Đề tài Tác động của gia nhập WTO đối với thương mại mặt hàng thủy sản Việt Nam sang thị trường Mỹ

MỤC LỤC

 

TÓM LƯỢC

DANH MỤC BẢNG BIỂU

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA

GIA NHẬP WTO ĐỐI VỚI THƯƠNG MẠI HÀNG THỦY SẢN

CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 1

1.1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài 1

1.2. Các câu hỏi đặt ra trong nghiên cứu 2

1.3. Mục đích nghiên cứu của đề tài 2

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3

1.5. Kết cấu đề tài 3

CHƯƠNG II:TÓM LƯỢC MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỂ TÁC

ĐỘNG CỦA GIA NHẬP WTO VỚI THƯƠNG MẠI HÀNG THỦY

SẢN VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 4

2.1.Một số lý luận cơ bản về thương mại hàng thủy sản 4

2.1.1. Mặt hàng thủy sản 4

2.1.2. Đặc điểm thương mại hàng thủy sản 5

2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thương mại hàng thủy sản 5

2.1.4. Vai trò của thương mại hàng thủy sản với sự phát triển kinh tế

xã hội Việt Nam 7

2.2. Thị trường nhập khẩu thủy sản Mỹ 10

2.2.1. Đặc điểm nhu cầu thủy sản của thị trường Mỹ 10

2.2.2. Các thể chế của Mỹ đối với thuỷ sản nhập khẩu 11

2.3. Tổng quan tình hình khách thể nghiên cứu ở Việt Nam 13

CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA GIA NHẬP WTO

VỚI THƯƠNG MẠI HÀNG THỦY SẢN VIỆT NAM SANG

THỊ TRƯỜNG MỸ 15

3.1. Phương pháp nghiên cứu 15

3.1.1.Phương pháp thu thập dữ liệu 15

3.1.2.Phương pháp phân tích dữ liệu 15

3.2. Đánh giá khái quát thực trạng thương mại hàng thủy sản Việt Nam

sang thị trường Mỹ 15

3.2.1.Thực trạng thương mại hàng thủy sản Việt Nam sang thị trường

Mỹ trước khi gia nhập WTO (2000 – 2006 ) 15

3.2.2. Đánh giá tác động của gia nhập WTO với thương mại hàng thủy

sản Việt Nam sang thị trường Mỹ 19

CHƯƠNG IV:CÁC KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

THƯƠNG MẠI HÀNG THỦY SẢN VIỆT NAM SANG THỊ

TRƯỜNG MỸ THỜI GIAN TỚI 26

4.1. Các kết luận và phát hiện qua đánh giá tác động của việc gia nhập

WTO với thương mại hàng thủy sản Việt Nam sang thị trường Mỹ 26

4.2. Các dự báo triển vọng thương mại hàng thủy sản Việt Nam sang

thị trường Mỹ thời gian tới 27

4.2.1. Những dự báo 27

4.2.2. Định hướng phát triển thương mại hàng thủy sản giai đoạn

2010 – 2012 28

4.2.3. Định hướng phát triển thương mại hàng thủy sản đến năm 2020 29

4.2.4.Nhiệm vụ để thúc đẩy phát triển thương mại hàng thủy sản Việt

Nam sang thị trường Mỹ trong thời gian tới 31

4.3. Một số giải pháp phát triển thương mại hàng thủy sản Việt Nam sang

thị trường Mỹ 32

4.3.1. Giải pháp về phía chính phủ 32

4.3.2. Giải pháp đối với ngành thủy sản 33

4.3.3. Giải pháp đối với doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản 35

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

doc42 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1855 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của gia nhập WTO đối với thương mại mặt hàng thủy sản Việt Nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gành cá ở Mỹ và từ khi có đạo luật về thị trường nông nghiệp năm 1946, NMFS cung cấp dịch vụ giám định chuyên ngành tự nguyện. Chương trình giám định sản phẩm thuỷ sản của NMFS cung cấp một loạt các dịch vụ giám định chuyên ngành nhằm đảm bảo sự tuân thủ các quy định áp dụng đối với thực phẩm. Hơn nữa, cơ quan này còn cung cấp các dịch vụ chứng thực, phân loại và đánh giá chất lượng sản phẩm. Ngoài ra còn có các quy định khác liên quan đến hàng thuỷ sản nhập khẩu: - Luật thực phẩm: Các thực phẩm nhập khẩu vào Mỹ không chỉ là đối tượng chịu thuế nhập khẩu mà còn phảI đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng và phẩm cấp để đảm bảo cung cấp thực phẩm an toàn. - Đạo luật chống khủng bố sinh học năm 2002 (BTA). Việc ban hành đạo luật này tạo điều kiện cho FDA phản ứng nhanh chóng trước các nguy cơ khủng bố và ra các báo hiệu khẩn cấp liên quan đến việc cung cấp thực phẩm. Đạo luật này quy định rằng FDA và Hải quan cửa khẩu (CBP) có thể cấm nhập các thực phẩm nhập khẩu không đăng ký theo quy định và các sản phẩm không có đủ những thông tin cần thiết. FDA và CBP đã ban hành hướng dẫn thực hiện trong đó giải thích các cơ quan chức năng làm thế nào để thực thi các quy định này. Theo bản hướng dẫn, trong tám tháng đầu thực hiện, các cơ quan chức năng tập trung vào việc đào tạo hướng dẫn cho các bên có liên quan thay vì từ chối tiếp nhận các lô hàng không đạt yêu cầu. Đạo luật bắt đầu có hiệu lực từ 12/8/2004 và được áp dụng rộng rãi - Luật về nhãn hiệu hàng hóa ở Mỹ tồn tại nhiều quy định do các cơ quan chức năng khác nhau ban hành nhằm bảo vệ lợi ích của các chủ sở hữu về nhãn hiệu, tên thương mại, tác quyền và sáng chế. Đạo luật về Nhãn hiệu năm 1946 cấm nhập khẩu những sản phẩm làm nhái theo những thương hiệu đã được đăng ký tại Hoa kỳ, hoặc gây tương tự đến mức gây nhầm lẫn. Đạo luật Thuế quan năm 1930 cho phép các cơ quan hảI quan Mỹ cấm nhập các sản phẩm từ nước ngoàI mang nhãn hiệu đã đựơc các tổ chức, công dân Mỹ đăng ký tại Hoa kỳ. Các quy định của Mỹ cũng cho phép các chủ sở hữu những đối tượng như nhãn hiệu hàng hóa và tác giả nộp đơn xin bảo hộ tại cơ quan có thẩm quyền và nộp phí đăng ký theo quy định. - Hệ thống đăng ký quốc gia Hoa kỳ. Có hai đạo luật quy định về chức năng cơ bản của hệ thống đăng ký quốc gia và phạm vi ban hành các quy phạm pháp luật liên quan là Đạo luật về đăng ký toàn liên bang và Đạo luật về các thủ tục hành chính. Đạo luật về về các thủ tục hành chính ban hành năm 1934 thiết lập một hệ thống đồng bộ các quy định cho các cơ quan quản lý hành chính, còn Đạo luật đăng ký toàn liên bang ban hành năm 1946 đã bổ sung những yêu cầu quan trọng áp dụng cho Hệ thống đăng ký liên bang. - Các yêu cầu về dán nhãn hàng hóa. Về nguyên tắc, tất cả các sản phẩm phải được kiểm tra và dán nhãn đáp ứng các quy định và điều luật tương thích. Theo Đạo luật về Thực phẩm, Dược phẩm và Mỹ phẩm toàn liên bang (FD&C Act), mỗi nhãn hiệu thực phẩm phải chứa đựng các thông tin cụ thể, dễ nhận biết mà các khách hàng bình thường cũng có thể đọc và hiểu theo những điều kiện thông thường khi mua và sử dụng. Tất cả các thực phẩm phải có nhãn hiệu bằng tiếng Anh, chứa đựng các thông tin về thành phần, dinh dưỡng, cách sử dụng, giá trị chuẩn khi sử dụng hàng ngày, nước xuất xứ, tên và địa chỉ của nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu v.v… bằng tiếng Anh. - Các quy định về phụ gia thực phẩm. Các phụ gia thực phẩm phải được kiểm duyệt trước khi đưa ra thị trường. Trước khi chào bán một loại thực phẩm hoặc phụ gia tạo màu vào thị trường Mỹ, nhà sản xuất phải nộp đơn yêu cầu lên FDA để được phê duyệt. Một đơn xin phê duyệt về thực phẩm hoặc phụ gia tạo màu phải có các bằng chứng thuyết phục rằng chất phụ gia đó thực sự có tác dụng như dự kiến. FDA sau đó dựa trên cơ sở tiến bộ khoa học hiện có sẽ quyết định chuẩn thuận nếu chất phụ gia đó an toàn theo các điều kiện sử dụng đã được đề xuất. 2.3. Tổng quan tình hình khách thể nghiên cứu ở Việt Nam. - Cục Hải quan Mỹ là một cơ quan trực thuộc Bộ tài chính Mỹ chịu trách nhiệm đánh giá và thu thuế nhập khẩu, kiểm soát hàng hoá, con người và các đối tượng nhập vào hoặc xuất ra khỏi nước Mỹ. - Cơ quan thuỷ, hải sản quốc gia Mỹ (NMFS) trực thuộc Vụ Hải dương quốc gia, Bộ Thương mại Mỹ. Các sản phẩm hải sản nhập khẩu phải