Đề tài Sự ra đời của đồng EURO và những tác động của nó đến nền kinh tế thế giới và Việt Nam

Mục Lục

Lời mở đầu 2

Phần I: Tổng quan liên minh tiền tệ châu Âu và đồng Euro 3

Chương I: Tổng quan về liên minh châu âu 4

I. Các Thành Viên Liên Minh Châu Âu 6

II. Cơ Cấu Tổ Chức 7

Chương II : Liên minh tiền tệ Châu Âu 12

I. Quá trình hình thành của Liên minh tiền tệ Châu Âu 13

II. Các tiêu thức gia nhập khối EURO 15

III. Chính sách tiền tệ của liên minh châu Âu 16

Phần II: Đồng Tiền Chung Châu Âu, Chức năng vị trí quốc tế của đồng Euro 22

Chương I: Lịch sử ra đời của đồng Euro 23

I. Dự án chính trị 23

II. Đồng Euro hình thành 24

III. Ký hiệu tiền tệ tiền đồng, tiền giấy 26

IV. Đặc điểm chống giả mạo của tiền giấy 28

Chương II: Tác động kinh tế của đồng tiền chung châu âu 30

I. Tác động kinh tế 30

II. Tác động đến quan hệ kinh tế - quốc tế của EU 33

Chương III: Vị trí quốc tế và lợi ích của đồng Euro 38

I. Vị trí quốc tế của đồng tiền euro đối với các nước thành viên 38

II. Đối với hoạt động đầu tư & du lịch quốc tế 41

III. Đối với kinh tế thế giới 42

IV. Đối với các nước ngoài khối 45

V. Đối với việt nam 46

Kết Luận 48

 

