Đề tài Sự vận dụng của NEP vào Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI 1

I-LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚi CỦA LÊ NIN 2

1. Cơ sở lý luận 2

a. Điều kiện ra đời của chính sách kinh tế mới của Lênin 2

b. Nội dung và biện pháp chủ yếu của chính sách kinh tế mới 2

c. Ý nghĩa của NEP 2

II-SỰ VẬN DỤNG CỦA NEP VÀO VIỆT NAM 3

1. Tính tất yếu khách quan của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam 3

a. Tính tất yếu khách quan 3

b. Khả năng về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở VIÊT-NAM 3

c. Nhận thức về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩ. 4

2. Sự vận dụng vào Việt Nam 4

a. Phát triển lực lượng sản xuất ,công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước 4

b.Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 6

3. Những thành tựu về kinh tế -xã hội của Việt Nam 8

a. Đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng cường cơ sở vật chất , tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới. 8

b-Tạo dựng được những tiền đề phát triển kinh tế -xã hội trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. 9

III-THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP 10

1. Về nông nghiệp 10

2. Về khoa học công nghệ 11

3. Về tài nguyên thiên nhiên và năng lượng 12

4. Về môi trường 12

5. Vấn đề công bằng xã hội 12

6. Về chính trị 13

KẾT LUẬN 14

TÀI LIỆU THAM KHẢO 15

 

 