đáp ứng các yêu cầu của cơ quan này và của cả Cơ quan thực phẩm và dược phẩm Mỹ. NMFS quản lý Vấn đề xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ là một vấn đề không mới bởi từ trước đến nay đã có nhiều tác giả đã nghiên cứu về vấn đề này, đơn cử một số công trình đã nghiên cứu sau: - “Phương hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủy sản của ngành thủy sản Việt Nam sang Mỹ”. Đề tài này đi sâu vào việc tìm ra các giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn mà ngành thủy sản của Việt Nam đang gặp phải và vạch ra những phương hướng mà nhập khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ sẽ đi theo trong tương lai nhằm phát triển ngành thủy sản nước nhà nói riêng và phát triển nền kinh tế của Việt Nam nói chung. - “Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ trong những năm qua” (TS.Trần Văn Nam – Đại học KTQD). Đề tài này tập trung phân tích và nêu rõ thực trạng về sản xuất nuôi trồng và đánh bắt thủy sản của Việt Nam, tình hình xuất khẩu chung của thủy sản Việt Nam và xuất khẩu vào thị trường Mỹ trong những năm vừa qua. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu thủy sản sang thị trường Mỹ. - “Hàng rào thương mại Mỹ đối với thủy sản nhập khẩu từ Việt Nam”. Đề tài này đi nghiên cứu về các thể chế, các quy định của thế giới cũng như của nước Mỹ về các mặt hàng nhập khẩu nói chung và về mặt hàng thủy sản từ Việt Nam nói riêng. Từ đó đưa ra các khuyến nghị đối với việc xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Mỹ. - “ Những khuyến nghị và phương hướng xuất khẩu thủy sản thời gian tới và các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản”. Đề tài này đưa ra các phương hướng xuất khẩu thủy sản trong những năm tới của Việt Nam nhằm thúc đẩy ngành thủy sản trong nước phát triển. Tuy nhiên nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ nghiên cứu xem xét tác động của việc gia nhập WTO đối với thương mại hàng thủy sản sang thị trường Mỹ thì chưa có tác giả nào nghiên cứu. CHƯƠNG III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA GIA NHẬP WTO VỚI THƯƠNG MẠI HÀNG THỦY SẢN VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 3.1. Phương pháp nghiên cứu. 3.1.1. Phương pháp thu thập dữ liệu - Thu thập qua những đánh giá của các chuyên gia Từ những đánh giá của các chuyên gia chúng ta có thể thấy được phần nào tình hình hiện tại: Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Mỹ đang diễn ra như thế nào? Đã đạt được những thành tựu gì? Gặp phải khó khăn gì? Và dự báo trong tương lai xuất khẩu sang thị trường Mỹ sẽ có những cơ hội và thách thức nào? … - Phương pháp thu thập dữ liệu qua các nguồn thứ cấp Thông tin được thu thập qua các tài liệu, sổ sách hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như ti vi, báo, đài, internet… để làm rõ hơn thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản và những tác động tích cực và tiêu cực của việc gia nhập WTO với thương mại hàng thủy sản Việt Nam sang thị trường Mỹ. 3.1.2. Phương pháp phân tích dữ liệu. Phương pháp này được tác giả sử dụng trong mục nghiên cứu thực trạng, để so sánh: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang Mỹ trong các năm, kim ngạch xuất khẩu thủy sản với tổng kim ngạch xuất khẩu trong cả nước, thực trạng xuất khẩu thủy sản sang Mỹ trước khi gia nhập WTO và sau khi gia nhập WTO… Từ đó ta thấy được sự thay đổi về quy mô, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Mỹ qua các năm, trước và sau khi VIệt Nam gia nhập WTO; đánh giá được chất lượng phát triển xuất khẩu của ngành thủy sản… - Cụ thể là phần 3.2 và 4.1 của đề tài. 3.2. Đánh giá khái quát thực trạng thương mại hàng thủy sản