Đề tài Tác động của dân số đến đời sống kinh tế xã hội Trung Quốc

MỤC LỤC

Lời mở đầu 1

Tóm tắt 3

Phần I: Giới thiệu chung về đất nước Trung Quốc 4

I. Khái quát chung 4

II. Tổng quát chung về dân số trung quốc 4

1. Thành phần cơ cấu dân số 4

2. Sự gia tăng dân số 5

3. Sự phân bố dân cư 6

Phần II : Tác động của dân số đến nền kinh tế Trung Quốc 7

I. Tác động tích cực 7

1. Lực lượng lao động dồi dào, lượng lao động bổ sung hàng năm lớn 7

2. Thị trường tiêu thụ lớn 9

3. Xã hội hoá được chú trọng và đẩy mạnh ở nhiều lĩnh vực 10

II. Những tác động tiêu cực của dân số đến nền kinh tế Trung Quốc : 10

1.Hậu quả của chính sách một con : 11

1.1 Nội dung chính sách một con và thực trạng : 11

1.2 Những hậu quả của việc thực hiện chính sách một con : 13

2. Nguy cơ dân số già : 15

2.1 Thực trạng : 15

2.2 Tác động tiêu cực : 17

3.Sức ép về việc làm và vấn đề thất nghiệp ở Trung Quốc : 18

4. Vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, thiếu hụt tài nguyên ở Trung Quốc: 19

4.1 Đáp ứng nhu cầu lương thực khổng lồ và những hậu quả tất yếu của nó: 20

4.2 Ô nhiễm môi trường nghiêm trọng : 21

4.3 Nguồn tài nguyên cạn kiệt : 22

4.4 Tác động tới hệ động thực vật : 23

Phần III: Đánh giá vấn đề dân số trong tình trạng nền kinh tế hiện nay của việt nam 24

I. Liên hệ với Việt Nam 24

II. Bài học cho Việt Nam rút ra từ thực trạng dân số ở Trung Quốc 25

 

