Đề tài Sự chuẩn bị chu đáo về lực lượng cách mạng, chọn đúng thời cơ khởi nghĩa của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám

Mục lục

PHẦN TRANG

Mở đầu 1

Phần I: Quá trình chuẩn bị cho cuộc cách mạng tháng tám năm 1945

 1. Cao trào Cách mạng 1930 –1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh 2

 2. Cao trào dân chủ Đông Dương 1936-1939 2

 3. Cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945 4

Phần II- Sự lựa chọn đúng thời cơ của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh

 1. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 8

 2. Nghệ thuật lãnh đạo của Đảng 11

 3. Nắm đúng thời cơ, kịp thời phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền, ít phải đổ má 14

Kết luận 15

Mục lục 17

Tài liệu tham khảo 18

 

 

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2948 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sự chuẩn bị chu đáo về lực lượng cách mạng, chọn đúng thời cơ khởi nghĩa của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phối, xuất khẩu và nhập khẩu. Trừ bọn tay sai của Pháp, địa chủ lớn và tư sản mại bản tất cả các giai cấp và tầng lớp trong xã hội Việt Nam đều bị ảnh hưởng tai hại bởi chính sách phản động của Pháp. b. Chủ trương, sách lược mới của Đảng Một tháng sau khi chiến tranh thế giới nổ ra, ngày 29-9-1939 Trung ương Đảng gửi thông cáo cho các cấp bộ Đảng, vạch rõ cách mạng Đông Dương sẽ tiến đến mục tiêu giải phóng dân tộc, chỉ thị cho toàn Đảng kịp thời rút vào bí mật và chuyển hướng hoạt động. * Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 (11-1939) Tháng 11-1939, Ban Chấp hành TW đã họp tại Hoóc Môn, có các đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu… tham dự. Hội nghị nhận định chế độ cai trị ở Đông Dương đã trở thành chế độ phát xít quân phiệt tàn bạo, mâu thuẫn chủ yếu gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc Đông Dương; dự báo Nhật sẽ vào Đông Dương và Pháp sẽ đầu hàng Nhật. Hội nghị xác định mục tiêu chiến lược trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng Đông Dương hoàn toàn độc lập; tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ chủ trương tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản động, chống tố cáo, chống lãi nặng; thay khẩu hiệu lập chính quyền XôViết công nông binh bằng khẩu hiệu lập Chính phủ cộng hoà dân chủ. Hội nghị quyết định thành lập mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương bao gồm lực lượng chính là công dân, nông dân, đoàn kết với tiểu tư sản thành thị và nông thôn, đồng minh hoặc trung lập tạm thời với giai cấp tư sản bản xứ, trung và tiểu địa chủ. Về phương pháp cách mạng, Hội nghị nêu ra một số chuyển hướng về tổ chức, xây dựng các đoàn thể quần chúng bí mật, hướng các cuộc đấu tranh của quần chúng vào đế quốc và tay sai, “chuẩn bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mệnh giải phóng dân tộc". Hội nghị đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng về chỉ đạo chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ. Đêm 27-9-1940, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, nhân dân Bắc Sơn đã nổi dậy chiếm đồn Mỏ Nhài. Đội du kích Bắc Sơn được thành lập. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã giành được thắng lợi nhanh chóng nhưng ngay sau đó đã bị đàn áp. Đó là tín hiệu mở đầu cao trào giải phóng của các dân tộc Đông Dương, mở đầu thời kỳ cách mạng nước ta kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị. *Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 (11-1940) Từ ngày 6 đến 9-11-1940 Hội nghị TW Đảng họp tại Bình Bảng, Từ Sơn Bắc Ninh có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt tham dự. Hội nghị khẳng định sự đúng đắn của chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Hội nghị TW Đảng tháng 11-1939; xác định kẻ thù chính