doc17 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1598 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Sự vận dụng của NEP vào Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à kinh nghiệm của các nước đi trước để thực hiện “con đường phát triển rút ngắn”. Cách mạng khoa học công nghệ làm thay đổi cơ cấu các ngành như công nghiệp,nguyên tử …Tất cả đều làm thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu tổ chức doanh nghiệp, nâng cao trình độ xã hội hoá và chi phối sự biến đổi cơ bản về quan hệ sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế. Trong điều kiện đó cho phép và buộc chúng ta phải biết tranh thủ thời cơ, tận dụng, khai thác, sử dụng có hiệu quả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được để rút ngắn thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bên cạnh đó chúng ta được sự ủng hộ và giúp đỡ của các nước, các tổ chức phi chính phủ về vốn, công nghệ, quản lý …tao điều kiện sớm đổi mới cơ sở kĩ thuật, cơ cấu kinh tế, phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất. Vì vậy chúng ta phải biết tranh thủ thời cơ, mở rộng và tận dụng tốt sự giúp đỡ và hợp tác có hiệu quả bằng nhiều hình thức, trong các ngành các lĩnh vực . Về những tiền đề chủ quan; Việt Nam là một nước dân tương đối đông, nhân lực dồi dào, truyền thống lao động cần cù vị trí địa lí thuận lợi, tiềm lực ban đầu về cơ sở vật chất như đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật, công nhân lành nghề …là những yếu tố hết sức quan trọng để mở rộng sự hợp tác, tạo điều kiện cho nước ngoài đầu tư và là lợi thế tăng trưởng kinh tế nhanh. Bên cạnh đó nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam -một Đảng giàu tinh thần cách mạng sáng tạo, khoa học, trí tuệ có đường lối đúng đắn và gắn bó với quần chúng, đã từng chiến đấu hi sinh không chỉ nhằm mục đích giành lại độc lập mà vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc .Những yêu cầu đó chỉ chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được.Vì vậy quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lượng vật chất đủ sức vượt qua mọi khó khăn và xây dựng xã hội chủ nghĩa thành công. Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ đại hội Đảng lần thứ VI đến nay đã thu được nhữnhg kết quả bước đầu, giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường hợp tác đầu tư, phát triển kinh tế, đời sống của nhân dân được cải thiện …điều đó đã củng cố và khẳng định con đường lựa chọn lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn . c. Nhận thức về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩ. Bỏ qua chế độ tư bản là sự tổng hợp nhiều mặt ,nhiều nhân tố chính trị, xã hội, tư tưởng, văn hoá, dân tộc, quốc tế …Tất nhiên trong những nhân tố chủ quan và khách quan phân tích trên , thì nhân tố chủ quan có ý nghĩa quyết định .Hơn nữa biến những khả năng thành hiện thực là một quá trình công dân cũng như từng tập thể, từ cơ sở đến trung ương trong tất cả các lĩnh vực, các ngành của đời sống kinh tế ,xã hội . 2. Sự vận dụng vào Việt Nam a. Phát triển lực lượng sản xuất ,công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước Đây được coi là nhiệm vụ trung tâm của thời quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất –kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển lực lượng xã hội. Vì con người lao động là lực lượng sản xuất cơ bản cho nên muốn phát huy nhân tố con người của nền sản xuất xã hội chúng ta không thể không đầu tư phát triển trước hết là giáo dục, đào tạo sau đó là hàng loạt vấn đề đối với người lao động như tuyển dụng, sử dụng, quản lý, chính sách đãi ngộ… nghĩa là theo phương trâm từ con người do con người và vì con người … Trong thời đại xu hướng quốc tế hoá sản xuất và đời sống ngày một gia tăng, cách mạng khoa học kĩ thuật trên thế giới đang diễn ra như vũ bão thì công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá với việc nâng cao trình độ văn hoá giáo dục, khoa học công nghệ .Khoa học và công nghệ ngày nay có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của các quốc gia. Công nghiệp hoá -hiện đại hoá là con đường duy nhất để phát triển nền kinh tế -xã hội với bất cứ quốc gia nào, nhất là các nước chậm và đang phảt triển. Chỉ có công nghiệp hoá -hiện đại hoá mới có thể rút ngắn được thời gian phát triển kinh tế -xã hội so với các nước “đi trước” .Trong CNH-HĐH con người -nguồn nhân