Đề tài Sự phát triển quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ từ năm 1995 đến nay 11

 

 

PHẦN MỞ BÀI 1

CHƯƠNG I: LỊCH SỬ QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT - MỸ

TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN NAY 2

I. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT - MỸ 2

1. Quan hệ ngoại giao trong lịch sử 2

2. Quan hệ ngoại giao trong chiến tranh Mỹ - Việt 5

3. Quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ từ năm 1976 - 1995 7

CHƯƠNG II: SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT - MỸ

TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY 11

I. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT - MỸ 11

1. Tình hình thế giới và khu vực. 11

2. Lợi ích của hai bên trong việc bình thường hoá quan hệ. 12

II. TIẾN TRÌNH BÌNH THƯỜNG HOÁ QUAN HỆ NGOẠI GIAO. 16

1. Những ghi nhận sau bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ 16

2. Một số tồn tại và khó khăn: 21

3. Triển vọng quan hệ hợp tác Việt - Mỹ 22

KẾT LUẬN 24

TÀI LIỆU THAM KHẢO 25

 

 

 

 

doc26 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 3690 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự phát triển quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ từ năm 1995 đến nay 11, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xuất Bản Công an nhân dân, năm 1998, tập II, tr273 ở Đông Nam á. Trong 2 năm 1975-1976, Mỹ 3 lần phủ quyết việc Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB). Mỹ làm ngơ trước thiện chí mà Chính phủ ta đã nhiều lần bày tỏ để tạo điều kiện cho 2 bên có thể gặp nhau, nhằm giải quyết vấn đề còn lại giữa 2 bên. Đầu năm 1977, Jimmy Carter lên làm Tổng thống và ngày 16/3/1977 Carter cử đoàn phái viên của Tổng thống sang Việt Nam, do ông L.Woodcook dẫn đầu để thăm do khả năng bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Cũng trong tháng 3/1977, Tổng thống J.Carter cũng cho phép tàu thuỷ, máy bay các nước khác trở hàng cho Việt Nam được ghé qua các sân bay của Mỹ để lấy nhiên liệu. Đây là một cố gắng của Chính phủ Mỹ nhằm đạt được sự bình thường hoá với Việt Nam. Trong khi các cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chưa có một chút biến chuyển gì thì tình hình quốc tế có nhiều thay đổi. Năm 1978, Mỹ và Trung Quốc bắt đầu có sự hợp tác để đi đến bình thường hoá quan hệ, Mỹ đã bàn với Trung Quốc để xây dựng mối quan hệ chiến lược lâu dài giữa 2 nước trong đó có cả việc phối hợp để chống Liên Xô (4) . Cuối 1978, Trung Quốc và Mỹ xúc tiến đàm phán để bình thướng hoá quan hệ. Đối với Việt Nam, Tổng thống Mỹ J.Carter đã quyết định xếp lại kế hoạch đàm phán. Vậy là cơ hội thiết lập quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ một lần nữa lại tuột khỏi tầm tay và bị bỏ lỡ. Năm 1979 các cuộc đàm phán để bình thường quan hệ Việt - Mỹ ngừng trệ. Vì phía Mỹ cho rằng Việt Nam đã vi phạm Luật quốc tế khi đưa quân vào Campuchia để lập ra chính quyền Campuchia - Hiengxemrin. Mỹ đã lấy lý do này để lôi kéo các nước ủng hộ những hành động chống phá Việt Nam dưới danh nghĩa bảo vệ ổn định an ninh thế giới. Vấn đề Campuchia đã kéo theo sự dính líu của nhiều nước và sự phân cực gay gắt trong nền chính trị khu vực. Từ đó đánh dấu thời kỳ băng giá trong quan hệ Việt - Mỹ. Tháng 1/1981, Tổng thống Mỹ Regan tuyên hệ nhậm chức. Dưới sức ép mạnh mẽ về vấn đề MIA, ông đã hứa coi việc tìm kiếm người mất tích là ưu