của cách mạng lúc này là phát xít Nhật và Pháp. Hội nghị đã cử ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, phân công đồng chí Trường Chinh làm Quyền Bí thư Trung ương Đảng, quyết định chắp nối liên lạc với Quốc tế Cộng sản và bộ phận của Đảng ở ngoài nước. Hội nghị quyết định hai vấn đề cấp bách: - Một là, duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới lập căn cứ địa du kích, lấy Bắc Sơn-Vũ Nhai làm trung tâm. - Hai là, chỉ thị cho xứ uỷ Nam Kỳ hoãn ngay cuộc khởi nghĩa vì chưa đủ điều kiện bảo đảm cho khởi nghĩa thắng lợi. Quyết định chưa được truyền đạt tới Xứ uỷ Nam Kỳ thì ngày 23-11-1940 cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã nổ ra. ở hầu khắp các tỉnh miền Nam, quần chúng nổi dậy đấu tranh dũng cảm, tiêu biểu là ở Mỹ Tho. Chính quyền của địch ở một số xã, quận tan rã. Chính quyền cách mạng được thành lập, thực hiện một số cải cách dân chủ, dân sinh bảo vệ trị an, xét xử bọn phản động. Lần đầu tiên, Cờ đỏ sao vàng xuất hiện tại một số vùng ở Mỹ Tho và Vĩnh Long. Cuộc khởi nghĩa bị thực dân Pháp đàn áp rất dã man. Gần 6000 người bị bắt và bị giết. Nhiều làng mạc bị ném bom và đốt phá. Một số đồng chí lãnh đạo của Đảng bị bắt và bị xử bắn trước cuộc khởi nghĩa. Ngày 13-1-1941, binh lính yêu nước dưới sự chỉ huy của Nguyễn Văn Cung đã nổi dậy đánh chiếm đồn Chợ Rạng, kéo về Đô Lương, rồi tiến về Vinh. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị dập tắt. Trong vòng ba tháng, ba cuộc khởi nghĩa diễn ra ở cả ba miền Bẵc, Trung, Nam, đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của nhân dân cả nước và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu về khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị ban chấp hành TW Đảng (tháng 5-1941) nhận định: đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương. Kinh nghiệm lớn nhất của các cuộc khởi nghĩa trên là muốn khởi nghĩa thành công phải co đầy đủ các điều kiện khách quan và chủ quan chín muồi, trên cơ sở cuộc khủng hoảng chính trị, kinh tế diễn ra trong bộ máy thống trị của chủ nghĩa đế quốc và dựa vào cao trào câch mạng đã dâng lên trong cả nước. *Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (5-1941) Đầu năm 1940, Đồng chí Nguyễn ái Quốc bắt liên lạc với Đảng và chuẩn bị về nước. Ngày 28-1-1941 Người trở về Tổ quốc và ngày 8-2-1941, Người tới Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng). Từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941, Hội nghị ban chấp TW Đảng đã họp tại Bắc Bó do Đồng chí Nguyễn ái Quốc chủ trì. Từ sự phân tích diễn biến của chiến tranh thế giới và tình hình trong nước, Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc. Hội nghị khẳng định tính chất đúng đắn của chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất của Hội nghị TW tháng 11-1939, tập trung mũi nhọn chống đế quốc và tay sai giành độc lập dân tộc, đồng thời nêu khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công, tiến tới thực hiện người cày có ruộng. Hội nghị chỉ rõ, sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp-Nhật, sẽ thành lập chính phủ nhân dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; Hội nghị quyết định thay tên các Hội Phản đế thành Hội Cứu quốc, thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương và giúp đỡ việc lập mặt trận ở các nước Lào, Campuchia. Hội nghị xác định hình thái của khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa và kết luận: chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân. Hội nghị đưa ra dự báo: Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô - một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc chiến tranh đế quốc lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, do đó mà cách mạng nhiều nước mới thành công. Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng nhằm làm cho Đảng có đủ năng lực lãnh đạo cuộc cách mạng Đông Dương đi đến toàn thắng, chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, chú trọng cán bô lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự; tăng thành phần vô sản trong Đảng. Hội nghị đề ra nhiệm vụ giúp đỡ các Đảng bộ Campuchia, Lào và cử ra Ban chấp hành TWchính thức, bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư. Hội nghị TW Đảng tháng 5-1941 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương sáng tạo thực hiện mục tiêu ấy. Cùng với nghị quyết hội nghị TW tháng 11-1939, nghị quyết hội nghị TW tháng 5-1941 có ý nghĩa quyết định đỗi với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. c. Xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền * Xây dựng lực lượng chính trị Ngày 6-6-1941, Đồng chí Nguyễn ái Quốc gửi thư kêu gọi toàn dân đoàn kết đánh đuổi Nhật-Pháp, chỉ ra điều kiện quan trọng để giành chính quyền "Hiện thời muốn đánh Pháp, Nhật, ta chỉ cần một điều: Toàn dân đoàn kết". Cuối tháng 10-1941, Việt Nam Độc lập Đồng minh công bố tuyên ngôn, chương trình và điều lệ. Từ cuối năm 1941 đến năm 1942, các hội công nhân cứu quốc, nông dân cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, thanh niên cứu quốc, tự vệ cứu quốc... đã được thành lập ở nhiều tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung và ở các thành phố Hà Nội, Hải Phòng. ở Cao Bằng xuất hiện những xã, tổng toàn dân tham gia Việt Minh. ở Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Tuyên Quang, Việt Minh phát triển mạnh mẽ tại nhiều vùng nông thôn và thị xã. * Xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng Đảng rất chủ trọng xây dựng các khu an toàn và căn cứ điạ, lập các đội tự vệ vũ trang. Trung đội cứu quốc quân hình thành từ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, hoạt động tại Vũ Nhai đã bám sát quần chúng, tiến hành cuộc chiến đấu gian khổ trong 8 tháng, phá được cuộc càn quét quy mô lớn của địch (từ giữa năm 1941). Thông qua mặt trận Việt Minh, Đảng mở rộng các tổ chức quần chúng và lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân, học sinh, tiểu thương ở ngay các trung tâm kinh tế, chính trị. Để đẩy tới công việc chuẩn bị khởi nghĩa, cuối tháng 2-1943 Ban thường vụ Trung ương Đảng đã họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên). Hội nghị chủ trương mở rộng mặt trận Việt Minh, liên minh với tất cả các Đảng phái, các nhóm yêu nước ở trong và ngoài nước chưa gia nhập Việt Minh; đẩy mạnh công tác vận động thanh niên, phụ nữ, dân tộc thiểu số và binh lính, chú ý vận động tư sản, địa chủ yêu nước; lập hội Văn hoá cứu quốc. Hội nghị vạch ra kế hoạch cụ thể về chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, phổ biến kinh nghiệm khởỉ nghĩa và chiến thuật du kích, tổ chức huấn luyện các đội tự vệ, các tiểu tổ du kích, đặc biệt coi trọng việc xây dựng lực lượng cách mạng ở thành thị, công tác vận động công nhân tham gia khởi nghĩa. Hội nghị nêu rõ, để làm tròn nhiệm vụ trong giai đoạn mới, phải làm cho Đảng mạnh mẽ và "bônsêvích hoá" vì chính sách lập mặt trận của Đảng càng rộng rãi thì vai trò lãnh đạo của Đảng càng phải vững chắc. Trong hai năm 1943-1944, phong trào cách mạng ở hai miền Bắc, Trung có bước phát triển mới, ở miền Nam được phục hồi. Tổ chức Việt Minh mở rộng ở các thành thị và nông thôn. Trên cơ sở cao trào cách mạng của quần chúng, từ hai căn cứ địa trung tâm Cao Bằng và Bắc Sơn - Võ Nhai nhiều căn cứ địa liên hoàn đã hình thành nối liền Cao Bằng với Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Hà Giang, Bắc Giang, Vĩnh Yên. Nhiều đội du kích thoát ly ra đời. * Chuẩn bị về mặt văn hoá, tư tưởng Trên mặt trận văn hoá tư tưởng, Đảng ta cũng thu được nhiều thành tựu. Nhiều sách báo của Đảng và Mặt trận Việt Minh được xuất bản. Năm 1943, Đảng đưa ra đề cương văn hoá Việt