lực -với tư cách là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội, chính là yếu tố quyết định quan trọng nhất là động lực quan trọng nhất. Thực tế đã chứng minh, nguyên nhân dẫn đến sự thành công của các quốc gia và vùng lãnh thổ có nền công nghiệp phát triển ở châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Xin-ga-po, Hồng-Công, Đài-Loan…không chỉ bắt nguồn từ phát triển khoa học- công nghệ mà chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực có hàm lượng chất xám cao vì thế có thể khẳng định, nguồn nhân lực đã trở thành yếu tố quan trọng nhất, có ảnh hưởng mang tính quyết định nhất đối với sự phồn vinh của quốc gia ,dân tộc .Đảng ta đã xác định nhân tố con người –chính xác hơn là vốn con người ,vốn nhân lực ,bao hàm cả sức lao động ,trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc –là vốn quý nhất quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kì đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá ,hiện đại hoá .Nhân tố này nếu được giải phóng sẽ trở thành nguồn nội lực vô tận để phát triển đất nước .Vì thế ,giải phóng tiềm năng con người để phát huy tối đa nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH-HĐH là một trong những quan điểm đổi mới có tính đột phá trong đường lối phát triển kinh tế-xã hội của Đảng ta trong thời kì đổi mới. Con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạnh mới ,đã được Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII xác định xây dựng với những đức tính “…lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp. có kĩ thuật sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình tập thể và xã hội; thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn trình độ thẩm mỹ và thể lực…”Mặt khác muốn cho khoa học và công nghệ trở thành động lực của sự phát triển thì phải tìm ra động lực cho sự phát triển của bản thân khoa học và công nghệ. Động lực này nằm ở lợi ích của những người nghiên cứu, phát minh và ứng dụng có hiệu quả của khoa học và công nghệ bao gồm cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Gắn hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ với thực tiễn,với nhu cầu xã hội,thiết lập các quan hệ trực tiếp giữa doanh nghiệp với cơ quan và người làm công tác nghiên cứu,phát minh,sáng chế trên cơ sở bạn hàng cùng có lợi,trả công thoả đáng,tương xứng với hiệu quả kinh tế xã hội của việc áp dụng các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ nhằm khuyến khích các nhà khoa học hăng hái miệt mài sáng tạo, để họ có cuộc sống đầy đủ hơn bằng trí tuệ của mình.Đó là một trong những phương hướng quan trọng nhất tạo nên động lực bền vững cho sự phát triển khoa học và công nghệ. Về phần mình các nhà khoa học phải cống hiến quên mình cho sự nghiệp nghiên cứu phát minh, đóng góp tích cực có hiệu quả cho xã hội, cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. b.Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. *) Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu khách quan của xã hội chủ nghĩa nhưng việc xây dựng quan hệ sản xuất mới phải tuân theo yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tránh chủ quan duy ý chí. Thực chất đổi mới kinh tế của đất nước ta trong 20 năm qua là sự điều chỉnh một càch toàn diện các quan hệ sản xất bao gồm cả về mặt quan hệ sơ hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Đó là bước khởi đầu của cách mạng về các quan hệ sản xuất, xuất phát từ yêu cầu khách quan của quá trình xã hội hoá sản xất: công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế thị trường của nước ta.Nhờ bước đầu “cởi trói cho một loạt các quan hệ sản xuất, các thành phần kinh tế đang phát huy tác dụng, chứng tỏ sức sống và các vị trí quan hệ của nó trong cuộc sống xây dựng nền kinh tế mới. *) Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất đòi hỏi phải nâng cao hiệu lực theo nguyên tắc kinh tế thị trường đẩy mạnh phúc lợi xã hội. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải kết hợp phân phối theo lao động và hưởng lợi theo sản phẩm. Phấn đấu và tạo điều kiện để mỗi người lao động đều có một phần tài sản , vốn liếng để đóng góp cổ phần, phát huy vai trò của họ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Mục tiêu là phải bảo đảm đời sống của người lao động từng bước được nâng cao, góp phần xoá đói giảm nghèo Phân phối dựa trên nguyên tắc thị trường khônh tránh khỏi sự bất bình đẳng trong thu nhập mà hậu quả của nó là sự mất ổn định trong kinh tế chính trị xã hội như nhiều nước phát triển theo con đường kinh tế thị trường đã trải qua .Vì vậy phải có sự điều tiết trong phân phối ,ở đây sự điều tiết của nhà nước là hết sức quan trọng thông qua thuế thu nhập và phúc lợi xã hội . *) Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất một mặt phải để thành phần kinh tế nhà nước vươn lên nắm vai trò chủ đạo ,mặt khác phải đảm bảo tính bình đẳng giữa các thành phần kinh tế . Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần ,đang trong quá trình chuyển đổi ,các thành phần kinh tế đan xen lẫn nhau ,vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau ,luôn vận động và có thể chuyển hoá trong quá trình phát triển.Định hướng xã hội chủ nghĩa là tạo điều kiện cho thành phần kinh tế nhà nước vươn lên nắm vai trò chủ đạo .Thực tế hiện nay các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta chưa đáp ứng được vai trò này kể cả về hiệu quả sản xuất kinh doanh ,về trình độ tổ chức quản lí và phương thức phân phối .Vì vậy muốn hiện thực được vai trò chủ đạo ,các doanh nghiệp nhà nước cầc phải sắp xếp lại ,phát triển doanh nghiệp nhà nước một mặt phải đặt trong mối tương quan với nguồn lực nhà nước ,mặt khác phải đặt trong mối quan hệ với các thành phần kinh tế khác .Về tổ chức quản lí phải chặt chẽ hơn, phải có chế độ phân phối hợp lí để nâng cao đời sống của người lao động ,vừa đảm bảo tái sản xuất của các doanh nghiệp ,phải củng cố và nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước đối với các doanh nghiệp khác trong và ngoài nước .Chính điều đó củng cố tích chất xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế . *) Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phải tính tới yếu tố thời đại mà đặc trưng cơ bản của nó là quá trình mở cửa ,hội nhập với quốc tế và khu vực .Công nghiệp hoá hiện đại hoá phải được tiến hành theo mô hình nền kinh tế mở cửa trong nước và nước ngoài. Đối với nước nghèo như nước ta việc mở cửa để thu hút nguồn lực về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lí từ nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng. Nguồn lực huy động từ bên ngoài sẽ góp phần tạo ra lực lượng sản xuất mới, năng suất lao động cao hơn đảm bảo cho sự phát triển thắng lợi của đất nước. Về quan hệ sản xuất điều đó có nghĩa là rút ngắn sự phát triển có tính tuần tự theo tiến trình lịch sử, đẩy nhanh quá trình xây dựng nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy cần phải có chính sách thông thoáng để thu hút các nguồn lực đó và biến chúng thành nhân tố tích cực, góp phẩn thúc đẩy năng lực và phát triển kinh tế đất nước . c. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ nền kinh tế nước ta không thể là một nền kinh tế khép kín mà phải tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đó là một xu thế tất yếu của thời đại, là vấn đề có tính quy luật trong thời đại ngày nay. Mở cửa nền kinh tế nhằm thu hút nguồn lực từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ trình độ công nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm, mở rộng phân công lao động quốc tế , tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác là cơ sở để kích thích sản xuất trong nước vươn lên kịp trình độ thế giới, đảm bảo hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, tăng cường tính độc lập và phụ thuộc lẫn nhau trên ngyên tắc bình đẳng cùng có lợi . Trong quan hệ đối ngoại phải đa dạng hoá các lĩnh vực, các ngành các bên và các hoạt động, phải từng bước nâng cao sức cạnh tranh quồc tế, tích cực khai thác thị trường thế giới, tối ưu hoá cơ cấu xuất nhập khẩu, tích cực tham gia hợp tác kinh tế, tích cực khai thác thị trường thế giới, tối ưu hoá cơ cấu xuất nhập khẩu, tích cực tham gia hợp tác kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn cầu, xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa mở rộng kinh tế đối ngoại với độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia. Hoạt động kinh tế đối ngoại đã có bước phát triển mạnh mẽ, đưa nước ta nhanh chóng hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, đa phương hoá và đa dạng hoá các mối quan hệ với các nước, các tổ chức tài chính quốc tế.Những kết quả nổi bật nhất trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại là mở rộng thị trường xuất khẩu ra các khu vực trên thế giới; gia nhập khối ASEAN, tham gia AFTA và APEC, gần đây là đàm phán thành công gia nhậpTổ chức thương mại Thế giới(WTO), bình thường hoá quan hệ với Mỹ,… Bển cạnh việc phát triển kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội nhằm làm cho mỗi thành viên trong xã hội thoả mãn ngày càng cao các nhu cầu vật chất và văn hoá tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi người . 