tiên cao nhất của ông. Nhưng trong nhiệm kỳ đầu của ông, ngoại giao giữa hai nước ít đạt được kết quả. Năm 1986, Việt Nam tiến hành đổi mới cải thiện vị thế của mình trong khu vực và trên thế giới nên Mỹ bắt đầu thay đổi chính sách quan hệ với Việt Nam. Từ tháng 1 đến 3/8/1987 Tướng Vétxi đặc phái viên của Tổng thống Regan thăm Việt Nam lần thứ nhất, thảo luận vấn đề nhân đạo mà 2 bên cùng quan tâm. Ngày 20/1/1988 Tổng thống Regan tuyên bố: Trong khung cảnh một giải pháp cho vấn đề Campuchia bao gồm Việt Nam rút hoàn toàn quân đội ra khỏi Campuchia, Mỹ sẵn sàng đi vào bình thường hoá quan hệ với Việt Nam trên cơ sở tiến bộ trong vấn đề MIA trở lại trại cải tạo (5) Lưu Văn Lợi: Năm mươi lăm ngoại giao Việt Nam, NXB Công an nhân dân, năm 1998, tập II, trang 275 . Năm 1989, Tổng thống Bush đắc cử và đã quyết định thay đổi chính sách đối với Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới với nhiều hy vọng. Ngày 26/9/1989, Việt Nam hoàn thành việc rút quân khỏi Campuchia. Ngày 6/8/1990 đối thoại Việt - Mỹ vòng 1 giữa đại sứ Trịnh Xuân Lãng và Phó trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao K.Quyn về quan hệ Việt - Mỹ. Từ ngày 29 đến 30/9/1990 Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gặp Bộ trưởng Ngoại giao Giêm UBây - Cơ tại Niu Joóc. Ngày 9/4/1991, phía Mỹ đưa ra lộ trình (Roadmaping) bốn bước bình thường hoá quan hệ với Việt Nam lần đầu tiên đưa ra công khai, chính thức chính sách đối với Việt Nam. Ngày 20/4/1991, Tướng Vétxi vào Việt Nam lần 2, bàn về vấn đề lập văn phòng MIA tại Hà Nội. Ngày 25/4/1991 phía Mỹ tuyên bố lần đầu tiên viện trợ 1 triệu USD giúp Việt Nam về lĩnh vực chân tay giả. Ngày 23/10/1991 Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm gặp bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Giêm Bây - Cơ tại Pari nhân dịp ký Hiệp định Pari về Campuchia. Từ 31/1/1992 đến 1/2/1992 đặc phái viên tướng G. Vét - xi vào Việt Nam lần thứ tư bàn về các biện pháp thúc đẩy vấn đề MIA và các vấn đề khác trong quan hệ Việt - Mỹ. Ngày 8/10/1992 Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm gặp ngoại trưởng Mỹ Eagleburger và Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chenry lần đầu tiên tại Bộ ngoại giao Mỹ trao đổi về quan hệ giữa hai nước. Ngày 23/10/1992, Tổng thống Bush tuyên bố rằng Mỹ sẽ nhanh chóng tiến tới bình thướng hoá, kể cả bãi bỏ cấm vận, nếu những tấm ảnh và bằng chứng mà Việt Nam trao có thể bổ xung cho việc giải quyết số phận các quân nhân Mỹ bị mất tích, những người mà Mỹ tin rằng Việt Nam có những tin tức cuối cùng. Năm 1993, Bill Clinton đắc cử Tổng thống Mỹ. Chính quyền của Clintơn cũng kế thừa chính sách "lộ trình" của chính quyền G.Bush, trong đó cốt lõi của quá trình bình thường hoá quan hệ vẫn là "tốc độ và qui mô" của quá trình bình thường hoá bị tác động bởi sự hợp tác của Việt Nam về vấn đề POW/MIA. Tuy rằng lộ trình 4 giai đoạn cho quá trình bình thường hoá quan hệ với Việt Nam do chính quyền Mỹ công bố tháng 4/1991 không chính thức được coi là bản chỉ dẫn tuyệt đối cho việc cải thiện quan hệ 2 nước nhưng trên thực tế nhiều bước đi đã diễn ra theo đúng lịch trình này. ở giai đoạn 3, có 2 điều kiện Việt Nam phải thực hiện là: - Tiếp tục ủng hộ và khuyến khích sự ủng hộ của Chính phủ Phnôm Pênh với Hiệp định hoà bình Campuchia, rút hết các cố vấn, lực lượng quân sự Việt Nam ra khỏi Camuchia. - Giải quyết các trường hợp POW/MIA không