Nam, vũ trang cho toàn Đảng và những người hoạt động văn hoá yêu nước phương hướng chống lại văn hoá phát xít và phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng. Hội văn hoá cứu quốc ra đời. Tháng 6-1944, Đảng dân chủ Việt Nam, tập hợp trí thức yêu nước và tư sản tiến bộ được thành lập và gia nhập Mặt trận Việt Minh. Đầu tháng 5-1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị "Sửa soạn khởi nghĩa". Cuối năm 1944, phong trào cách mạng sôi sục ở nhiều địa phương. ở các căn cứ địa cách mạng, quần chúng đã sẵn sàng nổi dậy. Tháng 10-1944, thực dân Pháp mở cuộc càn quét ở vùng Võ Nhai (Thái Nguyên), đáng lẽ cấp ủy địa phương phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống khủng bố nhưng lại phát động khởi nghĩa vì vậy bị nhiều thiệt hại. Tháng 7-1944, Liên tỉnh uỷ Cao-Bắc-Lạng chủ trương phát động chiến tranh du kích trong liên tỉnh. Tháng 10-1944, từ Trung Quốc về tới Bắc Bó, đồng chí Hồ Chí Minh đã quyết định hoãn chủ trương của liên tỉnh uỷ vì điều kiện chưa chín muồi. Ngay sau đó, Người đề ra chủ trương thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tăng cường hoạt động vũ trang tuyên truyền, đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng chính trị, chuẩn bị cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa sau này. Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, do đồng chí Võ Nguyên Giáp lãnh đạo được thành lập. Vài ngày sau, đội đã đánh thắng hai trận đầu ở Phai Khắt, Nà Ngần, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đánh Nhât, đuổi Pháp. Phần II- Sự lựa chọn đúng thời cơ của Đảng và chủ tịch Hồ Chí minh Cùng với sự chuẩn bị chu đáo trong suốt 15 năm (1930-1945) cả về lực lượng và tinh thần Cách mạng Đảng cũng đã chớp đúng thời cơ tạo nên chiến thắng cho cách mạng. Thời cơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những điều kiện trong nước và bên ngoài, trong đó điều kiện bên trong giữ vai trò quyết định. Trong bất kì trò quyết định một cuộc chiến đấu nào thời cơ tiến công là vô cùng quan trọng. Việc xác định, nắm bắt và phát huy triệt để thời cơ có thể làm nên thắng lợi quyết định, xoay chuyển và làm thay đổi hoàn toàn cục diện chiến tranh. Trong lịch sử chúng ta đã chứng kiến nhiều sự tận dụng thời cơ để giành lấy thắng lợi quyết định như trong CM Tư sản Pháp (1979), cách mạng tháng 10 ở Liên Xô (1917) trong đó trận đại thắng Stalingrat đã làm thay đổi cục diện chiến tranh thế giới. Dân tộc Việt Nam có truyền thống dựng nước và giữ nước nên trong những cuộc chiến đấu với kẻ thù cha ông ta luôn biết cách tận dụng triệt để thời cơ chiến thắng kẻ thù. Cách mạng Tháng Tám là cuộc tổng khởi nghĩa của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành thắng lợi nhanh chóng trong vòng 15 ngày, trong đó nắm bắt thời cơ hành động là một nhân tố hết sức quan trọng để làm nên chiến thắng. Chúng ta đã thực hiện thời cơ với một quyết tâm rất cao, Hồ Chủ Tịch kêu gọi: “ Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Câu nói đó của Bác vừa thể hiện thời cơ đã đến và quyết tâm giành độc lập của người dân Việt Nam. Thực tiễn đã chứng minh điều đó. 1. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy giành chính quyền. Từ ngày 14-8, các đơn vị giải phóng quân đã liên tiếp hạ nhiều đồn Nhật thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên,Tuyên Quang, Yên Bái. Ngày 18-8, nhân dân các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Phúc Yên, Thái Bình, Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Quảng Nam và Khánh Hoà giành chính quyền ở tỉnh lỵ. Ngày 17-8, đông đảo nhân dân thành phố Hà Nội, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của mặt trận Việt Minh, đã biến cuộc mít tinh chính quyền bù nhìn ở Nhà hát lớn thành cuộc mít tinh và diễu hành của nhân dân ta, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Theo chủ trương "sẵn sàng chuyển sang tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện" của Trung ương, căn cứ thực tế diễn biến ngày 17-8, đêm 17-8, Xứ uỷ Bắc Kỳ cùng với thành uỷ Hà Nội quyết định tổng khởi nghĩa ở Hà Nội vào ngày 19-8-1945. Sáng 19-8, hàng chục vạn quần chúng nội thành và ngoại thành Hà Nội về quảng trường Nhà hát thành phố dự cuộc míttinh do Việt Minh tổ chức, hô vang các khẩu hiệu: - Đả đảo chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim! - Thành lập Chính phủ Cộng hoà nhân dân Việt Nam!