doc49 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3032 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự ra đời của đồng EURO và những tác động của nó đến nền kinh tế thế giới và Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hế nào trong việc sử dụng đồng tiền mới. Theo nguyên tắc này ngụ ý rằng các bên tham gia hợp đồng không có quyền bắt buộc đối tác sử dụng đồng EURO nếu không có một thoả thuận vào đồng ý của bên đối tác. Đối với các hợp đồng đang tồn tại, đơn vị tính toán vẫn là đồng tiền quốc gia và được duy trì cho đến 1-1-2002, trừ khi các bên có sự nhất trí sử dụng đồng EURO hoặc các trường hợp ngoại lệ khác. Đối với các hợp đồng được ký kết trong giai đoạn quá độ, việc sử dụng đồng tiền nào trong thanh toán, tuỳ vào thoả thuận của hai bên tại thời điểm ký kết hợp đồng. Tuy nhiên có một số ngoại lệ là các ngân hàng phải chấp nhận thanh toán các đồng tiền được đề nghị thanh toán. Nhà nước có thể quy định toàn bộ số dư nợ hiện hành của mình mà không cần có sự nhất trí của người cho vay và tương tự với các trường hợp vay khác, ngoài ra nhà nước còn có thể thay thế đơn vị tính toán trên thị trường tài chính của mình. c. Cơ chế tỷ giá mới (EMR II) Hội đồng châu Âu tại Amsterdam tháng 6-1997 đã thông qua quyết định hình thành cơ chế tỷ giá mới thay thế cho hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) hiện hành. Trên cơ sở đó viện tiền tệ châu Âu (EMI) đã chuẩn bị một thoả ước về cơ chế tỷ giá mới giữa các nước thành viên khu vực đồng EURO và các nước thành viên ngoài khu vực có nội dung như sau:Việc tham gia vào EMR II là tự nguyện đối với tất cả các nước thành viên không thuộc khu vực đồng EURO. Tuy nhiên quy định đối với tất cả các ngân hàng của các nước thành viên.Dù nước đó có tham gia vào EMR II hay không miễn là thành viên của EU thì các ngân hàng này đều phải: - Báo cáo thường xuyên các hoạt động can thiệp hối đoái và các hoạt động hối đoái khác. - Cần có sự chấp nhận của ngân hàng trung ương ECB và các ngân hàng nhà nước của các quốc gia thành viên không tham gia khác về các hoạt động can thiệp hoặc các giao dịch lớn bằng các đồng tiền quốc gia vượt quá mức độ giới hạn đã được thoả thuận và có thể ảnh hưởng tới hoạt động thị trường hối đoái.Tỷ giá chính thức giữa các đồng tiền quốc gia (NCU) trong cơ chế EMR II với đồng EURO được ECB xác định với biên độ giao động cho phép là ±1,5% (tuy nhiên biên độ này có thể thu hẹp trong quá trình hội tụ kinh tế để tham gia vào khu vực đồng tiền chung của 4 nước thành viên còn lại trong quan hệ tỷ giá đồng EURO được gọi là đồng yết giá. Với năm chữ số thập phân có giá trị.Để đảm bảo tỷ giá nằm trong biên độ này, ECB và các ngân hàng nhà nước của các quốc gia thành viên ngoài khu vực đồng EURO thực hiện sự can thiệp không hạn chế và tự động thông qua sử dụng các công cụ tài trợ vốn ngắn hạn. Tuy nhiên mức độ can thiệp cũng như sự cần thiết can thiệp còn tuỳ thuộc vào ảnh hưởng của nó đến mục tiêu ổn định giá cả. Trong những trường hợp có ảnh hưởng xấu đến mục tiêu này, ECB và các ngân hàng nhà nước có quyền ngừng can thiệp (Điều này trái với nguyên tắc can thiệp tự động trong cơ chế tỷ giá của EMS). Nền tảng cốt lõi cho sự ổn định tỷ giá là sự ổn định kinh tế vĩ mô, vì vậy nó không thể tách rời cố gắng điều chỉnh kinh tế để hội nhập của các nước thành viên còn lại trong giai đoạn quá độ. d. Hệ thống thanh toán Mỗi quốc gia thành viên có ít nhất một hệ thống thanh toán đồng EURO để thực hiện các giao dịch nội địa, một số các nước có hai hệ thống thanh toán: Hệ thống thanh toán theo thời gian thực tế (RTGS) và hệ thống thanh toán bù trừ. Để thực hiện các giao dịch giữa các quốc gia, các nước thành viên có thể