trùng khớp thông tin. Trên thực tế, điều một Việt Nam đã hoàn thành và điều hai cũng được giải quyết tích cực với sự giúp đỡ to lớn của Việt Nam. Phía Mỹ đã thực hiện đầy đủ các điều ghi trong khoản 3: Huỷ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam ngày 3/2/1994, mở văn phòng liên lạc và ngoại giao tại Hà Nội và mời Việt Nam lập văn phòng tại Washingtơn cũng như ủng hộ các cơ quan hành chính quốc tế viện trợ để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người ở Việt Nam. ở giai đoạn 4, không có đòi hỏi bổ xung yêu cầu Việt Nam thực hiện trong giai đoạn này, Mỹ sẽ lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ với Việt Nam, xem xét việc giành chế độ tối huệ quốc cho buôn bán với Việt Nam của Mỹ. Ngày 28/1/1995, Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Mỹ chính thức thông báo mở cơ quan liên lạc ở thủ đô 2 nước. Với nỗ lực và thiện trí của cả hai bên, 7/1995 chính thức bình thường hoá quan hệ ngoại giao. Đây là một bước đi quan trọng đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước, phù hợp với xu thế phát triển hiện nay của tình hình quốc tế, đồng thời góp phần vào sự nghiệp hoà bình, ổn định và phát triển ở Đông Nam á. chương II Sự phát triển quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ từ năm 1995 đến nay I. Những nhân tố tác động đến quan hệ Việt - Mỹ 1. Tình hình thế giới và khu vực. Sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, trật tự hai cực cũng chấm dứt theo. Mỹ trở thành 1 cực duy nhất còn lại sau chiến tranh lạnh, với đầy đủ thực lực và tham vọng làm bá chủ thế giới. Thời kỳ chiến tranh lạnh đã đánh dấu thời kỳ vàng son của nước Mỹ, với vai trò, vị trí của mình trên trường quốc tế cùng âm mưu bá chủ thế giới, nhưng sau chiến tranh lạnh, nước Mỹ có phần nào suy yếu, do chạy đua vũ trang, chi phí ngân sách quá lớn cho các cuộc chiến tranh. Hơn nữa, Mỹ còn phải đương đầu với các đồng minh chiến lược của Mỹ, được Mỹ trợ giúp về vốn, kỹ thuật. Giờ đây đang trở thành đối thủ cạnh tranh quyết liệt với Mỹ. Thêm vào đó là vai trò của nước vừa và nhỏ ngày càng tăng lên. Với sức mạnh kinh tế, trình độ khoa học và công nghệ ngày càng có vị trí hơn trong các vấn đề quốc tế như Australia, Canada, ASEAN,... Do đó, thế giới đang ở thời kỳ chuyển tiếp từ trật tự 2 cực chuyển sang trật tự thế giới mới, có nhiều trung tâm nổi lên. Tuy phải đối mặt với nhiều thách thức và nguy cơ không thuận lợi lắm nhưng hiện tại Mỹ vẫn là siêu cường duy nhất và đang quá độ từ nước bá chủ thể giới sang vai trò làm người lãnh đạo thế giới. Quá trình toàn cầu hoá được thúc đẩy mạnh mẽ do cuộc cách mạng về khoa học kỹ thuật và liên lạc viễn thông bùng nổ hình thành mạng lưới hệ thống liên lạc toàn cầu. Tính quốc tế hoá nền kinh tế thế giới ngày càng diễn ra nhanh và rộng. Kinh tế thế giới, toàn cầu hoá đã góp phần chấm dứt việc hai hệ thống mô hình kinh tế đối lập nhau biểu hiện là trong những năm 80 khu vực các nước XHCN với mô hình kinh tế kế hoạch và bao cấp chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường,... từ đầu năm 1990, sự phụ thuộc kinh tế giữa các nước lớn và nhỏ ngày càng gia tăng và có quy mô ngày một rộng hơn. Quan hệ giữa các nước giờ đây không chỉ đơn thuần là quân hệ ngoại giao mà còn là mối quan hệ ràng buộc về kinh tế. Sau chiến tranh lạnh, cùng với toàn cấu hoá, khu vực hoá nền kinh tế cũng trở thành ưu tiên trọng điểm trong sách lược của mỗi nước. Các