Đề tài Sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước để cho vay giải quyết việc làm trong nông nghiệp

Trường hợp có nhiều dự án cùng gửi xét duyệt thẩm định, trong điều kiện nguồn vốn vay có hạn việc duyệt dự án nào trước, sau có thể tạo ra cơ chế xin cho hoặc khi thẩm định do tình cảm hoặc lợi ích cá nhân, có thể có trường hợp thẩm định không đúng với thực tế của người vay.

Đối với các dự án vùng, dự án hội đoàn thể quần chúng, hội nghề nghiệp (dự án có nhiều hộ vay), không thể thẩm định hết các hộ vay do lực lượng cán bộ thẩm định còn quá ít, vì vậy kết quả thẩm định chưa đạt hiệu quả cao. Một số nơi việc cấp đăng ký kinh doanh chưa đúng với thực tế, tạo điều kiện cho chủ cơ sở kinh doanh hoàn tất thủ tục hồ sơ vay vốn nhưng thực tế các cơ sở này chưa đủ điều kiện để cấp đăng ký kinh doanh.

Hiện nay việc phê duyệt ra quyết định cho vay do UBND tỉnh hoặc cơ quan trung ương các tổ chức đoàn thể, hội quần chúng ra quyết định. Vì vậy hồ sơ dự án vay sau khi được thẩm định ở huyện phải chuyển về Ban chỉ đạo cho vay GQVL tỉnh hoặc hội đoàn thể cấp tỉnh xem xét trình duyệt, làm chậm tiến độ kể từ khi thẩm định đến lúc có quyết định cho vay.

 

doc128 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1202 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước để cho vay giải quyết việc làm trong nông nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i, hướng dẫn cách làm ăn, kỹ thuật khuyến nông, khuyến lâm, chỉ dẫn thị trường tiêu thụ sản phẩm... Có như vậy hộ nghèo mới có thể tiếp cận với vốn tín dụng. Mặt khác, việc tuyên truyền chính sách tín dụng hộ nghèo thực hiện chưa tốt, nhiều hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa không phân biệt được vốn tín dụng với vốn cấp phát cho không. Đây là những nguyên nhân phát sinh nợ khó đòi. + Trong những năm vừa qua, hoạt động của tổ nhóm tương trợ ở một số nơi còn mang nặng tính hình thức. Mặc dù năm 2000, NHNg đã tiến hành đào tạo tổ vay vốn nhưng số tổ được đào tạo còn ít, chỉ có 30% số tổ hiện có được đào tạo. Hoạt động của tổ chưa được đào tạo thường kém hiệu quả, chưa nâng cao trách nhiệm của tổ trong tất cả các khâu của quá trình cho vay: Bình xét hộ vay, giám sát kiểm tra, việc phát tiền vay và sử dụng vốn vay. Nhiều tổ nhóm hoạt động còn nghèo nàn, không sinh hoạt hoặc có sinh hoạt nhưng chỉ là lấy lệ để được vay vốn. Tổ trưởng tổ vay vốn đôi khi không do hội viên bầu ra mà do tổ chức đoàn thể hoặc UBND xã phường chỉ định, do đó gây ra mâu thuẫn mất đoàn kết trong nội bộ tổ vay vốn. Việc kiểm tra, giám sát của các cơ quan đoàn thể, chính quyền địa phương, NHNg chưa sát sao nên đã xảy ra nhiều tiêu cực như thu phí vay vốn của hộ nghèo không đúng quy định, tiền thu do được uỷ thác thu nợ không nhập vào ngân hàng mà sử dụng vào các mục đích tiêu dùng gây tổn thất, rủi ro vốn vay. Cá biệt có nhiều trường hợp các xã đã dùng số tiền người nghèo được vay để sử dụng sai mục đích dẫn đến nợ quá hạn kéo dài và không thu được nợ. + Đối với những khoản rủi ro bất khả kháng xảy ra các năm 1996, 1997 với số tiền là 117 tỷ đồng, đã được Chính phủ cho khoanh 3 năm (từ 1/1/1998 đến 1/1/2001). Mặc dù nhiều tỉnh đã tích cực bám sát hộ có điều kiện trả nợ để thu hồi được 42 tỷ đồng, số còn lại 76 tỷ đồng đã hết hạn khoanh. Hầu hết số nợ khoanh còn lại đều thuộc diện rất khó thu hồi và không còn khả năng thu hồi. Trong chương 2, luận án đã tập trung nghiên cứu thực trạng cho vay GQVL từ nguồn vốn NSNN trong nông nghiệp. Phân tích về cho vay GQVL ở khu vực nông nghiệp nông thôn như: cho vay GQVL đối với các làng nghề, đối với vùng sâu vùng xa, đối với các hội đoàn thể, đối với kinh tế hộ gia đình, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút lao động trong nông nghiệp. Tác giả luận án đã hệ thống hoá cơ chế cho vay GQVL qua KBNN và qua NHNg. Bằng việc sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích diễn giải với các số liệu cụ thể, luận án đã làm rõ những kết quả cũng như những mặt còn tồn tại, nguyên nhân của những tồn tại để làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp hoàn thiện cho vay GQVL trong nông nghiệp. Chương 3 giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cho vay Giải quyết việc làm trong nông nghiệp. 