lựa chọn các phương thức thanh toán sau: - Tiếp tục sử dụng hình thức ngân hàng đại lý, nhưng chỉ lựa chọn một đại lý tại một trung tâm với một tài khoản đồng EURO để hoạch toán các khoản giao dịch bằng đồng EURO với tất cả các thành viên khác. - Tạm thời duy trì cơ chế hiện hành với một tài khoản được mở tại một ngân hàng đại lý của một số quốc gia để hoạch toán các giao dịch với quốc gia đó. - Thực hiện chi trả trực tiếp thông qua hệ thống thanh toán theo thời gian thực tế (RTGS) được nối mạng với một trung tâm thanh toán toàn lãnh thổ (TARGET) hoặc thông qua hệ thống thanh toán bù trừ của hiệp hội ngân hàng khu vực EURO (EBA). Mục Tiêu: là trung tâm thanh toán cho toàn lãnh thổ EMU nó được nối mạng trực tiếp với 15 trung tâm thanh toán quốc gia (RTGS), cho phép các khoản giao dịch giữa các quốc gia thành viên có thể thực hiện được trong một ngày. Hệ thống này bắt đầu hoạt động vào tháng 11-1998. Sau khi hoàn thành các hệ thống pháp lý và đạt được thoả thuận của 15 nước thành viên. Hệ thống TARGET thực sự là kênh để điều chỉnh mức độ thanh khoản giữa các khu vực khác nhau để xử lý nhanh chóng các khoản chi trả với khối lượng lớn. Có thể nhận xét rằng: Cùng với việc thống nhất chính sách tiền tệ là việc cho ra đời đồng tiền chung và đưa vào lưu thông trong toàn khối, đây là hai nôi dung quan trọng trong việc xây dựng liên minh tiền tệ châu Âu hai nội dung này có quan hệ mật thiết với nhau, tạo tiền đề cho nhau. Không thể xây dựng liên minh tiền tệ với một đồng tiền chung mà không có một chính sách tiền tệ thống nhất. Vì vậy, việc xây dựng và vận hành chính sách tiền tệ là một điều kiện rất cần thiết cho đồng tiền chung ra đời. Phần II: ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU ÂU,CHỨC NĂNG VỊ TRÍ CỦA ĐỒNG EURO Chương I : LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA ĐỒNG EURO Euro (€; mã ISO: EUR), còn gọi là Âu kim là đơn vị tiền tệ của Liên minh Tiền tệ châu Âu, là tiền tệ chính thức trong 15 nước thành viên của Liên minh châu Âu (Áo, Bỉ, Bồ Đào Nha, Đức, Hà Lan, Hy Lạp, Ireland, Luxembourg, Pháp, Phần Lan, Tây Ban Nha, Ý, Slovenia, Malta, Cyprus) và trong 6 nước và lãnh thổ không thuộc Liên minh châu Âu. Các đồng tiền kim loại euro cùng một mệnh giá giống nhau ở mặt trước, nhưng có trang trí khác nhau ở mặt sau, đặc trưng cho từng quốc gia phát hành. Euro có thể được phát âm như iu-rô hoặc ơ-rô, oi-rô, u-rô tùy từng nơi ở châu Âu và thế giới. I. Dự án chính trị Euro là tiền tệ thống nhất trong châu Âu có nguồn gốc từ thời kỳ đầu tiên của Liên minh châu Âu và trong lịch sử kinh tế toàn cầu. Một mặt việc hòa nhập kinh tế thông qua liên minh thuế quan 1968 đã có những bước tiến dài, mặt khác sự sụp đổ của hệ thống tỷ giá hối đoái Bretton Woods dẫn đến việc tỷ giá hối đoái dao động mạnh mà theo như cách nhìn của giới chính trị thì đã cản trở thương mại. Năm 1970 lần đầu tiên ý tưởng về một liên minh tiền tệ châu Âu được cụ thể hóa. Trong cái gọi là kế hoạch Werner, Thủ tướng Luxembourg, Pierre Werner, đã cùng nhiều chuyên gia soạn thảo một Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu với tiền tệ thống nhất. Dự tính với mục đích thành lập liên minh này cho đến năm 1980 đã thất bại mà một trong những nguyên nhân là sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods. Thay vào đó Liên minh Tỷ giá hối đoái châu Âu được thành lập vào năm 1972 và sau đó là Hệ thống Tiền tệ châu Âu vào năm 1979. Hệ thống tiền tệ châu Âu có nhiệm vụ ngăn cản việc các tiền tệ quốc gia dao động quá mạnh. Đơn vị Tiền tệ châu Âu (tiếng Anh: European Currency Unit – ECU), một đơn vị thanh toán, ra đời vì mục đích này và có thể xem như là tiền thân của đồng Euro. Năm 1988 một ủy ban xem xét về liên minh kinh tế và tiền tệ dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Ủy ban châu Âu, Jacques Delors, đã soạn thảo cái gọi là báo cáo Delors, dự định thành lập Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu qua 3 bước. \II. Đồng Euro thành hình Bước đầu tiên bắt đầu vào ngày 1 tháng 7 năm 1990, việc lưu chuyển vốn được tự do hóa giữa các nước trong Liên minh châu Âu. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1994 bước thứ hai bắt đầu: Viện Tiền tệ châu Âu, tiền thân của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), được thành lập và tình trạng ngân sách quốc gia của các nước thành viên bắt đầu được xem xét. Ngoài ra, vào ngày 16 tháng 12 năm 1995 Hội đồng châu Âu tại Madrid (Tây Ban Nha) đã quyết định tên của loại tiền tệ mới: "Euro". Trước ngày này đã có nhiều tên khác được thảo luận: các "ứng cử viên" quan trọng nhất bao gồm Franc châu Âu, Krone châu Âu và Gulden châu Âu. Việc sử dụng tên một loại tiền tệ quen thuộc là nhằm vào mục đích phát ra tín hiệu của sự liên tục và củng cố niềm tin tưởng của quần chúng vào loại tiền tệ mới này, ngoài ra một vài thành viên cũng có thể tiếp tục giữ được tên tiền tệ của nước mình. Pháp thích "Ecu", tên của loại tiền tệ thanh toán cũ. Thế nhưng tất cả các đề nghị này đều thất bại vì một vài nước dè dặt. Để đối phó với tình thế này, tên "Euro" được Bộ trưởng Bộ Tài chính Đức, Theodor Waigel, đề nghị. Ngày 13 tháng 12 năm 1996 các bộ trưởng Bộ Tài chính của EU đi đến thỏa thuận về Hiệp ước Ổn định và Tăng trưởng nhằm bảo đảm các nước thành viên giữ kỷ luật về ngân sách và qua đó bảo đảm giá trị của tiền tệ chung. Bước thứ ba của Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu bắt đầu có hiệu lực cùng với cuộc họp của Hội đồng châu Âu từ ngày 1 tháng 5 đến ngày 3 tháng 5 năm 1998, xác định 11 quốc gia thành viên của Liên minh Kinh tế và Tiền tệ theo các tiêu chuẩn hội tụ được quy định trước. Ngày 19 tháng 6 năm 2000 Hội đồng châu Âu đi đến "nhận định là Hy Lạp đã đạt hội tụ bền vững ở mức độ cao và trên cơ sở này thỏa mãn các yêu cầu cần thiết để đưa tiền tệ chung vào sử dụng". Vì thế vào ngày 1 tháng 1 năm 2001 Hy Lạp gia nhập vào Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1999 tỷ lệ hối đoái giữa Euro và các đơn vị tiền tệ quốc gia được quy định không thể thay đổi và Euro trở thành tiền tệ chính thức. Ngay ngày hôm sau, ngày 2 tháng 1, các thị trường chứng khoán tại Milano (Ý), Paris (Pháp) và Frankfurt am Main (Đức) đã định giá tất cả các chứng khoán bằng Euro. Một thay đổi khác có liên quan với thời điểm đưa đồng Euro vào sử dụng là việc thay thế cách ghi giá cho ngoại tệ. Trước ngày đã định, việc ghi theo giá (1 USD = xxx DEM) là hình thức thông dụng. Từ ngày 1 tháng 1 năm 1999, trong mua bán ngoại tệ tại các nước thành viên, giá trị của ngoại tệ được ghi theo lượng (1 EUR = xxx USD). Thêm vào đó, từ ngày 1 tháng 1 năm 1999 có thể chuyển khoản bằng Euro (Tại Hy Lạp từ ngày 1 tháng 1 năm 2001). Các tài khoản và sổ tiết kiệm được phép ghi bằng Euro và tiền cũ. Cổ phiếu và các chứng khoán khác chỉ còn được phép mua bán bằng Euro. Việc phát hành đồng Euro đến người tiêu dùng bắt đầu vào ngày 1 tháng 1 năm 2002. Trong một thời gian chuyển tiếp nhất định tùy thuộc vào từng quốc gia, kéo dài hoặc là đến hết tháng 2 năm 2002 hay đến hết tháng 6 năm 2002, đồng Euro và tiền quốc gia cũ tồn tại song song như là tiền tệ chính thức. Thời gian sau này các tiền quốc gia cũ không còn là tiền tệ chính thức nữa nhưng vẫn có thể được đổi lấy đồng Euro tại các ngân hàng quốc gia của các nước, tùy theo quy định của từng nước. Từ ngày 28 tháng 2 năm 2002 tại Đức quyền đổi đồng Mark Đức sang Euro không tốn lệ phí tại các ngân hàng trung ương tiểu bang là một điều được pháp luật quy định. Khác với một số nước thành viên khác, yêu cầu này tại Đức không có thời hạn. Mặc dầu có cơ chế đổi tiền không tốn lệ phí và đơn giản, trong tháng 5 năm 2005 vẫn còn lưu hành 3,72 tỉ Euro tiền kim loại Mark Đức. Tổng giá trị của tiền giấy chưa đổi thành tiền Euro ở vào khoảng 3,94 tỉ Euro. Theo nhận xét của Ngân hàng Liên bang Đức phần lớn số tiền này là tiền đã bị tiêu hủy hay đánh mất.   Khu vực Euro (16)   Những quốc gia thuộc Liên Âu quy định sẽ phải gia nhập hệ thống Euro(9)   Quốc gia thuộc Liên Âu có quyền rút khỏi hệ thống Euro(1)   Quốc gia Liên Âu dự định mở cuộc trưng cầu dân ý về việc gia nhập hệ thống Euro nhưng với quyền rút khỏi hệ thống(1)   Khu vực ngoài khối Liên Âu dùng Euro theo thỏa hiệp riêng(5)   Khu vực ngoài khối Liên Âu dùng Euro mà không có thỏa hiệp(4) Các nước hay lãnh thổ ngoài Liên minh châu Âu nhưng sử dụng đồng Euro được tô đậm bằng đường gạch màu xanh. Ngoài 13 nước trong Khu vực đồng Euro đã lưu hành và sử dụng chính thức đồng Euro, một số quốc gia khác đã tham gia vào Liên minh tiền tệ với thành viên trong khu vực và sử dụng đồng Euro như tiền tệ chính thức. Bên cạnh các thành viên chính thức, một số quốc gia hay địa phận khác cũng đã tự quyết định chọn Euro làm tiền tệ chuẩn (không có quyết định của EU). Thêm vào đó, nhiều quốc gia khác bắt đầu coi đồng Euro là một ngoại tệ quan trọng, thay chỗ cho đồng Đô la Mỹ. Các thành viên EU như Đan Mạch, Estonia, Latvia, Litva, Malta, và Síp cam kết giữ tỉ giá tiền tệ của mình đối với đồng Euro trong khoảng giao động cho phép của Cơ chế Tỷ giá hối đoái II (ERM II). Các quốc gia Anh, Đan Mạch, Thụy Điển đã quyết định không dùng đồng Euro và vẫn giữ tiền tệ chính thức của quốc gia. Các quốc gia Ba Lan, Cộng hòa Séc, Estonia, Hungary, Latvia, Litvia, Malta, Slovakia, và Síp gia nhập EU năm 2004 chỉ có thể gia nhập vào Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu Âu sau khi thỏa mãn được các điều kiện hội tụ (qua 2 năm là thành viên của Cơ chế Tỷ giá hối đoái II và các điều kiện khác).Các nước mới gia nhập EU vào ngày 1 tháng 1 năm 2007, Bulgaria, Romania có kế hoạch gia nhập Khu vực đồng Euro lần lượt vào các năm 2010 và 2011. III. Ký hiệu tiền tệ, tiền đồng và tiền giấy 1. Mã tiền tệ ISO Ký hiệu quốc tế bao gồm ba mẫu tự của đồng Euro (mã tiền tệ ISO) là EUR. Ký hiệu này là một trường hợp đặc biệt trong mã tiền tệ ISO vì nhiều lý do:Thông thường thì chữ cái đầu tiên của ký hiệu cho một loại tiền tệ được sử dụng trong khuôn khổ của một liên minh tiền tệ là chử X. Vì thế ký hiệu nếu như theo như tiêu chuẩn phải là XEU. Nếu như chữ đầu tiên không phải là X thì hai mẫu tự đầu tiên là mã quốc gia theo ISO 3166. Ký hiệu EU dành cho Liên minh châu Âu cũng được định nghĩa trong tiêu chuẩn này nhưng thật ra là trường hợp đặc biệt vì Liên minh châu Âu không phải là một quốc gia có chủ quyền. Chữ cái cuối cùng của mã tiền tệ thường là chữ cái đầu tiên của tiền tệ. Không có ký hiệu chính thức và cũng không có cách viết tắt chính thức cho Cent của Euro. 2. Ký hiệu tiền tệ Dấu hiệu Euro được Ủy ban châu Âu đưa vào sử dụng như là ký hiệu của đồng tiền tệ cộng đồng châu Âu vào năm 1997. Ký hiệu này dựa trên cơ sở của phát thảo nghiên cứu năm 1974 của người trưởng đồ họa của Cộng đồng châu Âu, Arthur Eisenmenger. Ký hiệu này là một chữ E tròn và lớn có hai vạch nằm ngang. Ký hiệu này gợi nhớ đến chữ epsilon của Hy Lạp và vì vậy là gợi nhớ đến châu Âu thời cổ điển. Hai vạch ngang tượng trưng cho sự bền vững của Euro và của vùng kinh tế châu Âu. a. Tiền kim loại Euro : Các đồng tiền kim loại Euro có mặt trước hoàn toàn giống