quốc gia đều coi trọng chính sách khu vực, ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng, đẩy mạnh liên kết khu vực, đồng thời cân bằng với các nước lớn, khai thác khả năng và những điểm đồng nhất để từ đó mở rộng hợp tác vì lợi ích của mỗi bên. Tuy nhiên, trong quá trình hợp tác và hội nhập vào nền kinh tế thế giới có khoảng cách giữa các nước giàu và nước nghèo là rất lớn dẫn đến sự phát triển không đồng đều giữa các nước. Những nước nghèo và kém phát triển sẽ bị cạnh tranh trong tình trạng bất bình đẳng bởi các nước giàu có vốn, khoa học kỹ thuật cao sẽ luôn đặt ra những điều kiện khắt khe khi hợp tác kinh tế mà với khả năng của mình các nước nghèo chưa thể đáp ứng được. Do vậy vấn đề đặt ra là các nước có nền kinh tế kém phát triển như nước ta phải làm thế nào để vượt qua những thách thức mà lại tận dụng được các mặt lợi của quá trình hội nhập và những thành tựu mới của khoa học công nghệ để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thành công. Đối với khu vực Châu á - Thái Bình Dương trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh đã khiến toàn thế giới coi trọng, đó là sự phát triển năng động của nền kinh tế khu vực này với tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Điều đó không phải là vấn đề mới mà nó đã có ngay từ những năm khi chiến tranh lạnh ở đỉnh cao nhất. Bắt đầu là "sự thần kỳ" của Nhật Bản vào cuối thập niên 60 và sự xuất hiện của 4 con rồng Châu á vào cuối thập niên 70, sau đó là Thái Lan, Malaysia,... Điều mới cần nói ở đây là sau chiến tranh lạnh, kinh tế Châu á - Thái Bình Dương vẫn giữ được đà phát triển ngoạn mục đó không chỉ với các nước đi theo nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà cả đối với những nước trước đây vốn có nền kinh tế tập trung bao cấp và nay chuyển sang kinh tế thị trường nhưng vẫn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá vai trò của Châu á - Thái Bình Dương và giúp cho các nước có cơ sở khách quan trong việc hoạch định chiến lược phát triển của mình trong những thập kỷ tới. 2. Lợi ích của hai bên trong việc bình thường hoá quan hệ. Việc bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ đã có những bước tiến dài khác xa so với trước nhờ một phần sự tác động của đặc điểm, xu thế của thế giới, một phần cũng là do lợi ích chiến lược của mỗi nước cùng với sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ kết hợp với đường lối đổi mới, chính sách mở cửa của Việt Nam. Đây là một trong những nhân tố quan trọng giúp cho việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa hai nước được khai thông. a. Lợi ích của Mỹ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Với một siêu cường như Mỹ muốn nắm giữ vai trò "Người lãnh đạo thế giới" thì cần phải có sự điều chỉnh chiến lược và sách lược của mình cho phù hợp với tình hình thế giới. Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh, người có tham vọng để lại dấu ấn trong lịch sử nước Mỹ bằng một chiến lược mới thay cho chiến lược "ngăn chặn" của thời kỳ chiến tranh lạnh, đó là chiến lược "mở rộng dân chủ" của Bill Clintơn. Ngày 27/19/1993 trong diễn đàn đầu tiên đọc trước Đại hội đồng Liên hợp quốc nói rõ: "Trong chiến tranh lạnh chúng ta tìm cách ngăn mối đe doạ đối với sự sống còn của các thể chế tự do,... giờ đây chúng ta tìm cách mở rộng tập hợp các quốc gia sống dưới các thể chế tự do đó". (6) Phan Doãn Nam, sự điều chỉnh chiến lược của một số