3.1 - Đặc điểm nông nghiệp Việt Nam và những vấn đề kinh tế chủ yếu ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp. 3.1.1- Đặc điểm của nông nghiệp Việt Nam: Sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam mang những đặc điểm chung như: Sản xuất nông nghiệp tiến hành trên địa bàn rộng và lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu, sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao. Tuy nhiên sản xuất nông nghiệp ở nước ta cũng có những đặc điểm riêng như: - Nông nghiệp nước ta có xuất phát điểm thấp từ tình trạng lạc hậu tự cung, tự cấp tiến lên xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá định hướng xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đến nay nhiều nước có nền kinh tế phát triển, nông nghiệp đã đạt trình độ sản xuất hàng hoá cao, nhiều khâu công việc được thực hiện bằng máy móc. Năng suất ruộng đất và năng suất lao động đạt trình độ cao, tạo ra sự phân công lao động sâu sắc trong nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tỷ lệ dân số và lao động trong nông nghiệp giảm xuống cả về số tương đối và tuyệt đối. Đời sống của nông dân và kinh tế nông thôn được cải thiện, ngày càng xích gần với thành thị.Trong khi đó, nông nghiệp nước ta với điểm xuất phát còn rất thấp, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, kết cấu hạ tầng nông thôn còn yếu kém, lao động thuần nông còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội, năng suất lao động và năng suất ruộng đất còn thấp... Từ khi thực hiện chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần , nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển vượt bậc và đạt được những thành tựu to lớn, nhất là về lương thực, chẳng những tự trang trải được nhu cầu trong nước mà còn có dự trữ, dư thừa để xuất khẩu. Hàng năm nước ta đã xuất khẩu được từ 1.5 - 2 triệu tấn gạo. Bên cạnh đó, cà phê, cao su, chè, hạt điều... cũng đã và đang là nguồn nông sản xuất khẩu quan trọng. Nhiều vùng trong cả nước đã và đang thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm cung cấp ngày càng nhiều nông sản hàng hoá đa dạng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế quốc dân. - Đất nước ta nằm trong vành đai nhiệt đới, nhiệt đới ẩm thuộc khu vực gió mùa Đông Nam á, được trải rộng trên bốn vùng lớn: trung du, miền núi, đồng bằng và ven biển. Trong quá trình xây dựng và phát triển nền nông nghiệp, chúng ta có nhiều thuận lợi rất cơ bản, đồng thời cũng có không ít những khó khăn. Thời tiết khí hậu nước ta có những thuận lợi rất cơ bản: Hàng năm có lượng mưa bình quân tương đối cao cung cấp nguồn nước ngọt rất phong phú, có nguồn năng lượng mặt trời dồi dào (cường độ ánh sáng lớn, nhiệt độ trung bình hàng năm là 23o C...); các loại cây trồng, vật nuôi phong phú và đa dạng. Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, điều kiện thời tiết - khí hậu nước ta cũng có nhiều khó khăn như do mưa nhiều và lượng mưa thường tập trung vào ba tháng trong năm nên thường gây ra lũ lụt, ngập úng. Nắng nhiều nên thường gây nên khô hạn, có những vùng thiếu cả nước cung cấp cho người và vật nuôi. Khí hậu ấm, ẩm ướt tạo điều kiện phát sinh và lây lan sâu bệnh, dịch bệnh, gây ra những tổn thất lớn đối với mùa màng và vật nuôi. Trong quá trình đưa nông nghiệp đi lên sản xuất hàng hoá, chúng ta cần tìm mọi cách để phát huy những thuận lợi cơ bản và hạn chế những khó khăn do thiên tai gây ra, nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển nhanh chóng và vững chắc. Những đặc điểm