nhau trong tất cả các nước nhưng mặt sau là hình ảnh của từng quốc gia. Thế nhưng vẫn có thể trả bằng tiền kim loại trong khắp liên minh tiền tệ. Một euro được chia thành 100 cent, tại Hy Lạp thay vì cent người ta dùng lepto (số ít) hay lepta (số nhiều) trên các đồng tiền kim loại của Hy Lạp. b. Tiền giấy Euro : Euro (ký hiệu tiền tệ quốc tế: "EUR") là tiền tệ chung của 12 nước thuộc Liên minh châu Âu. Tiền giấy và tiền kim loại Euro bắt đầu được lưu hành từ ngày 1 tháng 1 năm 2002 tuy rằng loại tiền tệ này đã được đưa vào sử dụng từ ngày 1 tháng 1 năm 1999. Tiền giấy Euro có 7 mệnh giá, mỗi mệnh giá có một màu khác nhau. Các tờ tiền giấy mang hình của kiến trúc châu Âu từ các thời kỳ khác nhau trong lịch sử nghệ thuật. Mặt trước có hình của một hay nhiều cửa sổ hay cổng vào và mặt sau là một chiếc cầu. Đó không phải là công trình kiến trúc có thật mà chỉ là tập hợp của những đặc điểm phong cách của từng thời kỳ kiến trúc một. Tất cả các tờ tiền giấy đều có cờ hiệu châu Âu, chữ đầu tự của Ngân hàng Trung ương châu Âu bao gồm 5 ngôn ngữ (BCE, ECB, EZB, EKT, EKP), một bản đồ châu Âu (bao gồm cả các khu hành chính hải ngoại của Pháp) ở mặt sau, tên "Euro" bằng chữ La tinh và chữ Hy Lạp, chữ ký của Giám đốc Ngân hàng Trung ương Châu Âu đương nhiệm. Vì Wim Duisenberg đã trao lại chức giám đốc cho Jean-Claude Trichet trong mùa thu 2003 nên trên các tờ tiền giấy in sau này chữ ký cũng đã thay đổi. 12 ngôi sao của EU cũng có trên tờ tiền giấy Euro. Các tờ tiền giấy là do người Áo Robert Kalina thiết kế sau một cuộc thi trong toàn EU. Khác với tiền kim loại Euro các tờ tiền giấy Euro không có một mặt đặc trưng cho từng quốc gia và vì thế mà không thể nhận biết qua hình ảnh là tờ tiền giấy là của quốc gia nào. Thay vào đấy, thông tin này có trong số xê ri trên mặt sau. Mẫu tự đầu tiên của số xê ri có 12 chữ số là dấu hiệu của Ngân hàng Trung ương Quốc gia chịu trách nhiệm in tờ tiền giấy này. Ngân hàng Trung ương Quốc gia này hoặc là đã đưa tờ tiền giấy vào lưu hành trong phạm vi thẩm quyền của ngân hàng hoặc là đã cung cấp cho một Ngân hàng Trung ương Quốc gia khác để ngân hàng này đưa vào lưu hành trong phạm vi thẩm quyền của ngân hàng đó. Các mẫu tự W, K và J được dành riêng cho các quốc gia EU không tham gia vào Euro trong thời gian này. Sau mẫu tự của Ngân hàng Trung ương Quốc gia là một số bao gồm 10 con số và cuối cùng là một con số kiểm định. Tổng số ngang (cộng tất cả các con số của dãy số lại cho đến khi nào chỉ còn một con số) của 11 con số này là một tổng số kiểm định trong bảng phía dưới. Con số kiểm định cũng có thể được kiểm tra bằng cách thay thế mẫu tự bằng thứ tự của mẫu tự đó trong bảng chữ cái (A=1;Z=26). Tổng số ngang của các con số kể cả số thay cho chữ cái phải là 8. Một con số kiểm định đúng tất nhiên không phải là một sự bảo đảm là tờ tiền giấy này là tờ tiền thật. Chỉ có con số kiểm định đúng thôi thì tờ tiền giả không trở thành tờ tiền thật nhưng kinh nghiệm cho thấy nhiều người giả mạo đã in số kiểm định sai trên tờ tiền giả. Để kiểm tra tiền giả hay thật nên dùng những phương pháp khác. Các tờ tiền giấy Euro có nhiều đặc điểm an toàn nhằm để ngăn cản hay làm cho việc giả mạo khó khăn hơn. IV. Các Đặc Điểm Chống Giả Mạo Của Tiền Giấy 1. Các đặc điểm chung : Giấy dùng để in tiền được làm từ sợi bông vải, có thể được xác minh bằng bút thử đặc biệt, nếu là tiền thật thì dùng loại bút thử này không để lại dấu vết. Hình chìm trên giấy. Dây an toàn, khi đưa giấy lên trước ánh sáng có thể nhìn thấy. Một vài phần của hình có thể cảm nhận được khi sờ lên. Một mệnh giá được in một phần ở mặt trước và một phần ở mặt sau, khi đưa lên trước ánh sáng sẽ nhìn thấy toàn phần (Hai mặt