nước lớn sau chiến tranh lạnh, Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 20 . Đưa ra chiến lược này, nhưng mức độ áp dụng vào từng khu vực như thế nào là còn tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của khu vực đó đối với Mỹ. Với khu vực Châu á - Thái Bình Dương, Mỹ cho rằng đây là khu vực sẽ đem lại lợi ích cho nước Mỹ và Mỹ đã đặt khu vực này vào vị trí ưu tiên ngang hàng với Châu Âu. Bởi lẽ, Châu á Thái Bình Dương là một trong những khu vực có nền kinh tế phát triển năng động của thế giới. "Trong thập kỷ này, hơn 60% của sự phát triển kinh tế thế giới là từ Châu á, khu vực chiếm hơn 1/2 dân số thế giới". Với tổng số 13.400 tỷ USD, Châu á - Thái Bình Dương chiếm 54% GDP của thế giới, và do vậy, khu vực này có vị trí ngày càng quan trọng đối với các nước lớn trong đó có Mỹ. Đặc biệt đây cũng là khu vực bao gồm hầu hết các nước lớn mà Mỹ phải quan tâm và kiêng nể như Nga, Nhật Bản, Trung Quốc. Với Nga, trước đây là đối thủ của Mỹ trong chiến tranh lạnh, hai nước từng tranh giành vị trí, ảnh hưởng với nhau. Giờ đây, khi Liên Xô mất đi thì vị thế của Nga thay vào đó không còn nguyên vẹn như xưa nhưng tiềm lực về quân sự của Nga vẫn là điều mà Mỹ đáng quan tâm. Với Trung Quốc, là một nước có dân số đông nhất thế giới, là thị trường tiêu thụ hàng hoá đầy tiềm năng. Thêm vào đó, Trung Quốc lại đang hiện đại hoá quân đội, phổ biến vũ khí hạt nhân tăng ngân sách quốc phòng, đây là điều mà Mỹ lo ngại và Mỹ đã điều chỉnh lại chính sách đối với Trung Quốc. Từ chỗ xem Trung Quốc là "là con bài" là "đồng minh thực tế" trong việc ngăn chặn và kìm chế Liên Xô sang thành một đối thủ. Đã diễn ra một cuộc đấu tranh gay gắt trong nội bộ giới cầm quyền Mỹ về hoạch định một chính sách mới đối với Trung Quốc trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh này. Nhưng thực tế thì Mỹ đã thi hành chiến lược kép đối với Trung Quốc. Tức là vừa dính líu vừa kìm chế, Trung Quốc luôn bị coi là vật cản trong bước đường tiến đến chủ nghĩa bá quyền của Mỹ. Hơn nữa, mối lo ngại tiềm ẩn của Mỹ về việc Trung Quốc hợp nhất với Đài Loan, Ma Cao thì Trung Quốc sẽ là một Đại Trung Hoa, điều đó sẽ thách thức đối với vai trò vị thế của Mỹ ở khu vực. Do vậy, Mỹ cố gắng củng cố vị trí của mình ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương nhằm ngăn chặn bất cứ cường quốc nào nổi lên thách thức vai trò vị trí ảnh hưởng ấy, thực hiện "diễn biến hoà bình" với các nước XHCN còn lại. Đối với các nước Đông Dương, chính sách của Mỹ chuyển từ gây căng thẳng, chia rẽ các quốc gia sang lôi kéo, thu hút tăng cường ảnh hưởng của Mỹ với các quốc gia ở khu vực này. Qua phân tích chính sách của Mỹ với các nước lớn trong khu vực ta thấy mục tiêu của Mỹ khi quan hệ với Việt Nam không nằm ngoài mục tiêu chung trong chiến lược toàn cầu hay chính sách với Đông Nam á của siêu cường này. Một trong những mục tiêu Mỹ hướng tới khi quyết định bình thường hoá quan hệ với Việt Nam là muốn thu hút, lôi kéo Việt Nam lại gần Mỹ và tách Việt Nam ra khỏi các đối tác truyền thống. Tuy nhiên, để đi đến bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, trong Quốc hội Mỹ còn có nhiều tranh luận gay gắt và nó đã chi phối phần lớn chính sách của Mỹ trong suốt 20 năm qua. Việc Mỹ thiết lập quan hệ với Việt Nam còn để làm nguôi ngoai nỗi đau của người dân Mỹ và trong tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam Tổng thống Bill Clintơn đã nói "Bước