trên đây của nông nghiệp Việt Nam đã chi phối hoạt động cho vay GQVL trong nông nghiệp và thể hiện ở một số điểm sau đây: Thứ nhất, định hướng cho vay vốn GQVL trong nông nghiệp phải tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế xã hội, tự nhiên nhằm khai thác tốt nhất tiềm năng lao động, đất đai của từng vùng. Thứ hai, do đặc thù sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao do đó khi phê duyệt, thẩm định các dự án vay vốn đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp phải chú ý đến tính thời vụ trong sản xuất kinh doanh. Các dự án được phê duyệt phải đảm bảo tính khả thi và phù hợp với chu kỳ sinh trưởng của cây trồng vật nuôi. Thứ ba, việc quy định mức vay, thời hạn vay căn cứ vào nhu cầu đầu tư của người vay và chu kỳ sinh trưởng của sản phẩm (cây trồng, vật nuôi), gắn việc cho vay với thu nợ hoặc gia hạn nợ để người vay có thể thu hồi vốn hoàn trả gốc và lãi cho Nhà nước. 3.1.2 - Những vấn đề kinh tế chủ yếu ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp: Trong thực tiễn, quá trình phát triển nông nghiệp chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố về kinh tế, cụ thể: 3.1.2.1 - Vấn đề thị trường: Thị trường được coi là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đối với hoạt động của kinh tế hộ gia đình và của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong khu vực nông nghiệp, nông thôn. Các doanh nghiệp hoạt động trong một số lĩnh vực chủ chốt như kinh doanh lương thực, xuất nhập khẩu phải chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở phối hợp chặt chẽ với kinh tế Nhà nước và các loại hình kinh tế hợp tác, dịch vụ trong sản xuất nông nghiệp nông thôn. Trong xu thế toàn cầu hoá, vấn đề thị trường là yếu tố sống còn đối với bất kì quốc gia nào. Để tiếp cận được với thị trường, chúng ta phải thay đổi quan niệm và có nhận thức mới về sản xuất nông nghiệp ở nước ta; có nghĩa là phải xác định cho được những loại sản phẩm phải sản xuất, cũng như quy mô sản xuất gắn với nhu cầu thị trường trong nước và nước ngoài. Chúng ta phải khắc phục thói quen sản xuất tự cấp, tự túc, làm quen với nền sản xuất hàng hoá, có thị trường mới sản xuất, không có thị trường không sản xuất, thị trường cần đến mức nào ta làm đến mức ấy, phải sản xuất những sản phẩm thị trường cần, tập trung đầu tư sản xuất những loại sản phẩm mang tính cạnh tranh cao. 3.1.2.2- Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng nông thôn. Việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật và hệ thống kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp và nông thôn là điều kiện tiên quyết để đưa nông nghiệp nước ta phát triển nhanh và có hiệu quả. Cho đến nay cơ sở vật chất - kỹ thuật nông nghiệp và nông thôn còn thấp kém, chủ yếu dựa vào lao động thủ công với kinh nghiệm truyền thống. Hệ thống công cụ sản xuất phần lớn còn thô sơ, giản đơn, tỷ lệ công cụ sản xuất bằng máy móc không đáng kể. Hệ thống kết cấu hạ tầng lạc hậu chưa đảm bảo làm tiền đề cơ bản cho việc sản xuất, giao lưu hàng hóa giữa các vùng và trong nội bộ vùng. Vì lẽ đó mà năng suất ruộng đất còn thấp, năng suất cây trồng và vật nuôi chưa cao, đặc biệt năng suất lao động nông nghiệp và nông thôn nước ta còn rất thấp. Hiện nay còn trên 80% dân cư sống ở nông thôn trong đó lao động nông nghiệp chiếm tới hơn72% trong tổng số lao động xã hội nhưng tạo ra giá trị nông sản đáp ứng nhu cầu cho xã hội còn chưa cao. Như vậy, tăng nhanh năng suất lao động nông nghiệp đã trở thành yêu cầu bức xúc, từng bước giảm tương đối và tuyệt đối lao động nông nghiệp, muốn thế phải tăng cường việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật và hệ thống kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp và nông thôn, trước hết coi trọng giống cây trồng và vật nuôi, đảm bảo giống cây tốt cho nông dân, đảm bảo nguồn phân bón (bao gồm phân hữu cơ và vô cơ) là