bổ sung chính xác cho nhau). Chữ siêu nhỏ. Dưới ánh sáng của tia cực tím có thể nhìn thấy các sợi có nhiều màu. 2. Các đặc điểm của từng mệnh giá : Vạch bằng lá kim loại đặc biệt có ảnh ba chiều (tiếng Anh: Hologram), khi nhìn nghiêng ảnh sẽ thay đổi giữa ký hiệu Euro và mệnh giá (ở các mệnh giá 5, 10 và 20 Euro). Vạch đặc biệt khi nhìn nghiên tờ tiền giấy sẽ có màu vàng với ký hiệu Euro và mệnh giá (ở các mệnh giá 5, 10 và 20 Euro). Ảnh ba chiều với hình của kiểu kiến trúc hay mệnh giá (ở các mệnh giá 50, 100, 200 và 500 Euro). Đổi màu: Khi nhìn nghiên tờ tiền giấy màu sẽ thay đổi ở các mệnh giá lớn (ở các mệnh giá 50, 100, 200 và 500 Euro). 3. Các đặc điểm bí mật: Trên các tờ tiền giấy Euro còn có những đặc điểm an toàn bí mật (được gọi là "M-Features"). Những đặc điểm này được kiểm tra một cách tự động trong các chi nhánh của Ngân hàng Trung ương châu Âu. Cho đến nay các phương pháp kiểm tra này đã có thể nhận biết được tiền giả một cách chắc chắn. Mỗi một tờ tiền giấy trung bình được kiểm tra 3 tháng một lần trong một chi nhánh của Ngân hàng Trung ương châu Âu nhằm khám phá và ngăn chặn tiền giả trong lưu hành 4. Các đặc điểm an toàn của loạt thứ hai : Loạt tiền giấy Euro thứ hai sẽ từng bước thay thế các loại tiền giấy hiện nay vào năm 2008. Các tờ tiền giấy mới này có các đặc điểm an toàn mới hay được tiếp tục cải tiến. Cho đến nay vẫn chưa có thông tin chi tiết chính thức về các đặc điểm an toàn này. Chương II: NHỮNG TÁC ĐỘNG KINH TẾ CỦA ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU ÂU I. Tác động kinh tế EU Khi đưa đồng Euro vào lưu hành người ta hy vọng là thương mại và cộng tác kinh tế giữa các thành viên trong vùng Euro sẽ vững mạnh thêm vì các rủi ro về tỷ giá hối đoái và kèm theo đó là việc bảo hộ tiền tệ (tiếng Anh: currency hedging) của các doanh nghiệp châu Âu sẽ không còn tồn tại nữa. Người ta cũng đoán rằng việc này sẽ mang lại lợi thế cho người dân trong vùng Euro vì trong quá khứ thương mại là một trong những nguồn chính của tăng trưởng kinh tế. Thêm vào đó người ta cũng tin rằng giá cả của sản phẩm và dịch vụ sẽ không còn chênh lệch nhau nhiều nữa. Điều này dẫn đến cạnh tranh mạnh hơn giữa các doanh nghiệp và vì thế sẽ làm giảm lạm phát và tăng sức mua của người tiêu thụ. Một số nhà kinh tế học bày tỏ lo ngại về những nguy hiểm của một đồng tiền tệ chung cho một vùng kinh tế không đồng nhất và rộng lớn như vùng Euro. Đặc biệt là khi các nền kinh tế phát triển không đồng bộ sẽ tạo khó khăn cho một chính sách tiền tệ thích ứng. Về mặt chính trị vẫn còn câu hỏi là liệu Ngân hàng Trung ương châu Âu và Ủy ban châu Âu có khả năng kiềm chế các nước thành viên giữ kỷ luật trong ngân sách quốc gia hay không. Trên thực tế, thời gian vừa qua dường như đã xác thực nổi lo ngại này, ít nhất là trong trường hợp của nước Đức: Từ khi đưa đồng Euro vào lưu hành nước Đức chưa có năm nào đạt được điều kiện về thâm hụt ngân sách quốc gia (không được vượt quá 3% tổng sản phẩm quốc nội). Cho tới nay, các biện pháp trừng phạt thật ra là đã được quy định trước trong Hiệp ước Ổn định và Tăng trưởng đã không được Hội đồng các bộ trưởng Bộ Tài chính châu Âu áp dụng. 1. Tác động về lạm phát của đồng Euro Nhiều người tiêu dùng nhận định là hàng hóa và dịch vụ đã tăng giá khi đồng Euro được đưa vào sử dụng. Tại Đức, một nguyên nhân là do một số nhà cung cấp hàng hóa và dịch vụ đã cố tình không dùng tỷ giá chính xác giữa đồng Mark Đức và Euro khi tính toán chuyển đổi và một phần khác, giá được nâng lên một ít trước khi đưa đồng Euro vào sử dụng để sau đó là thông qua tính toán tỷ giá chuyển đổi có thể "làm tròn số" giá bán. Tuy nhiên, theo như các thống kê chính thức thì giá tăng không