Việt Nam sang thị trường Mỹ 3.2.1. Thực trạng thương mại hàng thủy sản Việt Nam sang thị trường Mỹ trước khi gia nhập WTO (2000 – 2006 ) Giai đoạn từ năm 2000 – 2006 kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ không ngừng tăng lên qua các năm. + Về quy mô: Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Mỹ thời gian từ năm 2001 - 2006 đã đạt được những thành tích rất ấn tượng và được xác định là một thế mạnh của Việt Nam trên con đường hội nhập đầy đủ và sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang Mỹ 2000-2006 Đơn vị: Tỷ USD Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 KNXK 1,47 1,8 2 2,2 2,4 2,7 3,36 Nguồn: Bộ thủy sản Trong các năm 2001 - 2003, thuỷ sản xuất khẩu vào thị trường Mỹ chiếm tỷ trọng lớn nhất. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt hơn 3,36 tỷ USD, vượt hơn 400 triệu USD so kế hoạch năm; tổng sản lượng thuỷ sản ước đạt hơn 3,7 triệu tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng chiếm hơn 1,7 triệu tấn. Thuỷ sản đứng thứ 4 trong số 9 mặt hàng có mặt ở câu lạc bộ 1 tỷ USD của Việt Nam. Theo thống kê của bộ thủy sản doanh thu xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Mỹ trong giai đoạn này: Bảng 2: Doanh thu xuất khẩu thủy sản sang Mỹ 2001-2006 Đơn vị: Tỷ USD Năm Doanh thu (sang Mỹ) 2001 489,03 2002 654,98 2003 777,66 2004 565,81 2006 667,15 Nguồn: Bộ thủy sản Năm 2001, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Mỹ bị suy giảm do ảnh hưởng từ vụ kiện bán phá giá cá tra, ba sa và tôm sú. Các năm 2001- 2003 thủy sản xuất khẩu vào Mỹ chiếm tỷ trọng lớn nhất, nhưng năm 2004 do tác động tiêu cực của vụ kiện bán phá giá tôm vào thị trường Mỹ nên giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào Mỹ đã lùi xuống vị trí thứ hai (24,1%). Khối lượng và giá trị kim ngạch thủy sản xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm 2003, khối lượng đạt 79.265 tấn (giảm 30%), giá trị đạt 522.542.000 USD (giảm 27,7%). Trong tháng 1/2005 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ đứng thứ 4 thế giới, đạt 72 triệu USD, chiếm 7,2% tổng số kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ là 994 triệu USD. Sau một thời gian gặp khó khăn do ảnh hưởng của vụ kiện bán phá giá tôm,nên xuất khẩu thủy sản sang Mỹ cũng gặp ít khó khăn nhưng sau đó khối lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản năm 2005 của Việt Nam sang Mỹ đang có dấu hiệu phục hồi. Mặc dù Mỹ luôn sử dụng các rào cản thương mại để bảo hộ sản xuất trong nước, nhưng vẫn là thị trường lớn, hấp dẫn, giá bán thường ổn định hơn các thị trường khác, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản vẫn rất quan tâm và tiếp tục mở rộng thị trường Mỹ. + Về cơ cấu các mặt hàng thủy sản: Việt Nam có lợi thế về chủng loại các mặt hàng thủy sản, do đó Việt Nam có điều kiện tốt để đáp ứng nhu cầu đa dạng về chủng loại thủy sản của Mỹ. Mặt hàng thủy sản của Việt Nam rất đa dạng, do đó Việt Nam xuất khẩu thủy sản sang các thị trường không chỉ với số lượng lớn mà còn phong phú về chủng loại. Các loại mặt hàng được người dân Mỹ ưa chuộng nhất là tôm sú, tôm chân trắng, cá ngừ, cá basa, cá hồi, mực… trong đó những mặt hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chiếm tỷ trọng lớn nhất là tôm và cá. Bảng 3: Mặt hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ 2000-2004 Đơn vị: Nghìn USD Mặt hàng 2000 2001 2002 2003 2004 Tôm nước lợ 185,12 308,70 368,62 468,93 277,45 Cá sống 175 216 201 271 357 Cá sấy khô, ướp muối, hun khói… 374 596 722 1005 3549 Hải sản thân mềm, nhuyễn thể 8,17 6,16 5,82 7,44 6,18 Cá đông lạnh (không bao gồm cá file hoặc cá thịt khác) 6,8 10,22 9,23 10,70 14,71 Cá tươi ( không bao gồm cá file hoặc cá thịt khác) 9,59 16,64 24,67 23,66 25,38 Cá file và cá thịt khác tươi hoặc đông lạnh. 32,61 41,72 69,17 56,45 78,36 Nguồn: Bộ thương mại Hoa Kỳ Năm 2000 cơ cấu thị trường nhập khẩu Hoa Kỳ có sự điều chỉnh mạnh và Việt Nam đã nắm cơ hội chen chân vào thị trường rộng lớn này. Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Mỹ tăng đột ngột lên 2,14 lần so với năm 1999 và là mức tăng nhanah nhất trong số các quốc gia xuất khẩu thủy sản vào Mỹ. trong các mặt hàng thủy sản Việt Nam xuất sang Mỹ, tôm chiếm tỷ trọng chính là 74 % tổng giá trị hàng xuất khẩu. Việt Nam vươn lên vị trí thứ 4 về giá trị xuất khẩu tôm sang Mỹ. Cá tra, basa, philê đông lạnh là các mặt hàn độc đáo của Việt Nam tại Mỹ. Năm 2001, Việt Nam xuất khẩu snag Mỹ với khối lượng 70.930 tấn thủy sản các loại trị giá 489,03 triệu USD. Năm 2002 khối lượng hàng xuất khẩu tăng lên 96.664 tấn, đạt 654,98 triệu USD, chiếm 32,4 % tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thủy sản ( kể cả chế biến ) đạt 777.66 triệu USD, tiếp tục xếp thứ hai sau hàng dệt may trong bảng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, chiếm 35,3 % tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Trong nhóm hàng thủy sản tôm đông lạnh đạt kim ngạch 649 triệu USD, chiếm 64 % tổng kim ngạch nhóm hàng thủy sản. Tôm và cua chế biến đạt 162 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu cá file giảm khoảng 19 % so với trước do tác động của thuế chống bán phá giá. Năm 2004, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu vào Mỹ các mặt hàng như mực đông lạnh, bạch tuộc đông lạnh, tôm đông lạnh, cá ngừ, cá đông lạnh, mực khô, cá khô và các mặt hàng với tổng số lượng đạt 91.380,6 tấn, trị giá 602,9 triệu USD. Mỹ chiếm 25,1 % thị phần xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Trong đó tôm đông lạnh đạt 37.060 tấn, trị giá 397 triệu USD, cá đông lạnh đạt 33,680 tấn, trị giá 119 triệu USD. Năm 2005, do tác động đồng thời của việc áp thuế chống bán phá giá cá tra, cá basa philê đông lạnh và tôm đông lạnh, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Mỹ có phần giảm sút, thị trường Mỹ chỉ chiếm 23 % thị phần xuất khẩu của Việt Nam. + Về các thành phần tham gia: Thủy sản là một trong những ngành được xem là có lợi thế của Việt Nam, thương mại hàng thủy sản đem lại nhiều lợi nhuận do đó rất nhiều doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực kinh doanh này. Theo Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thuỷ sản VN (VASEP), hiện hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của VN đã nắm vững những nguyên tắc về đăng ký trực tuyến trên mạng với Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA). Cách đây không lâu, FDA đã thông báo từ ngày 12-12-2003 trở đi, các doanh nghiệp muốn xuất hàng nông sản thực phẩm vào Mỹ phải đăng ký chất lượng nhà máy chế biến, thông báo trước các thông số kỹ thuật về lô hàng xuất khẩu và phải có một đại diện pháp nhân tại Mỹ. Tất cả các quy định này là để tuân thủ Luật bảo vệ sức khoẻ cộng đồng và Phòng chống khủng bố sinh học 2002 của Mỹ. 3.2.2. Đánh giá tác động của gia nhập WTO với thương mại hàng thủy sản Việt Nam sang thị trường Mỹ. a. Tác động tích cực: Thủy sản là một trong những ngành kinh tế đem lại kim ngạch xuất khẩu cao cho Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng bình quân 18%/năm. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hàng thủy sản đã có mặt ở khoảng 160 thị trường trên thế giới. Sau khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), mặt hàng thủy sản càng có điều kiện phát triển thuận lợi hơn, có điều kiện thâm nhập sâu hơn vào thị trường Mỹ. Gia nhập WTO đã giúp cho xuất khẩu thủy sản vào thị trường Mỹ không ngừng tăng lên về quy mô, cơ cấu các mặt hàng thủy sản, thành phần tham gia và cả về hình thức kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam. - Về quy mô: - Năm 2007, việc Việt Nam gia nhập WTO đã tạo thuận lợi để xuất khẩu thủy sản đạt tốc độ tăng trưởng cao khi các doanh nghiệp đã chủ động chuyển hướng thị trường, vừa giữ được thị trường truyền thống, vừa mở rộng phát triển sang các thị trường mới với khoảng 150 quốc gia và vùng lãnh thổ. Càng ngày Mỹ càng trở thành thị trường quan trọng của Việt Nam trong xuất khẩu các mặt hàng thủy sản, nhất là tôm. Hàng năm kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang Mỹ không ngừng tăng lên. - Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, thủy sản xuất khẩu tăng cả về lượng lẫn chất: Năm 2007, sản lượng thủy sản ước đạt 3,9 triệu tấn trong đó khai thác đạt 1, 95 triệu tấn, nuôi trồng 1,95 triệu tấn, với kim ngạch xuất khẩu 3,75 tỷ USD. Sản lượng thủy sản xuất khẩu vào thị trường Mỹ là 740 triệu USD, tăng 11% so với năm 2006. Biểu 1. Kim ngạch xuất khẩu 7 tháng / 2009 và so với cùng kỳ năm 2008 Nguồn: TCTK và Vietstock tổng hợp 7 tháng đầu 2009, kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước đạt 2.17 tỷ USD. Mỹ là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn thứ 2 của Việt Nam, chỉ đứng sau Nhật Bản. Xuất khẩu thủy sản 7 tháng đầu năm của Việt Nam vào Mỹ đạt  380.83 triệu USD, tăng 11.36% và là một trong ít thị trường có kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng. Quy mô xuất khẩu thủy sản tăng thúc đẩy các cơ sở nuôi trồng và chế biến thủy sản cũng mọc lên nhiều hơn và có nhiều công nghệ, khoa học kỹ thuật được ứng dụng nhiều hơn vào các khâu nuôi trồng và chế biến thủy sản, góp phần nâng cao chất lượng, chủng loại thủy sản, từ đó tác động trở lại thúc đẩy quy mô nhập khẩu thủy sản sang thị trường Mỹ ngày càng tăng lên. Gia nhập WTO thì cơ hội cho việc tiếp cận khoa học kỹ thuật tiên tiến từ các nước khác là nhiều hơn, cơ hội học hỏi kinh nghiệm nhiều hơn, do đó ngành thủy sản cũng như các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam có cơ hội để phát triển mặt hàng thủy sản của nước mình và tạo điều kiện cho thương mại hàng thủy sản sang Mỹ ngày càng phát triển hơn. - Về cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu: Số lượng mặt hàng xuất khẩu thủy sản vào Mỹ ngày càng tăng về số lượng và đa dạng hơn về chủng loại. Nhưng trong đó, tôm vẫn là sản phẩm xuất khẩu lớn của Việt Nam vào Mỹ. Phân theo mặt hàng, tôm vẫn là mặt hàng có giá trị lớn nhất trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ, kim ngạch 7 tháng năm 2009 đạt 185 triệu USD chỉ đứng sau thị trường Nhật Bản (242 triệu USD). Tôm xuất khẩu vào Mỹ chiếm 24.5% kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam. Điều này cho thấy Mỹ vẫn là một thị trường quan trọng đối với tôm xuất khẩu của Việt Nam. Trong năm 2008, Việt Nam đứng thứ 4 về xuất khẩu tôm sang Mỹ với 47.900 tấn. Hơn nữa, Việt Nam xuất khẩu rất nhiều loại tôm: tôm tươi, tôm đông, tôm chân trắng…trong đó tôm chân trắng và tôm đông có thị phần nhập vào Mỹ là lớn nhất: năm 2008 Mỹ nhập khẩu tôm trắng là nhiều nhất, chiếm 28 % trên tổng số tôm Mỹ nhập vào từ Việt Nam. Năm 2007 giá trị xuất khẩu tôm đông vào Mỹ là tăng so với giai đoạn từ trước năm 2006: năm 2007 đạt 1387,6 triệu đô la Mỹ, năm 2006 đạt 1262,8 triệu đô la mỹ, năm 2005 đạt 1265,7 đô la Mỹ, năm 2004 đạt 1084,5 triệu đô la Mỹ, năm 2003 đạt 943,6 triệu đô la Mỹ, năm 2002 đạt 717,7 triệu đô la Mỹ. Theo Cục Xúc tiến Thương mại, tôm đông lạnh nhập khẩu được người Mỹ ưa thích cả về hình thức và