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10289 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của dân số đến đời sống kinh tế xã hội Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hóa giáo dục trong điều kiện phát triển mạnh mẽ về quy mô.Bên cạnh đó là vấn đề xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Vấn đề thứ ba là đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục. Về lĩnh vực y tế: Trung Quốc là 1 nước có nền y học rất phát triển đặc biệt là y học dân tộc. Dân số Trung Quốc đứng hàng đầu trên thế giới về mức độ đông của dân cư đã gây áp lực cho y tế. Vì vậy việc xã hội hoá về mặt y tế là 1 điều cần thiết hiện nay. Phân cấp trong y tế, lập kế hoạch, quản lý và cung ứng dịch vụ y tế ở tuyến tỉnh, giúp cho người dân nhận được các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ đạt chất lượng tốt là mục tiêu trong tương lai của hệ thống y tế. Thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; Chuyển hầu hết các bệnh viện công lập sang hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ; hoàn thành việc chuyển các cơ sở y tế bán công sang dân lập hoặc tư nhân. Các tỉnh, thành phố có điều kiện kinh tế phát triển đều có bệnh viện ngoài công lập. Về lĩnh vực văn hoá: Giữ gìn bản sắc văn hoá đồng thời tiếp nhận nền văn hoá mới. II. Những tác động tiêu cực của dân số đến nền kinh tế Trung Quốc : Việc Trung Quốc là quốc gia có số dân đông nhất thế giới, đó là thế mạnh có nhiều tác động tích cực đến sự tăng trưởng phát triển của nền kinh tế Trung Quốc như chúng ta đã đề cập đến ở phần trên. Tuy nhiên việc quốc gia có số dân đông như con dao hai lưỡi, đem lại nhiều tác động tích cực nhưng cũng đồng thời đặt ra cho chính phủ Trung Quốc nhiều vấn đề khó khăn nan giải. Trong xã hội Trung Quốc đã xuất hiện các vấn đề mâu thuẫn về dân số, mà nếu không xử lí tốt các mâu thuẫn này đã, đang và sẽ gây nên tình trạng kinh tế chững lại, xã hội bất ổn định, lãng phí tài nguyên và gây ra nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng. Hiện nay Trung Quốc đang phải đối mặt với những bài toán rất khó giải quyết : nguy cơ dân số già, những hậu quả do chính sach một con gây ra, sức ép về việc làm, vấn đề ô nhiễm môi trường và … 1.Hậu quả của chính sách một con : 1.1 Nội dung chính sách một con và thực trạng : Để hạn chế tốc độ tăng dân số, chính phủ Trung Quốc đã đề ra chính sách một con hay còn gọi là chính sách “ nhất thai hóa ” vào năm 1973 và đưa vào thực hiện từ những năm 1980. Nội dung của chính sách này quy định mỗi gia đình ở thành phố chỉ được phép có 1 con và ở nông thôn là 2 con,. Nếu vi phạm sinh quá số con quy định sẽ phải chịu một khoản tiền phạt rất lớn cùng nhiều biện pháp xử phạt nghiêm khắc. Chính phủ ở Bắc kinh đã áp dụng chính sách này sau nhiều thập niên dân số tăng mạnh dưới thời Mao Trạch Đông, dựa theo chủ trương gọi là ‘người đông dễ làm việc’. Sau gần 30 năm áp dụng, chính sách đã đem lại nhiều kết quả thành tựu không thể phủ nhận. Chính phủ Trung Quốc cho rằng việc áp dụng chính sách này đã giúp quốc gia đông dân nhất thế giới này có được tình trạng tương đối phồn vinh, thịnh vượng ngày hôm nay.Cũng theo ước tính của các chuyên gia dân số Bắc Kinh nếu không có chính sách này dân số Trung Quốc hiện nay sẽ ở mức 1 tỉ 700 triệu người thay vì 1 tỉ 300 triệu người như hiện nay. Kết quả của chính sách này đem lại là hiện nay Trung Quốc là quốc gia có đà tăng trưởng dân số thấp nhất trong thế giới đang phát triển là 6 phần 10 của 1% mỗi năm. Từ khi thực hiện chính sách tỉ lệ tăng dân số đã giảm đáng kể từ 1,439% năm 1990 xuống còn 0,601% năm 2003. Năm Tỉ suất sinh () Tỉ suất tử () Tỉ suất gia tăng dân số ( % ) 1970 33 15 1,8 1990 18 7 1,1 2005 12 6 0,6 Bảng tỉ suất gia tăng tự nhiên của Trung Quốc Tỉ lệ sinh đã giảm 4% từ 5,8 % năm 1970 xuống chỉ còn 1,8 % như hiện nay. Đặc biệt trong 20 năm đầu thực hiện chính sách từ năm 1970 đến năm 1990 tỉ lệ sinh đã giảm 2,754 lần. Đó quả là những thành công to lớn mà chính sách đã đem lại. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Chính phủ, Trung Quốc đang nỗ lực lớn hơn nữa nhằm ngăn chặn sự bùng nổ dân số; duy trì tỷ lệ sinh thấp sẽ là ưu tiên hàng đầu của đất nước trong 4 năm tới. Chính phủ dự định sẽ hạn chế dân số ở đại lục dưới 1,36 tỷ vào năm 2010 và dưới 1,45 tỷ năm 2020. Bên cạnh những thành công đó chính sách một con cũng đem lại những hậu quả đáng lo ngại cho Trung Quốc. Đó là các vấn đề liên quan đến giá trị đạo đức, các tội ác nhân loại nghiêm trọng, mất cân bằng về tỉ lệ giới tính… 1.2 Những hậu quả của việc thực hiện chính sách một con : Việc quy định mỗi cặp gia đình chỉ được phép sinh một con đã gây ra tình trạng phần lớn các hộ gia đình đều chỉ mong đứa con duy nhất sinh ra là con trai. Tương tự như nhiều quốc gia ở châu Á, vấn đề nối dõi tông đường và quan niệm trọng nam khinh nữ vẫn còn khá phổ biến ở Trung quốc. Vì vậy, chính sách một con đã mang lại một hậu quả vô cùng tàn khốc, có rất nhiều phụ nữ Trung quốc đã phá thai khi biết được họ sắp sinh con gái. Nhiều bậc cha mẹ còn đang tâm chọn giải pháp giết hại trẻ sơ sinh khi con sinh ra là gái. Cũng không ít gia đình lại chọn giải pháp bỏ rơi đứa con mới sinh ra khiến các em trở thành trẻ mồ côi. Một thời gian ở Trung quốc diễn ra liên tục các vụ mất tích của những bé gái mà không rõ nguyên nhân. Nguyên nhân của việc làm này là xuất phát từ tâm lí các cặp vợ chồng mong sinh được con trai để có người nối dõi tông đường, chăm sóc, phụng dưỡng mình về già.Trong những năm gần đây, giới chức trách đã áp dụng lệnh cấm xét nghiệm giới tính của thai nhi để tìm cách ngăn chận tệ nạn này, nhưng theo các nhà quan sát, biện pháp này không mang lại hiệu quả nào. Chính từ những tư tưởng bảo thủ cổ hủ như vậy là nguyên nhân trực tiếp gây ra những tội ác xã hội nghiêm trọng. Đó là những việc làm, những tội ác nghiêm trọng làm suy đồi đạo đức con người. Hậu quả của tư tưởng trọng nam khinh nữ như trên là hiện nay dân số Trung Quốc đang mất cân bằng nghiêm trọng. Việc dân số mất cân bằng về giới tính càng làm cho bài toán dân số Trung Quốc càng trở nên nan giải hơn. Theo con số thống kê của chính phủ cho thấy tỉ lệ bé trai so với bé gái ở nước này là 119/100. Hiệp hội kế hoạch hóa gia đình nước này cho biết tình trạng chênh lệch hiện nghiêm trọng tới mức một số thành phố có tỉ lệ lên tới 160 bé nam/100 bé nữ Các chuyên gia nghiên cứu về dân số cũng dự báo thêm rằng tình trạng nam thừa nữ thiếu sẽ lên cao đỉnh điểm vào năm 2020, và lúc đó sẽ có tới 40 triệu người đàn ông Trung Quốc sẽ phải sống trong tình trạng độc thân. Chính từ việc mất cân bằng giới tính như trên đã gây ra những hậu quả xã hội nghiêm trọng không lường trước được. Một số tin rằng khi hàng triệu đàn ông nước này không thể tìm được vợ, sẽ dẫn đến các hành vi bạo lực và phản xã hội. Đây chính là nguyên nhân chính giải thích cho tệ nạn buôn bán phụ nữ sang Trung Quốc biến nước này thành quốc gia có thị trường buôn bán phụ nữ lớn nhất thế giới. Gần đây các giới chức Hoa Kỳ đã bày tỏ lo ngại về ảnh hưởng tiêu cực của chính sách kế hoạch hóa gia đình ở Trung Quốc đối với những nỗ lực quốc tế nhằm bài trừ tệ nạn buôn người. Theo số liệu điều tra của tổ chức dân số thế giới cho biết trong tổng số khoảng 600 tới 800 ngàn người bị mua bán ra nước ngoài trên toàn thế giới thì đã có tới 250 ngàn người là nạn nhân