3. Những thành tựu về kinh tế -xã hội của Việt Nam Trước khi bước vào đổi mới nền kinh tế nước ta đang trong tình trạng trì trệ và tăng trưởng thấp, sản xuất không đủ tiêu dùng, tích luỹ phần lớn là phải dựa vào vay mượn từ bên ngoài. Thị trường hàng hoá thiếu thốn nghiêm trọng, nhất là lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu. Cơ sở vật chất, kỹ thuật phần lớn của các ngành kinh tế, xã hội xuống cấp nghiêm trọng. Đời sống nhân dân rất khó khăn. Trước bối cảnh đó, Đảng ta đã đề xướng và lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế -xã hội của đất nước. Những quan điểm kinh tế của Đảng ta nhất là từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đến nay đã thể hiện sự nhận thức và vận dụng quan điểm trong Chính sách kinh tế mới của Lênin. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI được đánh dấu là một bước ngoặt lịch sử đổi mới, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần , xoá bỏ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp . Đại hội đã nêu ra hai chặng đường của thời kì quá độ lên CNXH; trong đó chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế-xã hội và xây dựng những tiền đề cần thiết cho công nghiệp hoá; chặng đường tiếp theo là đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá XHCN. Sau 20 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. a. Đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng cường cơ sở vật chất , tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới. *) kết thúc kế hoạch 5năm(1986-1990)công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, GDP tăng 4,4%/năm.Việc thực hiện tốt ba chương trình, mục tiêu phát triển về lương thực -thực phẩm , hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu được đánh giá là sự thành công bước đầu cụ thể hoá nội dung của CNH-XHCN trong chặng đường đầu tiên đã được Đại hội thông qua. Thành công trong kế hoạch 5năm 1986-1990 không đơn thuần là phục hồi được sản xuất, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát …mà quan trọng hơn là chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế-xã hội và giải phóng sức sản xuất. *Trong 5 năm(1991-1995)nền kinh tế đã khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và tương đối toàn diện, thực hiện vượt mức hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1991-1995. Tổng sản phẩm trong nước(GDP)bình quân hàng năm trong thời kì 1991-1995 tăng 8,2% vượt mức kế hoạch đề ra. *Thời kì 5 năm(1996-2000)được xác định là bước rất quan trọng của thời kì phát triển mới, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Trong quá trình thực hiện kế hoạch, nhất là từ giữa năm 1997đến năm 1999, tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính -kinh tế khu vực, cùng với thiên tai nghiêm trọng liên tiếp xảy ra đã đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách quyết liệt. Trong bối cảnh đó, toàn đảng, toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn thách thức, duy trì được nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP)7%/năm. *Năm năm 2001-2005 đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn thử thách, đạt được những thành tựu rất quan trọng trong việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010: kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước. Tổng sản phẩm trong nước (GDP)5năm (2001-2005)tăng bình quân 7,5% năm, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra; trong đó nông nghiệp tăng 3,8%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,2% dịch vụ tăng 7%. Qui mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 838 nghìn tỷ đồng ,gấp đôi so với năm 1995 . GDP bình quân đầu người khoảng 10 triệu đồng . b-Tạo dựng được những tiền đề phát triển kinh tế -xã hội trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. *Tài chính quốc gia có nhiều cải thiện .Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước so với(GDP)năm 1990đạt 15,1% GDP, năm 1995 đạt 20% năm 2005 tăng 24,4% .Tốc độ tăng thu ngân sách nhà nước hàng năm cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng giá cộng lại . Tỷ lệ đầu tư phát triển trong GDP tăng nhanh ;năm 1990 vốn đầu tư phát triển chiếm 17,3% GDP, năm 2000 lên 28%.Năm 2005 huy động lên đến 38,9%GDP. *Cải thiện kết cấu hạ tầng giao thông ,điện ,đường ,viễn thông,thuỷ lợi ,thúc đẩy khả năng phát triển kinh tế và cải thiẹn đời sống dân cư .Hệ thống giao thông vận tải đã được đầu tư phát triển .Nâng cấp mở rộng Và làm mới các tuyến đường giao thông huyết mạch và trọng yếu, bảo đảm thông suốt trong cả nước. Cho đến cuối năm 2005, tổng chiều dài đường quốc lộ trong cả nước vào khoảng 17300km, tổng chiều dài đường sắt khoảng 3400km, tổng năng lực thông qua các cảng biển tăng thêm trong 10 năm 1996-2005 vào khoảng 880 triệu tấn, tổng năng lực vận tải hành khách thông qua các sân bay vào khoảng trên 12 triệu hành khách /năm. *Giáo dục và đào tạo ,khoa học và công nghệ phát triển khá .Giáo dục và đào tạo có những chuyển biến tích cực, mặt bằng dân trí đã được nâng lên. Đã hoàn thiện việc xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước và phổ cập giáo dục trung học cơ sở ở 31 tỉnh, thành phố .Cơ sở vật chất cho phát triển giáo dục tiếp tục phát triển, nội dung chương trình giảng dạy đã có nhiều đổi mới, mạng lưới các trường Đại học đã được sắp xếp lại theo quy hoạch và chiến lược phát triển của ngành, mạng lưới cơ sở dạy nghề phát triển khá nhanh, đáp ứng nhu cầu phát triển của nhân dân . Hoạt động khoa học và công nghệ đã có bước chuyển biến mới ,đóng góp thiết thực ,có ý nghĩa trong sự nghiệp đổi mới của đất nước ,không chỉ về mặt ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất ,đời sống xã hội mà cả trên phương diện nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ . *)Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước được hình thành; kguôn khổ pháp lý, các cơ chế chính sách, các chế tài quản lý kinh tế đã được đổi mới phù hợp, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Sau đây là số liệu về tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam theo giá so sánh năm 2006 do Tổng cục thống kê công bố : Năm Tổng sản phẩm quốc nội (Nghìn tỷ đồng) Tốc độ tăng (%) 1986 109,2 2,8 1990 132,0 5,1 1995 195,6 9,5 2000 273,6 6,8 2006 393,0 8,2 Nhìn vào bảng số liệu ta thấy Việt Nam đặt mức tăng trưởng GDP ở mức khoảng 8%/ năm trong giai đoạn 1990-1997 và tiếp tục duy trì ở mức khoảng 7% /năm từ năm 2000-2002 khiến nước ta có tốc độ phát triển kinh tế đứng hàng thứ hai trên thế giới, các năm tiếp theo cũng có mức tăng trưởng cao. Điều đó cho thấy qua những năm đổi mới Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao, ổn định và bền vững. Không chỉ kinh tế mà trên một số các lĩnh vực khác chúng ta cũng thu được những thành công nhất định. *)Nông nghiệpvà công nghiệp; Sau nhiều biện pháp cải cách ruộng đất ,hiện Việt Nam là nhà sản xuất đào lộn hột lớn nhất thế giới với một phần ba thị trường toàn cầuvà nhà xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới. Bên cạnh gạo, các mặt hàng xuất khẩu chính khác là hồ tiêu, chè, cao su,và các sản phẩm thuỷ sản. Song song với nỗ lực tăng sản lượng nông nghiệp, Việt Nam đã tìm cách tăng sản lượng công nghiệp. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)-đa số tập trung vào công nghiệp mới ở phía nam –dò sao đã cho thấy một số bước hướng về việc chuyển đổi sang nền kinh tế công nghiệp. *)Thương mại và Cân bằng thanh toán; trong suốt thập niên 1990, xuất khẩu tăng trưởng ngoạn mục ở mức 20%-30% một số năm. Năm 1999, xuất khẩu chiếm tới 40% GDP, một con số ấn tượng tại vùng châu Á đang hồi phục sau khủng hoảng. Những nỗ lực nhằm kiểm soát mức tăng trưởng nhập khẩu của Việt Nam khá thành công. Trong bốn năm, mức nhập khẩu khá ổn định.Năm 1999, trong hai năm liên tiếp,Việt Nam có thặng dư thanh toán thương mại. III-THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP Mặc dù có nhiều cố gắng trong đổi mới nhưng nước ta vẫn không thể không mắc những thiếu sót sai lầm mang tính cơ bản do vậy chúng ta cần phải đề ra những giải pháp đúng đắn nhằm khắc phục những sai lầm trên đưa kinh tế nước ta tiến kịp với thế giới . 