cơ sở để thực hiện thâm canh, tăng nhanh năng suất ruộng đất, củng cố nâng cấp và xây dựng hệ thống thuỷ nông đảm bảo chủ động tưới tiêu, tăng cường hệ thống cơ sở chế biến nông sản... 3.1.2.3 - Xây dựng các vùng nông nghiệp chuyên môn hoá sản xuất, nhất là những nông sản chủ yếu, có giá trị xuất khẩu cao. Những năm gần đây với các chính sách kinh tế mới được ban hành, nông nghiệp và nông thôn nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhất là vấn đề lương thực. Trong quá trình đó một số vùng trọng điểm sản xuất hàng hoá tập trung được hình thành và phát triển. Cây công nghiệp lâu năm phát triển mạnh và đang hình thành các vùng sản xuất với quy mô lớn, vùng cao su miền đông Nam bộ chiếm 86,7% diện tích thu hoạch và 89% sản lượng cao su mủ khô của cả nước, cà phê Đaklak chiếm 45,6% diện tích thu hoạch và 54,4% sản lượng cà phê nhân của cả nước... Tuy nhiên, số lượng các vùng chuyên môn hoá chưa nhiều, quy mô sản xuất hàng hoá chưa lớn, tiềm năng để khai thác nền nông nghiệp nhiệt đới còn lớn, song chưa được sử dụng hợp lý. Vì vậy cần thiết phải xây dựng nhiều vùng nông nghiệp chuyên môn hoá để tạo cho đất nước nhiều loại nông sản có giá trị với quy mô lớn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. 3.1.2.4 Đổi mới hoàn thiện chính sách vĩ mô trong nông nghiệp. Trong những năm qua, hàng loạt chính sách được ban hành, nông nghiệp, nông thôn đã có bước phát triển mạnh mẽ. Nền nông nghiệp cơ bản đã là một nền nông nghiệp hàng hoá, quan hệ sản xuất từng bước được đổi mới, phát huy mạnh mẽ vai trò kinh tế hộ, đời sống nông dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên cũng còn những thiếu sót, khuyết điểm cần phải khắc phục: Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn chuyển dịch chậm, ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn chưa thu hút được nhiều lao động. Đời sống vật chất, văn hoá ở nhiều vùng nông thôn còn thấp kém, lao động chủ yếu là thủ công, kỹ thuật sản xuất theo kinh nghiệm truyền thống, thiếu việc làm nghiêm trọng nhất là các vùng đông dân Nguyên nhân của những yếu kém trên là do một số chính sách về nông nghiệp nông thôn chưa phù hợp nhất là các chính sách về đất đai, tín dụng, khoa học công nghệ và thị trường. Vì vậy để phát triển nông nghiệp nông thôn cần tập trung vào một số chính sách cơ bản sau: - Về lao động và việc làm: GQVL trong nông nghiệp cần tập trung vào phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ đặc biệt là khôi phục các làng nghề truyền thống, tạo việc làm tại chỗ cho những lao động dư thừa ở nông thôn trong điều kiện vốn ít và công nghệ lạc hậu, sử dụng được các loại hình lao động. - Về chính sách tín dụng: Đa dạng hoá các hình thức tín dụng, tín dụng ngắn hạn là hình thức tài trợ chủ yếu của các tổ chức tín dụng để hỗ trợ việc làm ở khu vực nông thôn. Kết hợp nhiều hình thức tín dụng của nhiều tổ chức tín dụng khác nhau đặc biệt là hình thức cho vay vốn với điều kiện ưu đãi ( lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường, đảm bảo tiền vay bằng tín chấp, thời hạn cho vay là ngắn hạn và trung hạn). - Về phát triển công nghiệp dịch vụ, chế biến: Phát triển công nghiệp dịch vụ chế biến nhằm thu hút lao động tại chỗ. Thực hiện phương châm " Ly nông bất ly hương", chú ý công nghệ sau thu hoạch kết hợp với các chính sách khác như thông tin thị trường, trợ giá, hỗ trợ xuất khẩu, chính sách thuế 3.2- Một số quan điểm cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới công tác cho vay Giải quyết việc làm: Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, nguồn lực NSNN có hạn nhưng sức ép về việc làm ngày càng lớn thì đòi hỏi phải có nhiều biện pháp tích cực để GQVL, trong đó cho vay GQVL là giải pháp quan trọng nhằm góp phần tạo việc làm, động viên mọi người tự tạo việc làm, bỏ vốn cùng với Nhà nước để phát triển sản xuất, tạo việc làm cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên GQVL là vấn đề kinh tế xã hội phức tạp bởi vì chính sách việc làm là hệ thống chính sách chung có liên quan đến việc mở rộng và phát triển lực lượng lao động của toàn xã hội như: khuyến khích phát triển khu vực, ngành nghề có khả năng thu hút nhiều lao động, chính sách tạo việc làm cho đối tượng nghèo trong xã hội, chính sách về đào tạo nghề cho lao động... Để cho vay GQVL đạt được hiệu quả, gắn với ổn định tăng trưởng kinh tế của đất nước đòi hỏi việc nâng cao hiệu quả công tác cho vay GQVL trong thời gian tới cần phải quán triệt các quan điểm cơ bản sau đây: 3.2.1- Nhận thức đầy đủ, sâu sắc vai trò, vị trí của nông nghiệp nông thôn và nông dân khi chuyển sang kinh tế thị trường, tăng cường hỗ trợ tín dụng từ Ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn và đặc biệt cho nông dân phát triển kinh tế hộ. Nông nghiệp giữ vai trò rất to lớn trong việc phát triển kinh tế, nhất là ở các nước đang phát triển. Nhiều điển hình của sự thành công và phát triển ở một số nước đều dựa vào tích luỹ ban đầu từ nông nghiệp và công nghiệp nhẹ để đầu tư cho công nghiệp, nông nghiệp và nông thôn là thị trường rộng lớn của công nghiệp. ở hầu hết các nước đang phát triển, sản phẩm công nghiệp bao gồm tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng chủ yếu dựa vào thị trường trong nước mà trước hết là khu vực nông nghiệp và nông thôn. Phát triển nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho dân cư nông thôn, làm tăng sức mua từ khu vực nông thôn sẽ làm cho cầu các sản phẩm công nghiệp tăng, thúc đẩy công nghiệp phát triển. Hỗ trợ tín dụng cho hộ gia đình là giải pháp hết sức quan trọng bởi vì chỉ như vậy mới tạo công ăn việc làm thực sự cho nông dân, không những họ có vốn để sản xuất mà còn tạo điều kiện trang bị cho họ có kiến thức để vươn lên làm giàu chính đáng, đóng góp vào kết quả của công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Cần đánh giá đúng vai trò nông nghiệp của nông thôn để có chính sách đầu tư thoả đáng vì hiện nay số người nghèo chủ yếu tập trung ở nông thôn. Do vậy, chú trọng phát triển nông nghiệp và nông thôn sẽ giảm được số người nghèo, giải quyết được việc làm, tăng thu nhập, tăng sức mua cho nông dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung và tạo đà cho sự phát triển công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên không phải phát triển nông nghiệp tất yếu sẽ giảm được nghèo đói ở nông thôn bởi vì có nước tốc độ phát triển nông nghiệp nhanh nhưng nông thôn vẫn nghèo, chính sách phát triển nông nghiệp không đi đôi với chính sách phát triển nông thôn, không gắn với giải quyết vấn đề sở hữu và sử dụng ruộng đất, không có chính sách tài trợ cho người nghèo SXKD.. Chính phủ cần can thiệp bằng các cơ chế chính sách để đổi mới nông nghiệp và nông thôn, tạo điều kiện cho nông dân ổn định cuộc sống, nâng cao thu nhập. 3.2.2- Cho vay giải quyết việc làm phải đảm bảo khai thác tiềm năng đất đai, thế mạnh về nguồn lực lao động, phải kết hợp giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội: Hiện nay tiềm năng phát triển kinh tế đáp ứng yêu cầu tạo việc làm còn khá lớn song trên thực tế chúng chưa được khai thác đầy đủ và triệt để, chưa gắn lao động với tiềm năng đất đai và tài nguyên thiên nhiên. Đáng chú ý nhất là tiềm năng về đất ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, miền núi phía Bắc,ven biển, hải đảo còn khá lớn nhưng chưa được khai thác để đưa vào sử dụng(còn khoảng 3- 4 triệu ha có khả năng sản xuất phát triển nông nghiệp chưa được sử dụng; 9 triệu ha đất trống đồi núi trọc, hệ số sử dụng đất bình quân thấp). Việc chưa khai thác hết tiềm năng không những gây lãng phí của cải vật chất của xã hội mà còn không tận dụng được cơ sở vật chất sẵn có để GQVL cho người lao động, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vì vậy cho vay GQVL là một biện pháp của chính sách việc làm góp phần khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, từng địa phương để phát triển kinh tế xã hội, tạo thêm nhiều công ăn việc làm hoặc ổn định việc làm. Phải có sự kết hợp ba yếu tố của quá trình sản xuất lao động, vốn và đối tượng lao động nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất xã hội. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay việc khai thác tiềm năng lao động đòi hỏi phải lựa chọn công nghệ sản xuất phù hợp, sử dụng nhiều lao động đôi khi còn có hiệu quả kinh tế - xã hội hơn là nhập những công nghệ hiện đại (sử dụng ít lao động và sử dụng lao động ở trình độ cao). Cho vay GQVL góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đồng thời giải quyết vấn đề lao động xã hội. Tuy nhiên nếu các dự án vay vốn không đạt được mục tiêu kinh tế mà chỉ đạt mục tiêu xã hội thì sẽ phát sinh nhiều vấn đề phức tạp như nợ quá hạn, tồn đọng vốn do đó phải kết hợp giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội để tạo sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển. 3.2.3 - Cho vay giải quyết việc làm phải dựa trên chiến lược phát triển kinh tế xã hội và gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp: Cho vay GQVL là một chương trình thuộc chính sách việc làm quốc gia do đó phải dựa trên chiến lược kinh tế xã hội của đất nước đồng thời bảo đảm nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn. Mục tiêu tổng quát và nhiệm vụ chủ yếu phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001- 2005 là: Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. tạo nhiều việc làm, cơ bản xoá đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia [14, tr.262]. Mục tiêu về việc làm đã được Đảng và Nhà nước ta cụ thể hoá qua các chỉ tiêu “Tạo việc làm và giải quyết việc làm cho khoảng 7,5 triệu lao động, bình quân 1,5 triệu / năm, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005” [14, tr.265]. Để đạt được mục tiêu trên việc cho vay GQVL phải đạt được các yêu cầu sau đây: 3.2.3.1- Cho vay giải quyết việc làm phải gắn chặt với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta hiện nay là chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cơ cấu các ngành kinh tế chiếm tỷ trọng trong GDP (Tổng sản phẩm quốc nội) dự kiến đến 2005 là [14, tr.265]: + Tỷ trọng nông lâm nghiệp 20 - 21 %. + Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 38 - 39 %. + Tỷ trọng các ngành dịch vụ 41- 42 %. Cho vay GQVL phải góp phần chuyển dần lao động từ khu vực nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, cụ thể mục tiêu đầu tư như sau: - Trước mắt cần tập trung vốn cho các lĩnh vực sản xuất nông lâm, ngư nghiệp, gắn liền với tiểu thủ công nghiệp, chế biến và dịch vụ. Góp phần xây dựng nông thôn mới, xoá đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế xã hội các vùng có khó khăn. Kết hợp chặt chẽ với các chương trình khác tạo chuyển biến cơ bản về kinh tế xã hội theo định hướng của từng vùng. - GQVL cho người lao động ở thành phố, thị xã và các khu công nghiệp tập trung cần thực hiện theo định hướng sau: Trong lĩnh vực cho vay vốn ưu đãi GQVL, Nhà nước cần tập trung vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhu cầu vốn thấp, quay vòng nhanh và tạo nhiều việc làm. Trước hết ưu tiên cho vay các dự án tiểu thủ công nghiệp, sản xuất, gia công, chế biến nông, lâm sản phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó, cần mở rộng cho vay lĩnh vực dịch vụ như vận tải, ăn uống có vốn đầu tư thấp, khả năng thu hút nhiều lao động. Ưu tiên cho vay các doanh nghiệp nhỏ mới đi vào hoạt động sản xuất chưa ổn định hoặc các doanh nghiệp đã hoạt động hiệu quả, có dự án phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, kém hiệu quả, chỉ được thực hiện nếu doanh nghiệp có phương án đổi mới sản xuất kinh doanh khả thi và được UBND tỉnh, bộ, ngành đề