kích cỡ phổ biến. Người tiêu dùng thường mua tôm với nhiều cỡ khác nhau, thông dụng nhất là cỡ 26-30 con/pound (pound ≈ 0,45 kg) và 36-40 con/pound. Ngoài ra, tôm sú, tôm nâu, tôm hùm cũng là mặt hàng tiêu thụ nhiều ở Hoa Kỳ. Thị trường tôm của Mỹ có xu hướng rất rõ ràng theo yêu cầu về sức khỏe và thuận lợi cho người tiêu dùng. Cũng như thế, người tiêu dùng ngày càng quan tâm nhiều hơn về việc chứng minh nguồn gốc xuất xứ sản phẩm, đảm bảo an toàn, sức khỏe cho người sử dụng và bảo vệ môi trường. Sản phẩm từ cá tra và basa đứng thứ 2 trong số các mặt hàng thủy sản lớn nhất xuất khẩu vào Mỹ. Kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm 2009 đạt 88 triệu USD, chiếm 9.64% giá trị xuất khẩu của mặt hàng này. Kể từ sau vụ kiện chống bán phá giá “Cat fish” ở Mỹ năm 2002 đến nay, kim ngạch xuất khẩu loại cá này không ngừng tăng và thị trường cũng được mở rộng rất nhiều nước. Thị trường Mỹ mặc dù không tăng mạnh như các thị trường khác nhưng vẫn đạt tốc độ tăng khả quan. Đây vẫn là một thị trường lớn cho xuất khẩu cá tra và basa lớn của Việt Nam dù cho tháng 6/2009, Ủy ban thương mại quốc tế Mỹ (ITC) vẫn quyết định duy trì thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm cá tra của Việt Nam. Ngoài tôm, cá tra và basa, các sản phẩm khác như cá ngừ, trứng cá và cua đều đạt kim ngạch trên 10 triệu USD, các sản phẩm còn lại trị giá 53 triệu USD. Biểu 2 Nguồn: Bộ công thương và Vietstock tổng hợp Cũng từ cơ hội học hỏi kinh nghiệm và tiếp cận khoa học kỹ thuật nhiều hơn, giúp cho ngành thủy sản Việt Nam có thể nghiên cứu và lai tạo được nhiều loại giống mới có chất lượng tốt hơn, từ đó giúp cho cơ cấu các mặt hàng thủy sản nhập khẩu sang Mỹ đa dạng hơn, phong phú hơn. - Về thành phần tham gia: Trong thời kỳ mở của hội nhập kinh tế quốc tế, công việc kinh doanh trở nên hấp dẫn hơn, trong đó xuất khẩu thủy sản cũng là một ngành mang lại lợi nhuận đáng kể cho các doanh nghiệp. Nó cũng là một ngành thu hút mọi người tham gia. Kể từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO số lượng các doanh nghiệp tham gia vào thị trường xuất khẩu thủy sản gia tăng đáng kể và uy tín trên thị trường Mỹ của các doanh nghiệp ngày càng được nâng cao: hiện có 6 doanh nghiệp thủy sản Việt Nam được Bộ Thương mại Mỹ công bố không áp thuế chống bán phá giá hoặc có mức thuế rất thấp, gần như bằng 0% Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, 7 tháng đầu năm 2009 có 182 doanh nghiệp của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Công ty TNHH chế biến Thủy sản Minh Phát có kim ngạch lớn nhất và đạt 32 triệu USD, công ty đứng thứ 2 là Hùng Vương Vĩnh Long. Điều đáng chú ý là những công ty đứng đầu trong xuất khẩu thủy sản của Việt Nam như Hùng Vương, Vĩnh Hoàn, Nam Việt hay Minh Phú không phải là những công ty có kim ngạch xuất khẩu lớn vào Mỹ. Trong số 15 công ty thủy sản đang niêm yết trên sàn chỉ có 4 công ty xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Bảng 4 Các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam luôn coi Mỹ là thị trường mục tiêu. Và các doanh ngiệp thủy sản Việt Nam có những nét mới sau: - Các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thuỷ sản rất năng động, thể hiện qua các mặt sau: Thứ nhất là họ chăm lo đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực. Thứ hai, chú ý đổi mới về phương pháp quản lý. Thứ ba, luôn cải tiến công nghệ. Thứ tư, thực hiện tốt việc quản lý tài chính. Thứ năm, do sớm hội nhập nên các doanh nghiệp khá năng động trong việc đáp ứng các yêu cầu của thị trường, cả về công nghệ chế biến cũng như yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. - Tính chuyên nghiệp của