ở Trung Quốc. Các chuyên gia Trung Quốc học cũng cho biết nhiều phụ nữ ở các nước láng giềng của Trung Quốc như Bắc Triều Tiên, Việt Nam…đã bị lừa bán sang Trung Quốc để phục vụ tại những địa điểm bán dâm hoặc bị mang đi gạ bán trong những vụ hôn nhân cưỡng bách. Một trong những hậu quả không thể không kể đến của chính sách một con đó chính những quy định khắt khe cung mức tiền phạt quá cao dẫn tới tình trạng tán gia bại sản của những cặp vợ chồng trót vi phạm. Khi có một đứa con nằm ngoài kế hoạch của chính phủ người dân sẽ phải đóng góp một khoản tiền phạt gấp 10 lần khoản tiền lương hàng năm của cả hai vợ chồng.Tuy nhiên cũng có những người sẵn sàng đóng khoản tiền 150000 nhân dân tệ phạt tương ứng với khoảng 18700 đô la gấp 20 lần thu nhập bình quân đầu người để có thể sinh thêm một đứa con là dấu hiệu mới nhất cho thấy sự chênh lệch giàu nghèo quá độ ở Trung Quốc hiện nay. Chính sách một con còn tạo ra những vấn đề nghiêm trọng về giáo dục, xã hội, kinh tế.Theo các chuyên gia xã hội, nhiều cặp vợ chồng ở Trung Quốc đã nuông chiều quá độ đứa con duy nhất của họ. Điều này khiến cho nhiều đứa trẻ thuộc thế hệ mới hay thường được gọi là “tiểu hoàng đế”,dễ lâm vào tình trạng hư đốn.Chính sự nuông chiều quá mức này đã làm cho nhiều thanh niên trẻ ỷ lại vào gia đình,chơi bời lêu lổng, lười lao động gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội Trung Quốc hiện đại Việc mỗi gia đình chỉ có một con, đứa trẻ không có anh chị em và đặc biệt trong lối sống hiện nay cha mẹ ít có thời gian quan tâm đến con cái làm cho những đứa trẻ thiếu khả năng giao tiếp xã hội, thiếu những kĩ năng cần thiết để làm việc chung với người khác. Đây sẽ là một hạn chế lớn cho thế hệ lao động tương lai của Trung Quốc. Như ta đã biết Trung Quốc có một lực lượng lao động dồi dào đây chính là một trong những tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế Trung Quốc. Nhiều thập kỷ trở lại đây, quốc gia đông dân nhất hành tinh này vẫn được coi là thị trường lao động dồi dào và giá rẻ hàng đầu thế giới với hàng triệu nhân công trẻ từ các vùng nông thôn. Lợi thế đó đã và đang tạo cho Trung Quốc thế mạnh trong phát triển kinh tế “nóng”, Tuy nhiên việc thực hiện chính sách một con sẽ làm cho lực lượng lao động trong tương lai của quốc gia này giảm sút đáng kể nếu không muốn nói là thiếu. Lực lượng lao động bị thu hẹp sẽ là một tai họa đối với nền kinh tế Trung Quốc. Trước đây tỉ lệ người lao động so với người về hưu là 10/1 vào năm 1990 thì nay con số đó đã giảm nhanh chóng xuống còn 6/1 vào năm 2000 và dự báo trong tương con số này sẽ là 2/1 vào năm 2040 Một hậu quả nữa do thi hành chính sách một con đó là việc gây áp lực ngày càng nặng nề hơn cho giới trẻ. Những cặp vợ chồng trẻ hiện nay đang phải đối mặt với hiện tượng 8-4-2-1, tức là họ sẽ phải chăm sóc, phụng dưỡng 4 cha mẹ và 8 ông bà và một đứa con. Thực trạng này đã gây sức ép rất lớn nên vai những người trẻ tuổi, ngoài sức ép căng thẳng của công việc thì giờ họ lại phải chịu thêm gánh nặng gia đình. Để ngăn chặn nguy cơ này chính phủ Trung Quốc cũng đã có những biện pháp nới lỏng dần dần chính sách một con. Các hộ gia đình nông thôn, nếu đã có một con đầu lòng là gái, có thể được sinh thêm một con nữa. Từ năm 2000, những cặp vợ chồng nào đều là con một có thể được đẻ hai con. Nhưng nới lỏng cũng chẳng phải dễ thực hiện, ở các thành phố lớn, nhiều người trẻ chỉ muốn có một hoặc thậm chí không có con, theo mốt "nhân đôi thu nhập, không sinh con". Chính sách một con của Trung Quốc hiện đang là bài toán nan giải đối với những nhà hoạch định dân số. 2. Nguy cơ dân số già : 2.1 Thực trạng : Trên thực tế, Trung Quốc đã trở thành một