đi này sẽ giúp đất nước chúng ta tiến lên phía trước về một vấn đề chia rẽ người Mỹ với nhau quá lâu rồi. Chúng ta hãy hướng về tương lai, chúng ta có quá nhiều việc phải làm ở phía trước. Đây là lúc tạo cho chúng ta cơ hội để hàn gắn các vết thương của chúng ta. Những vết thương này đã không chịu lành quá lâu rồi. Giờ đây chúng ta có thể tiến tới một cơ sở chung, bất kể những gì đã chia rẽ chúng ta trước đây, chúng ta hãy xếp vào quá khứ, hãy để giây phút này, theo từ của kinh thánh là một thời điểm để kiến tạo" (7) Tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Báo nhân dân, ngày 12/7/1995, trang 10 Mỹ mong muốn sự hợp tác với Việt Nam để giải quyết vấn đề POW-MIA, vấn đề về tù binh chiến tranh và quân nhân Mỹ mất tích. Đây là điều kiện Mỹ đặt hàng đầu để quan hệ với Việt Nam cũng là để giải quyết "Hội chứng Việt Nam" trong lòng dân Mỹ. Thêm vào đó, những người quan tâm đến Việt Nam đánh giá Việt Nam có vai trò quan trọng ở Đông Dương và Đông Nam á vì nếu xét về diện tích là nhỏ nhưng vị trí lại rất quan trọng. Việt Nam nằm án ngữ con đường biển huyết mạch từ Bắc á xuống Đông Nam á và ấn Độ Dương. Việt Nam còn có cảng Cam Ranh là căn cứ quân sự chiến lược trong khu vực. Việt Nam tuy diện tích nhỏ nhưng có tiềm năng lớn, dân số đông, có trình độ dân trí cao, tài nguyên thiên nhiên phong phú, hứa hẹn nhiều khả năng hợp tác và đầu tư. Cộng thêm chiến lược "mở rộng dân chủ" nhằm làm thay đổi chế độ - chính trị xã hội của Việt Nam, Mỹ cho rằng, việc xoá bỏ cấm vận giúp Việt Nam phát triển kinh tế là nhằm đưa Việt Nam vào vòng ảnh hưởng chi phối của Mỹ, xoá bỏ thù hận của người dân Việt Nam đối với Mỹ từ đó thực hiện dễ dàng diễn biến hoà bình ở Việt Nam. b. Lợi ích của Việt Nam khi quan hệ với Mỹ Năm 1991, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra đường lối: "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển" (8) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, năm 1991 . Sự điều chỉnh chính sách và đường lối đối ngoại đã đem lại cho Việt Nam những thành tựu to lớn về kinh tế và mở rộng quan hệ với nhiều nước, thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việc phát triển quan hệ với các nước lớn đã được đưa ra trong đường lối chiến lược phát triển của Việt Nam, trong đó có Hoa Kỳ là nhân tố quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình, từng bước có sự điều chỉnh chiến lược để làm thay đổi thái độ, lập trường của Mỹ với Việt Nam. Với phương châm: "Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai". Việt Nam đã làm hết sức mình để khép lại quá khứ của cuộc chiến tranh tàn khốc để cùng Mỹ hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn trong quan hệ. Bằng sự cố gắng của mình, Việt Nam đã tích cực giải quyết vấn đề POW-MIA về những quân nhân Mỹ bị mất tích và chết trong chiến tranh Việt Nam và thành công trong việc tìm ra giải pháp cho vấn đề Campuchia mà kết quả là Hiệp định Paris về vấn đề Campuchia ra đời ngày 23/10/1991 đã gỡ bỏ dần những áp đặt được đưa ra trong lộ trình bốn giai đoạn của Mỹ. Những cố gắng của Việt Nam cùng sự ủng hộ của Mỹ đã làm xoay chuyển được cục diện quan hệ Việt Nam và Mỹ theo chiều hướng tốt đẹp. Vì chính Mỹ cũng hiểu rằng: nếu tiếp tục đối đầu sẽ không có lợi mà Việt Nam và Mỹ phải tìm cách cải thiện quan hệ thì các quan hệ khác mới được thúc đẩy và đem lại lợi ích cho cả 2 nước. Về phía Việt Nam, mục tiêu chiến lược của Việt Nam đề