- Anh em binh lính hãy mang súng gia nhập hàng ngũ chiến đấu bên cạnh Việt Minh! - Việt Nam hoàn toàn độc lập! Sau cuộc míttinh, quần chúng xuống đường biểu tình vũ trang, tiến về các ngả đường đánh chiếm các cơ quan của chính quyền bù nhìn, trước hết là phủ Khâm sai, toà thị chính, trại lính bảo an, sở cảnh sát. Bạo lực cách mạng và khí thế sục sôi khởi nghĩa của quần chúng đã buộc ngụy quyền đầu hàng và buộc quân Nhật phải để cho nhân dân giành chính quyền làm chủ toàn bộ thành phố. Thắng lợi của tổng khởi nghĩa ngày 19-8 ở Hà Nội có ý nghĩa quyết định đối với cả nước, làm cho chính quyền tay sai Nhật các nơi bị tê liệt, cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ các tỉnh và thành phố khác nổi dậy giành chính quyền, nhất là Huế và Sài Gòn. Ngày 23-8, dưới sự lãnh đạo của Xứ uỷ Trung Kỳ và Tỉnh uỷ Thừa Thiên, 150.000 nhân dân thành phố Huế và các huyện ở Thừa Thiên đã nổi dậy chiếm các công sở của nguỵ quyền triều đình Huế và buộc vua Bảo Đại phải đầu hàng bằng hình thức thoái vị. Chiều 30-8 trước cửa Ngọ Môn, trước cuộc míttinh hàng vạn người tham gia, vua Bảo Đại đọc lời thoái vị và nộp ấn kiếm cho cách mạng. Đại diện chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố xóa bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam . Khi được tin Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế thắng lợi, Đảng bộ miền Nam quyết định chọn ngày 25-8 làm ngày khởi nghĩa ở Sài Gòn và các tỉnh còn lại. Ngày 25-8, hơn 1 triệu nhân dân thành phố Sài Gòn và các tỉnh chung quanh biểu tình tuần hành thị uy, hô vang các khẩu hiệu: - Đả đảo bù nhìn Nguyễn Văn Sâm! - Việt Nam hoàn toàn độc lập! - Tất cả chính quyền về tay Việt Minh! - Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm! Nhân dân khởi nghĩa chiếm sở cảnh sát, nhà ga, bưu điện, các bốt, các quận, sở mật thám Catina… ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù đã lãnh đạo 10.000 chiến sỹ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền làm chủ trên đảo. Cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đã thành công trên cả nước trong vòng nửa tháng. Ngày 2-9-1945, trong cuộc míttinh lớn của gần 1 triệu người tại vườn hoa Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản tuyên ngôn độc lập lịch sử, tuyên bố với nhân dân ta và thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà độc lập, tự do và khẳng định quyết tâm sắt đá "toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Kể từ đó, ngày 2-9 trở thành ngày Quốc khánh của nước ta. 2. Nghệ thuật lãnh đạo của Đảng Để đưa cao trào giải phóng dân tộc (1939-1945) đến thắng lợi bằng cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, có ba thời điểm lịch sử thể hiện bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo đặc biệt của đảng ta: đó là các hội nghị Trung ương từ cuối năm 1939 đến đầu năm 1941 phát triển hoàn chỉnh, sáng tạo đường lối giải phóng dân tộc; những quyết sách quan trọng cuối năm 1944 đầu năm 1945 thổi bùng lên cao trào kháng Nhật cứu nước; quyết định Tổng khởi nghĩa của Hội nghị đảng toàn quốc. Các Hội nghị Trung ương đảng (11-1939), (11-1940) và nhất là Hội nghị Trung ương VIII (5-1941) đã đề ra những quan điểm và biện pháp cơ bản chỉ đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Một là, phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị Trung ương 11-1939 chủ trương "Phải đưa cao cây cờ dân tộc lên". "Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập" (2). Hội nghị Trung ương VIII do Hồ Chí Minh chủ trì (5-1941) nhấn mạnh: "Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của đảng ta" (3). "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi giải phóng của toàn thể dân tộc" (4). Hai là, động viên, tổ chức và đoàn kết lực lượng của toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất và lựa chọn hình thức tổ chức Mặt trận Việt Minh. Nếu Hội nghị Trung ương chủ trương lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thì Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 chủ trương lập Mặt trận riêng của Việt Nam đó là Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh). Tổ chức Mặt trận trong khuôn khổ dân tộc Việt Nam nhằm khơi dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc, yêu nước nhằm vào mục tiêu độc lập dân tộc. Mặt trận được xây dựng hệ thống tổ chức chặt chẽ và bao gồm các đoàn thể cứu quốc. Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng cách đưa quan điểm, chính sách vào các đoàn thể và hoạt động của Mặt trận và thông qua các đảng viên tham gia Mặt trận và đoàn thể. Ba là, đảng chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), Đảng chủ trương phát triển lực lượng vũ trang từ đội du kích Bắc Sơn, xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn - Vũ Nhai, xây dựng cứu quốc quân. Ngày 28-1-1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước và trực tiếp chỉ đạo xây dựng căn cứ địa cách mạng ở Cao Bằng. Tại các căn cứ địa lực lượng chính trị của quần chúng tập hợp trong Mặt trận Việt Minh ngày càng phát triển rộng lớn. Từ lực lượng chính trị đó phát triển lực lượng vũ trang. Những vấn đề về chính quyền, về kinh tế, xã hội cũng được đặt ra và thực hiện ở vùng căn cứ địa cách mạng. Bốn là, Đảng đặt nhiệm vụ khởi nghĩa vũ trang để giành độc lập, giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm. Hội nghị Trung ương (11-1939) đó chủ trương: dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc. Hội nghị Trung ương (5-1941) xác định: "Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang". Phải chuẩn bị lực lượng sẵn sàng để có thể "lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc Tổng khởi nghĩa to lớn"(5). Các hội nghị Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn phân tích tình hình chiến tranh thế giới, âm mưu thủ đoạn của thực dân Pháp, phát-xít Nhật và dự báo thời cơ, chỉ đạo xây dựng lực lượng về mọi mặt, chú trọng công tác xây dựng Đảng để đảng có thể hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo thành công cách mạng giải phóng dân tộc. Năm 1944, tình hình thế giới có những chuyển biến mau lẹ, phong trào cách mạng trong nước đó phát triển mạnh mẽ, Đảng và Mặt trận Việt Minh đã chủ trương về sửa soạn khởi nghĩa và sắm vũ khí đuổi thù chung. Hồ Chí Minh trong thư gửi đồng bào toàn quốc 10-1944 đã chỉ rõ Cơ hội cho dân tộc ta, giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh. Người chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (22-12-1944). Ngày 9-3-1945 phát-xít Nhật đã làm đảo chính gạt bỏ thực dân Pháp để độc chiếm Đông Dương. Thường vụ Trung ương Đảng đã kịp thời ra bản chỉ thị lịch sử: Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (12-3-1945). Chỉ thị nêu rõ kẻ thù của cách mạng là phát-xít Nhật, vì vậy khẩu hiệu là đánh đuổi phát-xít Nhật. Đảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Đây là thời kỳ tiền khởi nghĩa, phải thay đổi mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho phù hợp. Sẵn sàng chuyển sang Tổng khởi nghĩa. Chỉ thị của Trung ương cũng phân tích thời cơ cách mạng và cho rằng những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi. Những điều