nước có dân số già từ năm 1999, và xu thế đó không thể đảo ngược trong thế kỷ này. Số người trẻ ngày càng ít đi trong khi số người già tăng lên khiến cấu trúc tuổi của dân số Trung quốc sẽ giống như hình kim tự tháp ngược. Thật sự, khuynh hướng già hóa dân số ở Trung Quốc đã và đang đặt ra những thách thức lớn chưa từng có đến xã hội và kinh tế. Sự già hóa ở Trung Quốc đặc trưng bởi tốc độ tăng nhanh, quy mô lớn, và tình trạng người dân sẽ “già trước khi giàu”.Các giới chức dân số cảnh báo nếu không được quan tâm đúng mức thì các vấn đề về tuổi tác sẽ là trở ngại lớn đến tốc độ phát triển kinh tế của quốc gia này. Nguyên nhân chính đặt Trung Quốc trước nguy cơ trên là do những hậu quả chính sách một con và kế hoạch hoá gia đình gắt gao của chính phủ từ năm 1973 mà chúng ta đã đề cập đến ở trên. Trung Quốc hiện đang là nước có tỉ lệ dân số già tăng nhanh hơn bất kì quốc gia nào trên thế giới. Đây là quốc gia có số người già chiếm hơn một nửa tổng số người già tại châu Á. Theo một phân tích của China Business Times, cách đây 35 năm cứ 6 trẻ em có một người già, còn hiện nay tỉ lệ này là 2 người già/1 trẻ em. Điều này cho thấy tốc độ dân số già đi nhanh chóng của Trung Quốc trong những năm gần đây. Biểu đồ thể hiện sự gia tăng nhanh chóng dân số già ở Trung Quốc trong những năm gần đây và dự kiến trong tương lai Theo báo cáo của Ủy ban dân số và kế hoạch gia đình Bản cho biết vào thời điểm năm 2000, Trung Quốc có 124 triệu người có tuổi thọ trung bình cao hơn 60 tuổi, chiếm 9,9% tổng dân số Trung Quốc. Năm 2007 có khoảng 149 triệu người Trung Quốc có tuổi thọ cao hơn 60 tuổi, chiếm 11,3% tổng dân số Trung Quốc. Như vậy sau chưa đầy một thập kỉ tốc độ gia tăng dân số già 0,2%. Bản báo cáo còn đưa ra dự báo vào năm 2020, sẽ có khoảng 234 triệu người dân Trung Quốc sống trên 60 tuổi, chiếm 16% tổng dân số. Và đến năm 2040, con số này sẽ tăng gấp đôi lên tới 430 triệu người, chiếm khoảng 30% dân số cả nước.  Cho đến nay, mức tăng trưởng dân số của quốc gia này đang diễn ra khá chậm, càng có ít trẻ em được sinh ra thì sự hài hoà về độ tuổi dân số sẽ bị thay đổi. ”. Dân số già sẽ kéo theo hàng loạt hệ lụy kinh tế xã hội như thiếu hụt lực lượng lao động, trợ cấp cho người cao tuổi và giá trị gia đình truyền thống bị mai một. 2.2 Tác động tiêu cực : Dân số già cỗi có tác động mạnh tới tăng trưởng kinh tế. Với thực trạng dân số già ngày càng tăng hiện nay đang trở thành gánh nặng lên hệ thống tài chính và bảo hiểm y tế của đất nước. Số người cao tuổi gia tăng khiến cho sức ép chi trả cho hệ thống trợ cấp càng tăng. Hiện tại, GDP trên đầu người vừa tròn 1.000 USD, tương đối thấp so với mức 5.000- 10.000 USD của các nước phát triển tại thời điểm dân số các nước này già đi.Tỉ lệ người lao động so với người về hưu giảm nhanh, từ 13,1:1 vào năm 1980 xuống chỉ còn 3:1 năm 2003 và  ước tính sẽ là 2,5:1 vào năm 2020. Thiếu hụt lực lượng lao động trên dẫn đến nguồn phúc lợi xã hội cũng giảm theo. Do đó sẽ hạn chế khả năng trợ cấp cho dân số già. Theo số liệu thống kê năm 2005, chỉ có 13,4% tổng dân số (khoảng 174 triệu người) nhận được trợ cấp từ hệ thống phúc lợi, thấp hơn nhiều so với mức tối thiểu 20% do Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) yêu cầu. Hầu như toàn bộ người dân nông thôn và người lao động nông thôn di cư tới các thành phố, khoảng 800 triệu người, không có được trợ cấp từ chính phủ. Tăng độ tuổi của về hưu từ 50 lên 55 tuổi (đối với nữ) và từ 55 lên 60 tuổi (đối với nam) cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế là một giải pháp để xoá đi áp lực đáng kể cho hệ thống chi trả lương hưu hiện nay. Nhưng theo nhận định của các chuyên gia an sinh xã