ra trong quan hệ với Mỹ là đạt được những vấn đề sau: Bình thường hoá quan hệ với Mỹ, Việt Nam có điều kiện hối thúc Mỹ giúp đỡ để giải quyết những hậu quả chiến tranh do Mỹ để lại. Bên cạnh đó, Việt Nam và Mỹ sẽ cùng hợp tác để giải quyết dứt điểm những vấn đề còn tồn đọng trong công tác POW/MIA. Bình thường hoá quan hệ với Mỹ, Việt Nam sẽ củng cố và nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho việc cải thiện quan hệ với các nước khác và khai thông quan hệ với các tổ chức, thể chế tài chính, kinh tế thương mại khu vực cũng như toàn cầu, giúp Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới. Bình thường hoá quan hệ với Mỹ sẽ tạo điều kiện cho ta khả năng tận dụng vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của Mỹ, các doanh nghiệp của Việt Nam có điều kiện học hỏi kinh nghiệm ở một nước phát triển cao như Mỹ, tạo môi trường thuận lợi cho việc hợp tác, đầu tư, trao đổi kinh tế, thương mại. Điều này hỗ trợ trực tiếp cho Việt Nam thoát khỏi nguy cơ tụt hậu và giúp Việt Nam thành công trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Cuối cùng, việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa 2 nước sẽ mở đường cho Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) và quy chế đặc miễn dành cho một nước đang phát triển (GSP). Theo đó Việt Nam sẽ được phép xuất khẩu sang Mỹ với chế độ thuế quan rất thấp, hoặc không phải chịu thuế. Điều này sẽ giúp cho việc phát triển kinh tế của Việt Nam được thuận lợi. II. Tiến trình bình thường hoá quan hệ ngoại giao. Ngày 11/7/1995, Tổng thống Mỹ Bill Clintơn đã tuyên bố công nhận ngoại giao và bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Sự kiện này đã mở ra một bước ngoặt mới trong quan hệ giữa hai nước. Mặc dù sau khi bình thường hoá quan hệ giữa hai nước không diễn ra các hoạt động "nhộn nhịp" như các sự kiện khác cùng thời điểm nhưng không vì thế tính chất quan trọng của nó giảm đi. Để đi đến sự kiện này, những người đứng đầu Nhà trắng đã có sự tính toán một cách kỹ lưỡng, đặc biệt về thời gian, thời gian công bố bình thường hoá vào tháng 7/1995 là phù hợp với những yêu cầu khách quan của nhân dân tiến bộ thế giới cũng như dư luận và cuộc đấu tranh trong lòng nước Mỹ. Nhìn lại thời gian qua quan hệ ngoại giao giữa 2 nước đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ: 1. Những ghi nhận sau bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ a. Về chính trị - ngoại giao Sau khi Tổng thống Bill Clinton tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ở cấp Đại sứ, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã hoan nghênh và nói phía Việt Nam sẵn sàng trao đổi Đại sứ. Đầu tháng 8/1996, chính quyền Clinton đã quyết định bổ nhiệm hạ nghị sĩ Douglas Peterson làm đại sứ tại Việt Nam và đề nghị Quốc hội Mỹ thông qua theo Luật của Mỹ. Nhưng khi đó ông Peterson là nghị sĩ đương nhiệm, do đó không được giữ một chức vụ của chính quyền mới lập ra và hưởng lương cao hơn mức lương hiện tại của dân biểu, những người chống đối đã dựa vào đó để trì hoãn việc ông Peterson điều trần trước quốc hội cho đến đầu năm 1997. Ngày 13/2/1997 tiểu ban Châu á - Thái Bình Dương thuộc Uỷ ban đối ngoại Thượng viện Mỹ thông qua việc cử ông Peterson. Ngày 10/4/1997 toàn thể Thượng nghị viện Mỹ đã nhất trí phê chuẩn việc cử ông Peterson làm đại sứ tại Việt Nam, chấm dứt cuộc tranh cãi làm chậm việc phê chuẩn ông Peterson 11 tháng. Về phía Việt