đáng kể: Theo Statistik Austria (Tổng cục Thống kê Liên bang Áo), dựa trên chỉ số giá tiêu dùng, tỷ lệ lạm phát tăng trung bình ở Áo là 2,45% trong vòng 12 năm, từ 1987 đến 1998, trong khi đó tỷ lệ lạm phát trung bình giảm xuống còn 1,84% sau khi đưa đồng Euro vào lưu hành. Tại Đức, lạm phát trung bình đã giảm từ 2,60% (trước khi đưa đồng Euro vào sử dụng) xuống còn 1,29% sau đó. Có nhiều lý thuyết giải thích sự khác nhau giữa lạm phát đã giảm theo tính toán thống kê và cảm nhận tăng lạm phát chủ quan. Thí dụ như người ta đã chỉ ra rằng các mặt hàng được mua hằng ngày như thực phẩm thật sự là đã tăng giá quá mức trung bình trong khi các mặt hàng khác trong giỏ hàng hóa thí dụ như các mặt hàng điện dân dụng tuy là được giảm giá nhưng sự giảm giá này không được cảm nhận vì các mặt hàng này hiếm được mua hơn. 2. Euro trong hệ thống tiền tệ toàn cầu : Theo một bản nghiên cứu của Ngân hàng Trung ương châu Âu tỷ lệ của đồng Euro trong dự trữ ngoại tệ trên toàn cầu tăng từ 13% trong năm 2001 lên 16,4% trong năm 2002 và đến 18,7% trong năm 2003, cũng trong cùng thời gian này tỷ lệ của đồng Đô la Mỹ giảm từ 68,3% (2001) xuống 67,5% (2002) và trong năm 2003 còn 64,5%. Nói chung người ta tin rằng tầm quan trọng của đồng Đô la Mỹ như là tiền tệ dự trữ thế giới sẽ tiếp tục giảm và đồng Euro sẽ ngày càng quan trọng hơn trong chức năng này. Tầm quan trọng ngày càng tăng của đồng Euro cũng thể hiện qua một khía cạnh khác: Trong năm 1999 21,7% tất cả các giấy nợ quốc tế được tính bằng Euro, trong năm 2001 là 27,4% và trong năm 2003 đã là 33%. Năm 2004 đồng Đô la Mỹ đã chấm dứt vai trò là tiền tệ quan trọng nhất cho các loại trái phiếu và công trái với lãi suất cố định và lãi suất thả nổi (tiếng Anh: Floating Rate Notes): Trong cuối tháng 9 năm 2004 có trên 12.000 tỉ đô la trái phiếu và công trái quốc tế lưu hành trên toàn thế giới. Trong đó có 5.400 tỉ là đồng Euro, 4.800 tỉ là đồng Đô la Mỹ, 880 tỉ đồng Bảng Anh, 500 tỉ tiền Yen và 200 tỉ là đồng Franc Thụy Sĩ. Tỷ lệ của đồng Đô la Mỹ trong tổng số tiền gửi tại các tài khoản của các quốc gia OPEC giảm từ 75% trong mùa hè 2001 xuống còn 61,5% trong mùa hè 2004. Tỷ lệ tiền Euro tăng trong cùng khoảng thời gian từ 12% lên 20%. Trong năm 2003 tỷ lệ mua bán Euro trên các thị trường ngoại tệ là 25% so với 50% của đồng Đô la Mỹ và 10% cho hai loại tiền Bảng Anh và Yen Nhật. Đồng Euro vì vậy là tiền tệ quan trọng đứng thứ nhì hiện thời. 3. Tỷ giá hối đoái của đồng Euro Tỷ giá hối đoái của các tiền tệ cũ so với Euro Tỷ giá hối đoái của các tiền tệ chính thức của các quốc gia là thành viên của liên minh tiền tệ được quy định vào ngày 31 tháng 12 năm 1998 dựa trên cơ sở giá trị tính chuyển đổi của đồng ECU (European Currency Unit). Vì thế mà đồng Euro bắt đầu tồn tại như là tiền để thanh toán trong kế toán (chưa có tiền mặt): đồng Euro về mặt hình thức trở thành tiền tệ của các nước thành viên, các tiền tệ quốc gia có địa vị là một đơn vị dưới Euro và có tỷ giá cố định không đổi. Tỷ giá này được quy định bao gồm có 6 con số để giữ cho các sai sót làm tròn ít đi. Một đồng Euro tương ứng với: 1,95583 Mark Đức 13,7603 Schilling Áo 40,3399 Franc Bỉ 166,386 Peseta Tây Ban Nha 5,94573 Markkaa Phần Lan 6,55957 Franc Pháp 0,787564 Pound Ireland 1936,27 Lira Ý 40,3399 Franc Luxembourg 2,20371 Gulden Hà Lan 200,482 Escudo Bồ Đào Nha 340,750 Drachma Hy Lạp Sau khi đồng Euro được sử dụng như là tiền dùng để thanh toán trong kế toán, các tiền tệ là thành viên chỉ được phép tính chuyển đổi với nhau thông qua đồng Euro, tức l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docde tai tong quan ve lien minh tien te chau au va dong tien chung chau au.doc
Tài liệu liên quan