hội, tăng tuổi về hưu cũng tạo ra hàng hàng loạt các vấn đề cho chính phủ Trung Quốc. Đối với chính phủ, vấn đề đau đầu nhất của tình trạng dân số già là sức ép chi trả cho quỹ lương hưu ngày càng tăng. Không còn mấy tư tưởng “trẻ cậy cha, già cậy con” nữa. Nhiều cặp vợ chồng thậm chí không sinh con và điều tất yếu là khi về già họ phải trông vào lương hưu và trợ cấp. Như vậy, bài toán của Chính phủ Trung Quốc về vấn đề hỗ trợ người cao tuổi ngày càng khó giải hơn. Thật vậy, có tới hơn nửa số người cao tuổi ở thành thị lựa chọn trợ cấp phúc lợi xã hội  là nguồn thu nhập chính sau khi nghỉ hưu. Còn ở nông thôn con số là 11,8%, cao hơn tỷ lệ năm 2000 là 6,7% của năm 2000. Nhưng chỉ có khoảng 4,8% nhận được trợ cấp từ hệ thống lương hưu đó.  Còn với người dân, khi tuổi thọ trung bình càng gia tăng, tầng lớp những người về hưu sợ đối mặt với quãng thời gian dài đằng đẵng. Họ đang đổ xô đi tìm một công việc mới để lấp đầy thời gian nhàn rỗi và chuẩn bị tốt nhất cho những năm tháng tuổi già. Bên cạnh đó còn diễn ra một thực trạng là số người già tăng lên kéo theo số bệnh nhân mất trí cũng tăng theo. Theo nhận định của các chuyên gia thì hiện nay : “ bệnh mất trí cũng là vấn đề đáng lo ngại vì căn bệnh này đang ngày một phát triển ở Trung Quốc, cùng với các tệ nạn xã hội như AIDS vẫn đang tiếp tục đe dọa cộng đồng” Từ sau khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường, trách nhiệm chu cấp cho người cao tuổi ở Trung Quốc đang được chuyển từ xí nghiệp cho xã hội. Theo các nhà ngiên cứu thì Trung Quốc phải tăng đầu tư vào chất lượng giáo dục để duy trì cạnh tranh và giữ được đà tăng trưởng hiện nay cho đến ít nhất 20 năm tới mới mong đáp ứng được số lương hưu cho người cao tuổi. Đây quả là một nhiệm vụ hết sức khó khăn đặt ra cho các nhà cầm quyền ở Trung Quốc. Hiện nay chính quyền trung ương của Trung Quốc đang tiến hành một chương trình thí điểm ở các vùng nông thôn, trong đó trợ cấp cho mỗi gia đình có cha mẹ trên 60 tuổi nhưng vẫn chỉ có 1 con hoặc có 2 con gái là 50 NDT ( 6 đô la ) một tháng. Số tiền này nhằm làm giảm bớt nhu cầu có nhiều con, do những người dân ở nông thôn thường muồn có nhiều con để sau này có người phụng dưỡng khi về già. Trong khi đó một số thành phố hiện nay ở Trung Quốc đã bắt đầu cho phép sinh thêm con thứ hai tùy thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể, nhất định với mục tiêu làm giảm bớt áp lực của một xã hôi già hóa trong tương lai. 3.Sức ép về việc làm và vấn đề thất nghiệp ở Trung Quốc : Dân số Trung Quốc tăng mạnh trong những năm 1960 và 1970. Chỉ trong vòng 10 năm từ 1964 đến 1974 số công dân của nước này đã tăng với một con số gây sửng sốt 300 triệu người. Điều này đã gây ra những khó khăn nghiêm trọng bởi sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước không thể đáp ứng nổi cho số lượng người tăng nhanh như vậy.Theo báo cáo của Uỷ ban dân số và Kế hoạch gia đình Trung Quốc, trong khoảng ba thập kỉ nữa dân số Trung Quốc sẽ tăng thêm 200 triệu người và đạt tới ngưỡng 1,5 tỉ người vào năm 2033. Theo dự đoán thì dân số của Trung Quốc sẽ đạt 1,36 tỉ người vào năm 2010 và 1,45 tỉ người vào năm 2020, trong đó sẽ có gần 1,01 tỉ người trong độ tuổi lao động cao hơn so với tất cả các nước phát triển gộp lại. Những sinh viên Trung Quốc hiện nay đang phải chịu một áp lức rất lớn. Họ tự đề ra cho mình một chương trình học hết sức nặng nề, để có thể đạt được bằng cấp cao. Bởi để kiếm được một công việc trong tương lai là vô cùng khó khăn. Họ phải cạnh tranh hết sức khốc liệt mới mong có được một công việc. Năm 2006 Trung Quốc có 4,13 triệu sinh viên tốt nghiệp đại học nhưng 30% trong số đó vẫn đang thất nghiệp. Tỉ lệ thất ghiệp cũng ở mức rất cao trong số những người không tốt nghiệp đại học. Cùng với sự gia tăng của dân số thì tỉ lệ người thất nghiệp cũng ngày càng gia tăng. Hàng năm có thêm hàng triệu người không có việc làm. Số người thất nghiệp ngày càng nhiều trong khi những nỗ lực tạo thêm việc làm cho người dân của chính quyền chỉ đem lại kết quả không đang kể. Số người không có việc làm ngày càng tăng lên chính là nguyên nhân làm cho các tệ nạn xã hội như : trộm cắp, cướp giật, cờ bạc…cũng ngày càng gia tăng. Làm cho đời sống xã hội bất ổn định, đạo đức suy thoái. Có một thực trạng đang xảy ra với những người chuẩn bị hoặc mới về hưu của Trung Quốc là : họ đổ xô đi tìm việc làm, tại một thị trường lao động mà tỉ lệ thất nghiệp hiện ở mức rất cao. Trong khi ở các nước phát triển phương tây làm việc sau khi quá độ tuổi lao động được xem như là một cơ hội dể thỏa mãn những tham vọng lâu dài thì đối với một số đông người ở Trung Quốc việc tìm kiếm công việc làm thêm được trả lương trong vòng một hoặc hai thập kỉ nữa là vấn đề mang tính chất sống còn. Một thực tế đáng buồn là khi bước sang tuổi 50, cái tuổi mà đang lẽ ra con người ta phải được nghỉ ngơi quây quần bên con cháu thì giờ đây hàng triệu người già ở Trung Quốc lại phải bắt đầu tìm một công việc mới. Việc giải quyết nạn thất nghiệp cho những người trong độ tuổi lao động đã là bài toán chưa tìm được lời giải, thì giờ đây nó lại càng đi vào thế bế tắc. 4. Vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, thiếu hụt tài nguyên ở Trung Quốc: Không thể phủ nhận cùng với nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, điều kiện sống của nguời dân Trung Quốc đang có những tiến triển tích cực. Các nhà máy, coong trình xây dựng, các khu chế suất được xây dựng ngày càng nhiều. Kinh tế Trung Quốc đã có những bước nhảy vọt đáng kển hưng cái giá phải trả của nó cũng không hề nhỏ. Trung Quốc hiện đang phải đứng trước những vấn đề về ô nhiễm nguồn nước, biến đổi khí hậu, nhiều loại động vật quý hiếm bị đe dọa…Không những vậy vấn đề dân số quá đông cũng đặt ra vấn đề thiếu hụt lương thực ở quốc gia đông dân nhất thế giới này. Trung Quốc có thể sẽ phải đối mặt với nạn ô nhiễm nước trầm trọng trong 25 năm tới do nước này hiện nay chỉ quan tâm tới tốc độ phát triển kinh tế mà không bảo vệ môi trường. 4.1 Đáp ứng nhu cầu lương thực khổng lồ và những hậu quả tất yếu của nó: Với dân số đông đúc 1,3 tỉ người, người dân Trung Quốc có một nhu cầu khổng lồ về lương thực, thực phẩm trong khi diện tích đất canh tác đã giảm đi đáng kể. Trong vòng 50 năm trở lại đây, diện tích canh tác sinh sống của cư dân Trung Quốc đã giảm đi một nửa, trong khi dân số lại tăng lên gấp đôi. Sa mạc đang ăn dần đất liền, càng ngày càng lớn. Đáng nói là điều này không chỉ xảy ra ở những nơi khô cằn mà nó còn tác động trực tiếp tới các khu vực đông dân. Việc canh tác đất nông nghiệp bất hợp lý, làm đường giao thông, xây dựng cảng biển, và lấy đất xây dựng đô thị bằng cách lấy đẩt lấp khô đầm lầy lại càng đẩy nhanh quá trình hoang mạc hoá. Gần 1/3 đất nông nghiệp bị cạn kiệt chất dinh dưỡng vì phong hóa và thâm canh quá mức. Theo Cục bảo vệ môi trường TQ, diện tích sa mạc hiện đã là 2,4 triệu km2 và đang tăng với tốc độ 3000 km2 /năm. Do hiện tượng sa mạc hoá, bão cát ngày càng xuất hiện nhiều hơn và mạnh hơn. Những cơn gió mùa xuân thổi qua các sa mạc của Mông Cổ và TQ, tạo ra các đám mây cát bụi khổng lồ di chuyển qua cả châu Á và thế giới. Nồng độ bụi cao trong không khí gây ra những nguy cơ nghiêm trọng cho sức khỏe và môi trường. Các cơn bão bụi cũng làm phong hóa lớp đất bề mặt, lấy mất chất dinh dưỡng, ngăn cản ánh nắng Mặt Trời chiếu xuống