các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam ngày càng được nâng cao. Giám đốc cũng như nhân viên kỹ thuật nắm bắt nhanh nhạy công nghệ mới, nắm bắt thông tin thị trường, nghiên cứu phát triển sản phẩm mới và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. - Các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản luôn chủ động tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại do Bộ NN&PTNT và VASEP tổ chức, vì vậy đã chủ động điều tiết và phát triển thị trường, đưa giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản từ Mỹ ngày càng tăng. Họ cũng tích cực nắm bắt các luật lệ, quy định của Mỹ về nhập khẩu thủy sản cũng thông qua các lớp đào tạo, tập huấn hoặc hội thảo. b. Tác động tiêu cực: Gia nhập WTO đã đem lại cho ngành thủy sản Việt Nam nhiều sự thay đổi rõ rệt. Tuy nhiên cái gì cũng có hai mặt của nó, bên cạnh những tác động tích cực thì gia nhập WTO cũng có không ít những ảnh hưởng tiêu cực đến ngành thủy sản và thương mại hàng thủy sản của Việt Nam. - Tác động tích cực của gia nhập WTO là giúp cho quy mô, sản lượng nhập khẩu thủy sản của Việt Nam ngày càng tăng đáng kể, do đó đòi hỏi nguồn cung trong nước phải đảm bảo được số lượng lớn và mang tính chất bền vững. Tuy nhiên hầu hết các cơ sở nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam còn mang tính chất nhỏ, lẻ cho nên việc huy động, tập trung nguồn cung lớn là khó khăn và tốn kém về mặt thời gian và chi phí. - Mặt khác do sản lượng nuôi trồng chưa đủ đáp ứng nguồn cung cho xuất khẩu, do đó sản lượng khai thác từ tự nhiên còn nhiều làm cho nguồn tài nguyên ngày càng khan hiếm. Năm 2009, tổng sản lượng khai thác thủy sản của cả nước ước đạt 2.277 nghìn tấn, tăng 3,5% so với kế hoạch, tăng 6,8% so với năm 2008; trong đó sản lượng khai thác biển đạt 2.068 nghìn tấn, tăng 3,4% so với kế hoạch, tăng 6,8% so với cùng kỳ (sản lượng khai thác nội địa cả năm đạt 209 ngàn tấn). Nếu Việt Nam không có kế hoạch khai thác hợp lý thì ảnh hưởng đến sự phát triển không bền vững của ngành thủy sản Việt Nam. - Trong lúc cạnh tranh Việt Nam bị nhiều doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp thủy sản của Mỹ tố cáo hàng Việt Nam không đạt tiêu chuẩn, do đó Việt Nam lại phải chứng minh hàng của mình là tốt để vượt qua các rào cản. Ông Tom Mazzetta - Chủ tịch Tập đoàn Mazzetta -nói: “Đạo luật Farm Bill đã được thông qua và khi chính thức có hiệu lực thì nhiều khả năng cá tra VN sẽ hết đường vào Mỹ bởi những rào cản kỹ thuật hết sức khắt khe, nhất là phải tuân thủ các điều kiện như phải nuôi ở ao nông, nước giếng khoan, khác hẳn môi trường nuôi trên sông Mê Kông hiện nay ở VN - Xu hướng của thị trường Mỹ là ngày càng đặt ra nhiều quy định về nhập khẩu thủy sản nhằm bảo hộ thị trường trong nước khiến sự cạnh tranh giữa thủy sản Việt Nam và các nhà sản xuất thủy sản Mỹ ngày càng cao hơn, gây nhiều trở ngại cho thương mại hàng thủy sản của Việt Nam vào Mỹ. Mỹ còn đặt ra các quy định về nuôi trồng thủy sản rất khắt khe, đạo luật nông trại của Mỹ (Farm Bill), đạo luật an toàn cho người tiêu dùng của Mỹ, các tiêu chuẩn mà EU đặt ra về hóa chất và an toàn hóa chất, nguồn gốc đánh bắt hải sản, yếu tố bảo vệ môi trường, bảo vệ thiên nhiên... do đó thủy sản Việt Nam càng khó xuất khẩu vào Mỹ hơn. - Trong môi trường hội nhập có rất nhiều các doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài đều muốn xuất khẩu thủy sản vào Mỹ, do vậy môi trường cạnh tranh gay gắt hơn. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt Na

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTác động của gia nhập WTO đối với thương mại mặt hàng thủy sản Việt Nam sang thị trường Mỹ.doc
Tài liệu liên quan