kiện thuận lợi đó là: Chính trị khủng hoảng, kẻ thù hoang mang không rảnh tay đối phó với cách mạng; nạn đói ghê gớm làm cho quần chúng căm giận quân cướp nước; chiến tranh thế giới đến giai đoạn quyết liệt; đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương để đánh Nhật. Đó là sự vận dụng tư tưởng của Mác và Lê-nin về khởi nghĩa vũ trang phối hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Những điều kiện để khởi nghĩa mà chỉ thị của Trung ương nêu ra đó là định hướng quan trọng để các Đảng bộ địa phương chủ động phát động và lãnh đạo khởi nghĩa. Bản Chỉ thị cũng chủ trương phá kho thóc gạo của đế quốc để cứu đói, lập Ủy ban quân sự cách mạng và xây dựng chính quyền (các Ủy ban dân tộc giải phóng và Ủy ban nhân dân). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cao trào cách mạng phát triển mạnh mẽ. Tháng 4-1945 các lực lượng vũ trang cách mạng thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 4-6-1945, thành lập khu giải phóng Việt Bắc với sáu tỉnh như là căn cứ địa của cách mạng cả nước, hình ảnh của nước Việt Nam mới. Tổ chức Việt Minh phát triển rộng khắp trên cả nước. Không chỉ ở căn cứ địa, ở vùng nông thôn mà phong trào ở đô thị cũng phát triển mạnh mẽ, nhất là phong trào công nhân, học sinh, sinh viên trí thức. Theo tư tưởng của đề cương văn hóa 1943 của Đảng, tổ chức văn hóa cứu quốc đã tập hợp đông đảo các nhà văn hóa vào trận tuyến đấu tranh cách mạng của dân tộc. Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng chuyển về Tuyên Quang. Tại Tân Trào (Tuyên Quang) đó diễn ra Hội nghị toàn quốc của đảng họp ngày 14 và 15-8-1945. Hội nghị của Đảng họp ở thời điểm lịch sử phong trào cách mạng của toàn dân ta diễn ra sôi sục trong cả nước và phát-xít Nhật đầu hàng vô điều kiện (15-8). Đảng ta nhận định "cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới" (6). Mục đích cuộc chiến đấu của ta giành quyền độc lập hoàn toàn. Tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa theo ba nguyên tắc: a) Tập trung-tập trung lực lượng vào những việc chính; b) Thống nhất - thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy; c) Kịp thời - kịp thời hành động, không bỏ lỡ thời cơ. Khẩu hiệu đấu tranh của đảng là Phản đối xâm lược, hoàn toàn độc lập, chính quyền nhân dân. Hội nghị đảng toàn quốc công bố mười chính sách của Việt Minh và nhấn mạnh chủ trương "Lập nên một nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa hoàn toàn độc lập" (7). Lệnh khởi nghĩa (Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa) được ban bố: Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng! Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta. Cũng ở thời điểm lịch sử đó Hồ Chí Minh có Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa nêu rõ: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta"(8). Ngày 16-8-1945, Quốc dân đại hội họp và ra Nghị quyết về giành chính quyền toàn quốc và thi hành mười chinh sách lớn của Việt Minh, Ủy ban dân tộc giải phóng được thành lập gồm 15 ủy viên do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Thường trực Ủy ban gồm Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Dương Đức Hiền trực tiếp chỉ đạo cuộc Tổng khởi nghĩa. Ủy ban Dân tộc giải phóng là tổ chức tiền thân của Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Nghị quyết của Quốc dân đại hội nhấn mạnh mục tiêu: "Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập"(9). Thực hiện Nghị quyết của Đảng và Quốc dân đại hội, chỉ trong vòng hai tuần từ 14 đến 28-8-1945, nhân dân cả nước ta đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc Cách mạng Tháng Tám. Sự lãnh đạo kiên quyết, sáng suốt và kịp thời của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa quyết định thắng lợi. Khi n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12078.doc
Tài liệu liên quan