cản trở rất lớn cho hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt là các thủ tục kiểm hóa gây cản trở rất lớn cho việc thông quan hàng hóa. c.Mua sắm chính phủ. Mua sắm chính phủ chiếm một tỷ lệ đáng kể trong nhập khẩu. Việt Nam đã có qui định về đấu thầu quốc tế trong mua sắm chính phủ. d.Quy tắc xuất xứ. Trong giai đoạn này, Việt Nam mới chỉ có qui định về xuất xứ ưu đãi (với các thành viên AFTA) mà chưa có qui định nào về qui tắc xuất xứ không ưu đãi. Trong khi nhiều nước sử dụng qui tắc xuất xứ như một công cụ bảo hộ sản xuất trong nước thì Việt Nam chưa triển khai nghiên cứu đầy đủ và chưa tranh thủ các khả năng có thể về sử dụng biện pháp này. Vào tháng 11/1995, Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan đã ra Thông tư liên Bộ số 280/BTM-TCHQ qui định về giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Đây là Thông tư qui định những nguyên tắc chung về chế độ cấp và kiểm tra Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa. Ngoài ra, đối với từng chế độ ưu đãi cụ thể lại có các qui định riêng về xuất xứ như Thông tư số 33/TC-TCT (năm 1996) qui định Danh mục hàng hóa và thuế suất nhập khẩu để thực hiện chương trình giảm thuế hàng nhập khẩu từ EU; Quy chế của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về việc cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa đối với hàng xuất sang EU (mẫu A và B); Quyết định số 416/TM-ĐB năm 1996 của Bộ Thương mại ban hành Quy chế cấp giấy chứng nhận xuất xứ ASEAN của Việt Nam - mẫu D để hưởng các ưu đãi theo “Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan hiệu lực chung (CEPT)”.3 Theo Hiệp định CEPT, hàng nhập khẩu có hàm lượng ASEAN từ 40% trở lên được coi là có xuất xứ từ ASEAN. D.Đánh giá tác động bảo hộ của các NTM Việt Nam đã áp dụng trong thời kỳ 1996-2000. I.Tổng quan tác động bảo hộ của các ntm. Như đã giới thiệu tại chương III, trong thời kỳ 1996-2000 Việt Nam đã áp dụng khá nhiều các NTM. Một số NTM đã có tác dụng tích cực đối với bảo hộ sản xuất trong nước. 1.Đánh giá chung tác động bảo hộ của các NTM. 1.1.Mặt tích cực. - Tạo điều kiện cho nhiều ngành sản xuất tuy có sức cạnh tranh kém hơn so với nước ngoài tiếp tục duy trì và phát triển. Một số ngành đã nâng dần khả năng cạnh tranh nhờ nâng cao trình độ quản lý, đổi mới công nghệ; - Tạo điều kiện cho sản phẩm sản xuất trong nước có chất lượng kém hơn, giá cao hơn hàng nhập khẩu cùng tồn tại với hàng nhập khẩu; - Hỗ trợ xây dựng một số ngành công nghiệp quan trọng cho mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; - Góp phần ổn định xã hội, tạo công ăn việc làm thông qua các biện pháp hỗ trợ cho một số ngành, một số địa bàn. 1.2.Mặt hạn chế. Làm giảm sức cạnh tranh của sản xuất trong nước: Nhiều ngành công nghiệp hạ nguồn bị hạn chế khả năng tiếp cận với đầu vào nhập khẩu giá rẻ, buộc phải chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế trong nước đắt hơn (mà chất lượng có thể không bằng), làm chi phí sản xuất tăng lên dẫn tới lợi thế cạnh tranh bị sút giảm; - Khuyến khích sản xuất thay thế nhập khẩu trong khi định hướng chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam là sản xuất hướng về xuất khẩu: Tác động hạn chế nhập khẩu cạnh tranh của các NTM đã thu hút nhiều chủ đầu tư rút nguồn lực khỏi lĩnh vực sản xuất phục vụ xuất khẩu để đổ xô vào lĩnh vực thay thế nhập khẩu, gây tổn thất đáng kể cho các ngành xuất khẩu; - Không tạo ra động lực khuyến khích cạnh tranh trong các ngành được bảo hộ cao: Bảo hộ thông qua các NTM là một trong những nguyên nhân làm phát sinh thói dựa dẫm, ỷ lại vào sự hỗ trợ, ưu đãi của nhà nước và ngăn cản những nỗ lực chủ động cải tiến, hợp lý hóa sản xuất, tự nâng cao khả năng cạnh tranh của nhiều ngành nội địa; - Chi phí quản lý cao nhưng hiệu quả thấp: Để quản lý các NTM đòi hỏi phải đầu tư nhân lực, chi phí khá lớn cho việc duy trì bộ máy quản lý phức tạp, nhiều khi chồng chéo giữa các cơ quan cùng được giao chức năng quản lý nhập khẩu. Tuy nhiên, lợi ích mà bộ máy thực thi chính sách bảo hộ này mang lại phần nhiều không được như dự kiến. Nhiều ngành công nghiệp mục tiêu vẫn phát triển trì trệ, kém hiệu quả, thiếu sức cạnh tranh. II.Tác động bảo hộ của các NTM đối với một số sản phẩm. 1.Đối với sản phẩm nông nghiệp. 1.1.Đường mía. Các NTM áp dụng trong thời kỳ 1996 - 2000 là: + Hạn ngạch nhập khẩu: áp dụng đối với đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0017.doc
Tài liệu liên quan