Nam, đã cử ông Lê Văng Bàng làm đại sứ tại Hoa Kỳ. Ngày 9/5/97 ông Lê Văn Bàng tới Oasinhton trong khi cùng ngày ông Peterson cũng đến Hà Nội. Ngày 14/5/97 tại Nhà trắng ông Lê Văn Bàng đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trình thư uỷ nhiệm lên Tổng thống Bill Clinton. Cùng ngày tại Phủ Chủ tịch ông Douglas Peterson, đại sứ đặc mệnh toàn quyền Hoa Kỳ, trình thư uỷ nhiệm lên Phó Chủ tịch Nguyễn Thị Bình. Có thể nói, đây là kết quả quan trọng và cao nhất về mặt ngoại giao. Nó là điều kiện cần thiết về mặt pháp lý để mở rộng các quan hệ khác cho cả hai bên. Với việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao,việc tạo lập cơ sở vật chất, cơ cấu tổ chức bộ máy cho hoạt động của đại sứ quán ở thủ đô mỗi nước đã được tiến hành tuần tự theo từng bước một. Về cơ sở vật chất của đại diện ngoại giao của 2 bên đã thiết lập với việc khai trương đi vào hoạt động và việc mở lãnh sự quán của Việt Nam tại Sanphrangxitco, lãnh sự quán Hoa Kỳ tại TP. Hồ Chí Minh cơ sở vật chất của đại diện ngoại giao hai bên đã được thiết lập. Cơ cấu, bộ máy tổ chức, nhân sự của các đại sứ quán về cơ bản đã được hình thành và thực thi chức năng của mình. Phía Hoa Kỳ cũng có tuỳ viên quân sự, tuỳ viên văn hoá, đại diện thương mại tại Việt Nam. Về phía mình, Việt Nam cũng đã thiết lập đại diện Thông tấn xã Việt Nam, đại diện văn hoá tại sứ quán của mình ở Oashinstơn. Là đại diện chính thức của Chính phủ mỗi bên ở nước sở tại, các Đại sứ là kênh chính để hai bên trao đổi thông tin về nhau giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quan hệ song phương, để các bên thâm nhập, trực tiếp tìm hiểu nhau. Trước khi Hoa Kỳ và Việt Nam chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, chưa có Đại sứ quán thì mọi vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa hai nước rất khó được giải quyết hoặc nếu có được giải quyết thì cũng đòi hỏi thời gian khá dài vì phải trải qua các khâu trung gian phức tạp, do vậy đôi khi những cơ hội thuận lợi bị bỏ lỡ. Giờ đây mọi vấn đề đều nhanh chóng được phản ánh một cách chính thức tới Chính phủ hai nước, và những cơ hội cũng được tận dụng không bị bỏ lỡ. Nhờ có đại sứ quán, lãnh sự quán mà việc đi lại, trao đổi các đoàn ở cấp Chính phủ cũng như phi Chính phủ của 2 nước có nhiều thuận lợi và có cơ hội tăng cường. Điều này giúp cho ngoại giao nhân dân được mở rộng, tạo điều kiện để các doanh nghiệp của 2 nước tìm hiểu, thâm nhập vào thị trường, đầu tư kinh doanh buôn bán. Kể từ khi bình thường hoá đến nay, 2 nước đã tăng cường trao đổi các đoàn quan chức chính phủ, các nghị sĩ quốc hội, tận dụng cơ hội để tiếp xúc với nhau ở các diễn đàn, tổ chức khu vực cũng như quốc tế. Có thể nói, tháng nào cũng có ít nhất 1 đoàn của Hoa Kỳ tới Việt Nam và mở đầu cho hoạt động ngoại giao chính thức của Mỹ ở Việt Nam từ khi 2 nước bình thường hoá quan hệ là chuyến công du tới Việt Nam của ngoại trưởng W.Chirstopher (tháng 8/1995). Sứ mệnh lịch sử của ông trong chuyến thăm đầu tiên này là "Nhân danh Tổng thống Bill Clinton và nhân dân Hoa Kỳ để mở đầu một chương mới trong quan hệ hai nước". Ông cũng là người chính thức khai trương đại sứ quán Hoa Kỳ ở Hà Nội. Tháng 7/1996, một phái đoàn quan chức cấp cao của Chính phủ Mỹ do cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Athony Lake dẫn đầu tới Việt Nam. Trong đoàn có

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0172.doc
Tài liệu liên quan