nghị được Chính phủ chỉ định. 3.2.3.2 - Cho vay giải quyết việc làm phải kết hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế xã hội khác . GQVL và ổn định việc làm cho người lao động là một chính sách có liên quan mật thiết đến nhiều chính sách kinh tế xã hội khác. Hoạt động cho vay GQVL liên quan đến một loạt các chính sách khác như: Chính sách ưu đãi về thuế, chính sách trợ giá, chính sách tài chính tiền tệ thắt chặt hay nới lỏng. Đặc biệt cần chú trọng mối quan hệ giữa tăng trưởng - lạm phát và thất nghiệp. Để cho vay GQVL thật sự phát huy hiệu quả trong điều kiện ở nước ta hiện nay thì cần phải ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát. Ngoài ra cho vay GQVL phải gắn với các chính sách khác trong chương trình việc làm quốc gia như : Chính sách đào tạo nghề cho người lao động, chính sách xuất khẩu lao động, chính sách định canh định cư, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, phát triển các dịch vụ y tế, giáo dục...các chính sách này nếu được kết hợp chặt chẽ sẽ thúc đẩy GQVL cả về mặt số lượng và chất lượng. 3.2.4 - Cho vay giải quyết việc làm trong nông nghiệp phải dựa trên quan điểm đầu tư - hoàn vốn, bảo toàn và phát triển nguồn vốn. Giải quyết việc làm là vấn đề bức xúc hiện nay đồng thời cũng là công việc khó khăn kéo dài. Trong điều kiện NSNN còn bội chi thì việc dành một phần từ NSNN để thực hiện cho vay GQVL thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ về GQVL cho người lao động. Vì vậy việc bảo toàn và phát triển vốn cho vay GQVL là điều kiện quan trọng để thực hiện ổn định và tạo việc làm cho người lao động. Muốn bảo toàn nguồn vốn phải có sự phối hợp của các ngành các cấp trong cả lĩnh vực cho vay và thu nợ. Việc thu hồi nợ của vốn vay GQVL là một yếu tố khẳng định kết quả chương trình cho vay, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay tạo ra nguồn vốn để tiếp tục thực hiện giải quyết việc làm trong những năm tiếp theo. Để thực hiện nhiệm vụ bảo toàn và phát triển nguồn vốn, phải tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc cho vay cả về phía Nhà nước và người vay, làm tốt công tác thẩm định trên cơ sở hoàn thiện kỹ thuật thẩm định và nâng cao trình độ cán bộ thẩm định. Đối tượng vay là những hộ gia đình không những chỉ được giúp đỡ về vốn mà còn phải được trợ giúp về kỹ thuật, kinh nghiệm làm ăn để họ đầu tư có hiệu quả. Vì vậy cần có sự giúp đỡ của chính quyền, các hội đoàn thể, các trung tâm khuyến nông, khuyến ngư giúp người vay lựa chọn hướng đầu tư , cách làm ăn phù hợp với khả năng của họ. Bên cạnh đó cần có chính sách trợ giá, các chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, chính sách ổn định nền kinh tế vĩ mô của Nhà nước để người dân yên tâm sản xuất. 3.2.5- Thực hiện sự công bằng, công khai, đảm bảo vốn vay đến tận tay người lao động, tăng cường giám sát kiểm tra để đồng vốn sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả: Mục tiêu mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang phải phấn đấu đó là: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Công bằng xã hội chính là hạt nhân của chính sách xã hội; là mục đích, đòi hỏi chính sách xã hội cần đạt tới và cũng là một trong những định hướng cơ bản của chủ nghiã xã hội. Biểu hiện cụ thể của công bằng xã hội là thái độ ứng xử hợp lý các mối quan hệ xã hội, nhất là công bằng trong phân phối của cải xã hội, điều hoà lợi ích giữa các nhóm, các tầng lớp dân cư trong xã hội. Cho vay GQVL là một bộ phận của chính sách việc làm (một chính sách xã hội cơ bản) thì càng cần thiết phải thực hiện sự công bằng công khai. Thực hiện công bằng cho nông nghiệp nông thôn trên cơ sở xoá bỏ dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Sự công bằng công khai phải được thể hiện qua tuyên truyền, giới thiệu sâu rộng để

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3063.doc
Tài liệu liên quan