1. Về nông nghiệp Theo kết quả nghiên cứu, triển khai và đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất không tương xứng với tiềm năng và rất khác biệt ở hai miền Nam Bắc. Tuy chỉ chiếm 1/4số lượng và 1/3 về lực lượng lao động so với miền Bắc song cơ quan nghiên cứu ở Nam bộ từ năm 2001-2005 đã tạo ra 70%giống lúa mới được công nhận, mở rộng trong sản xuất và gần 80%số giống lúa được phép khu vực hoá . Tiếp theo là về lực lượng cán bộ khoa học kĩ thuật. Khoa học công nghệ không tự nó trở thành hiện thực, vai trò, động lực của nó chỉ phát huy khi có những điều kiện nhất định trong đó trước hết phải kể đến yếu tố con người. Khoa học kĩ thuật là một yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế xã hội nhưng phải có sự phát triển một cách tương xứng với năng lực của con người sử dụng những phương tiện đó. Năng lực đó không chỉ là sự sáng tạo ra sức mạnh của khoa học công nghệ mà còn là khả năng sử dụng và chuyển hoá nó thành động lực của sự phát triển. Bởi vậy đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp trở thành một nội dung quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp. Do khả năng nhận thức của dân cư nông thôn có hạn, việc đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp phải có sự trợ giúp của nhà nước. Nhà nước phải có chính sách giáo dục, đào tạo riêng cho nông nghiệp đặc biệt là vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo. Chính sách giáo dục đào tạo không chỉ phải tính đến trình độ đầu vào, ưu đãi về tài chính cho khu vực nông nghiệp …mà còn phải tính đến nhu cầu về số lượng chất lượng, cơ cấu lao động được đào tạo ở hiện tại và tương lai. Nếu khoa học công nghệ đóng vai trò động lực, là đầu thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước thỉ đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ chính là lực lượng vận hành nguồn lực đó. Sự lớn mạnh của lực lượng này đặc biệt quan trọng trong bước chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp.Thực tế cho thấy, hầu hết các vùng nông thôn,nhất là miền núi đang rất thiếu cán bộ khoa học công nghệ, người ta tính để vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt được con số lý tưởng về mật độ kỹ sư trên diện tích canh tác(một kỹ sư/40ha, một thạc sỹ/1000ha) thì trường đại học Cần Thơ mỗi năm phải đào tạo 640 sinh viên. Tình trạng mỏng về lực lượng, thiếu hụt về đội ngũ kế cận, không có cơ chế hợp lý để sử dụng cán bộ khoa học công nghệ đặt ra bức súc trong khu vực nông nghiệp. Đó thực sự là một thách thức, bởi vì không thể nói đến công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước trong thời đại văn minh trí tuệ, thời đại sinh hoá mà thiếu đội ngũ cán bộ khoa học giỏi vì vậy nhà nước cần có chính sách điều chỉnh nguồn nhân lực này hợp lý, đảm bảo cho họ có được những chế độ đãi ngộ tương xứng với những gì họ đã lao động và cống hiến cho đất nước. 2. Về khoa học công nghệ Hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là quá trình đầu tư theo chiều sâu để phát triển công nghệ nhằm làm thay đổi căn bản cơ cấu của nền kinh tế. Ngay trong giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hoá, phải coi nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng. Vì nhiều nguyên nhân, Việt Nam đã tụt hậu so với các nước trong khu vực trên nhiều phương diện kinh tế, mà thực chất là tụt hậu về khoa học công nghệ. Do năng lực đổi mới công nghệ của đất nước còn nhiều hạn chế, để phát huy lợi thế của đất nước đi sau trong một thế giới mà tốc độ phát triển công nghệ mới ngày càng gia tăng, con đường tối ưu dể hiện đại hoá đất nước là chuyển hẳn sang nền kinh tế thi trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh quá trình đổi mới và chuyển giao công nghệ. 3. Về tài nguyên thiên nhiên và năng lượng Nước ta chậm đề ra chiến lược năng lượng toàn diện và lâu dài, phù hợp với đặc điểm của Việt Nam. Thực tế cho thấy,chúng ta mới chỉ tập trung đầu tư cho thuỷ điện lớn và dầu khí, than coi nhẹ các dạng năng lượng khác. Thuỷ điện lớn, thi công lâu và khó khăn về kỹ thuật trong khi thuỷ điện vừa và nhỏ vốn đầu tư ít, thi công nhanh,kỹ thuật không phức tạp, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật cũng như thiết bị ta đều có trong nước.Khai thác than và dầu khí là cần thiết,ta có thể khai thác trong quy mô lớn và sử dụng trực tiếp,dễ dàng nhưng đòi hỏi nhiều vốn,thời gian và chúng không thể tái tạo được mà tiềm năng của ta về than và dầu mỏ cũng rất hạn chế,điều kiện khai thác của Việt Nam lại có nhiều khó khăn, nơi khai thác lại ở xa nơi tiêu thụ, than và dầu mỏ lại gây ô nhiễm môi tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35884.doc
Tài liệu liên quan