cây trồng và gây ra những hiện tượng thời tiết bất thường. Hiện tượng phong hóa đất làm cho các tác động của lụt lội càng trở nên nặng hơn. Năm 1998, các bờ sông bị phong hóa đã làm cho trận lụt ở sông Giang Tử trở thành một thảm họa với hàng nghìn người chết, hàng triệu người bị mất nhà cửa. Nhu cầu về nguồn nước tăng mạnh nên các hồ chứa nước ở Trung Quốc bị rút cạn nhanh chóng, lượng mưa lại không ổn định. Trung Quốc đang phải gánh chịu tình trạng khô hạn và lũ lụt chưa từng thấy ở nhiều vùng khác nhau trong cả nước 4.2 Ô nhiễm môi trường nghiêm trọng : Từng giờ từng phút hiện nay người dân Trung Quốc đang phải đối mặt với việc không có nước sạch để sử dụng cùng với việc phải thở trong một bầu không khí bị ô nhiễm nặng nề. Chính phủ Trung Quốc đã phải chi nhiều khoản tiền cho việc cải thiện môi trường. Theo số liệu thống kê của Trung Quốc, trong số 300 triệu người, chủ yếu tại các vùng nông thôn, 63 triệu người phải sử dụng nước có hàm lượng flo cao, 2 triệu người sử dụng nước có độc tố arsen, 38 triệu người sử dụng nước đắng và mặn, 190 triệu người sử dụng nước có hàm lượng chất gây hại cao.. Hầu như tất cả các dòng sông của quốc gia này đều bị ô nhiễm ở các mức độ khác nhau, và một nửa dân số thiếu nước sạch. Theo một cuộc khảo sát gần đây, khoảng 90% các thành phố Trung Quốc có sử dụng nước ngầm cũng bị nhiễm bẩn. Hiện có khoảng 400 trong số 660 thành phố của Trung Quốc thiếu nước sinh hoạt, trong đó, 136 thành phố khác gặp tình trạng thiếu nước nghiêm trọng.Khan hiếm nước cũng là một vấn đề. Thêm vào đó mưa a-xít đã đổ xuống 1/3 lãnh thổ Trung Quốc, một nửa lượng nước tại 7 con sông lớn hoàn toàn không thể sử dụng, trong khi 1/4 dân số không được tiếp cận với nước sạch, 1/3 dân cư đô thị phải hít thở không khí bị ô nhiễm. Tác dụng phụ tiêu cực của quá trình phát triển công nghiệp nhanh của Trung Quốc là sự tình trạng gia tăng ô nhiễm. Một báo cáo năm 1998 của Tổ chức Y tế Thế giới về chất lượng không khí ở 272 thành phố trên thế giới đã kết luận rằng 7/10 thành phố ô nhiễm nhất nằm ở Trung Quốc. Theo đánh giá riêng của Trung Quốc, 2/3 trong số 338 thành phố có số liệu về chất lượng không khí được coi là bị ô nhiễm, 2/3 trong số đó ô nhiễm vừa phải hay nghiêm trọng. Các bệnh đường hô hấp và bệnh tim liên quan đến ô nhiễm không khí là những nguyên nhân hàng đầu gây ra tử vong ở Trung Quốc.Chỉ tính riêng ở Bắc Kinh, 70-80% các ca ung thư phổi đều có liên quan đến môi trường. Từ cuối thập niên 1970, những doanh nghiệp hương thôn (TVE), được chính phủ khuyến khích thành lập để thu hút sức lao động nông thôn và hạn chế hiện tượng di dân đến đô thị, đã khiến cho công nghiệp phân tán rộng khắp đất nước TQ. phần lớn chỉ quan tâm đến thị trường và rất ít quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường. Hiện tại, các TVE này đã vượt các nhà máy quốc doanh để trở thành những nguồn gây ô nhiễm công nghiệp hàng đầu của TQ. Hầu hết phế thải của các TVE đều được đổ bỏ một cách bừa bãi, phần lớn là đổ xuống sông. Không ai quan tâm và chi tiền cho việc bảo vệ môi trường. Do thu nhập tăng, trong thời gian 1995 - 2000, nhu cầu xe ôtô của người dân đã tăng 30 %/năm. Hiện nay lượng xe ôtô của Trung Quốc (trung bình 1 xe/ 70 người dân đô thị) còn rất khiêm tốn so với Mỹ (trung bình 1 xe/ 2 người dân đô thị). Nhưng trong những năm tới, tác động của xe ôtô đối với môi trường TQ sẽ tăng mạnh. Hiện tại, khí thải từ ôtô đã là nguồn phát tán NO2 và CO lớn nhất đối với không khí đô thị ở đây. ác số liệu của Ngân hàng Thế giới cho thấy nạn ô nhiễm môi trường đang khiến cho Trung quốc thiệt hại hơn 5

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12370.doc
Tài liệu liên quan