Đề tài Tác động của việc gia nhập wto đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành dệt may

Toàn quốc hiện có khoảng 2.000 DN dệt may với hơn 2 triệu lao động; 25% trong số đó là các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Các DN may hiện nay phần lớn là các DN tư nhân hay Cty cổ phần. Họ thường chú trọng ưu tiên thực hiện các hợp đồng may gia công XK. Nhiều DN chỉ sản xuất các sản phẩm theo đơn đặt hàng từ nước ngoài dưới dạng gia công thuần tuý.

Trong nhiều năm qua ngành dệt may Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tương đối cao - bình quân 20%/năm trong giai đoạn 2000-2005.

 

doc28 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2248 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của việc gia nhập wto đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành dệt may, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp chống Trợ cấp Hiệp định về Tự vệ + Hiệp định về Thủ tục Cấp phép Nhập khẩu + Hiệp định về các Biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch (SPS) + Hiệp định về các Rào cản Kỹ thuật đối với Thương mại (TBT) + Hiệp định về Định giá Hải quan + Hiệp định về Kiểm định Hàng trước khi Vận chuyển + Hiệp định về Xuất xứ Hàng hóa (ROO) + Thỏa thuận về Cơ chế Giải quyết Tranh chấp Một số nguyên tắc của WTO Các hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) rất nhiều và phức tạp bao gồm cả nông nghiệp, dệt may, ngân hàng, viễn thông, nông nghiệp và cả thực phẩm... Tuy nhiên, xuyên suốt các hiệp định này là những nguyên tắc, và chúng được coi là nền tảng của hệ thống thương mại đa phương. a. Thương mại không phân biệt đối xử: thể hiện ở hai nguyên tắc: - Nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc: Tối huệ quốc có nghĩa là “nước (được) ưu đãi nhất”, “nước (được) ưu tiên nhất”. Nội dung của nguyên tắc này được WTO quy định rằng các quốc gia không thể phân biệt đối xử với các đối tác thương mại của mình. Cơ chế hoạt động của nguyên tắc là mỗi thành viên của WTO phải đối xử với các thành viên khác của WTO một cách công bằng như những đối tác “ưu tiên nhất”. Nếu một nước dành cho một đối tác thương mại của mình một hay một số ưu đãi nào đó thì nước này cũng phải đối xử tương tự như vậy đối với tất cả các thành viên còn lại của WTO để tất cả các quốc gia thành viên đều được “ưu tiên nhất”. - Nguyên tắc đối xử quốc gia là đối xử bình đẳng giữa sản phẩm nước ngoài và sản phẩm nội địa. Nội dung của nguyên tắc này là hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa tương tự sản xuất trong nước phải được đối xử công bằng, bình đẳng như nhau. Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này:  Bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới,trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa khẩu, bắt đầu đi vào thị trường nội địa, sẽ được hưởng sự đối xử ngang bằng (không kém ưu đãi hơn) với sản phẩm tương tự được sản xuất trong nước. Thương mại ngày càng tự do hơn là nhằm thực thi được mục tiêu tự do hóa thương mại và đầu tư, mở cửa thị trường, thúc đẩy trao đổi, giao lưu, buôn bán hàng hóa Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng. WTO đôi khi được miêu tả như là một hệ thống "thương mại tự do", tuy nhiên điều đó không hoàn toàn chính xác. Hệ thống này vẫn cho phép có sự tồn tại của thuế quan và, trong một số trường hợp nhất định, vẫn cho phép có các biện pháp bảo hộ. Như vậy, nói một cách chính xác hơn thì WTO đem lại một sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng hơn. WTO cũng có thể hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp hay dành các đặc quyền cho một số doanh nghiệp nhất định b. Nguyên tắc tiếp cận thị trường: - Nguyên tắc tiếp cận thị trường thực chất là việc mở của thị trường, hàng hoá dịch vụ và đầu tư ngôàich các quốc gia khác trong khối. trong một hệ thống thương mại đa phương, khi tất cả quốc gia tham gia đều chấp nhận mở cửa thị trường thì điều đó đồng nghĩa với một việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn cầu mở. Về mặt chính trị, nguyên tắc này thể sự tự do hoá thương mại của WTO . các rào cản thương mại dần dần được loại bỏ, cho phép các nhà hoạch định chiến lược kinh doanh dài hạn, có thời gian điều chỉnh, nâng cao sức cạnh tranh hoặc chuyển đổi cơ cấu. mức đọ cắt giảm các hàng rào bảo hộ được thoả thuận thông qua các cuộc đàm phán song phương và đa phương. tuy nhiên, mức độ thực hiện tiếp cận thị trường của các quốc gia tương đối khác nhau. về mặt pháp lý, nguyên tắctiếp cận thị trường thể hiện nghĩa vụ và tính chất ràng buộc thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường mà các nước chấp đã chấp nhận khi đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới. c. Nguyên tắc cạnh tranh công bằng: Nguyên tắc cạnh tranh công bằng thể hiện sự tự do cạnh tranh trong nhưng điều kiệnbình đẳng như nhau. Nguyên tắc này nhằm hạn chế những tác động nhưng tiêu cực của biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp hay dành một số đặc quyền cho một số doanh nghiệp nhất định. d. Dành cho các thành viên đang phát triển một số ưu đãi: Các ưu đãi này được thể hiện thông qua việc cho phép các thành viên đang phát triển một số quyền và không phải thực hiện một số quyền và không phải thực hiện một số nghĩa vụ hay thời gian quá độ dài hơn để điều chỉnh chính sách. Qua các vòng đàm phán, lợi ích của các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển đã tăng lên khá nhiều. Sau vòng đàm phán Uruguay, các nước giàu trong WTO đã cam kết sẽ rộng mở hơn nữa đối với hàng hoá xuất khẩu từ những nước kém phát triển và trợ giúp kỹ thuật cho các nước này. Gần đây, những nước phát triển đã bắt đầu cho phép nhập khẩu tự do, không thuế, không hạn ngạch đối với tất cả những sản phẩm từ hầu hết quốc gia kém phát triển trong WTO. Chương II THỰC TRẠNG NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM SAU KHI VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO 1. Kinh tế Việt Nam sau một năm gia nhập WTO a. Những điều đạt được của kinh tế Việt Nam sau khi gia nhập WTO Năm 2007, kinh tế Việt Nam phát triển trong điều kiện khó khăn nhiều hơn thuận lợi so với các năm trước. Thành công tiêu biểu nhất của việt nam là tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn dự kiến, đạt 8,44%, cao nhất trong 10 năm qua,dẫu rằng có nhiều khó khăn về thiên tai lớn, dịch bệnh diễn biến phức tạp và sự biến động thị trường bất lợi về giá cả tăng song nền kinh tế nước ta vẫn tăng GDP cao, đứng thứ 3 châu Á (sau Trung Quốc: 11,3% và Ấn Độ khoảng: 9%) Thu hút đầu tư nước ngoài đạt 20,3 tỷ usd gần tăng 70% so với năm 2006, tăng gấp đôi so với năm trước. . Điều đáng chú ý là: lần đầu tiên trong nhiều năm, tốc độ tăng xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước cao hơn khu vực có vốn nước ngoài (22,1% so với 18,6%) chứng tỏ các doanh nghiệp trong nước đã năng động khai thác thị trường - cơ hội do việc gia nhập wto mang lại; do không bị khống chế về hạn ngạch khi trở thành thành viên của wto, 11 tháng kim ngạch xuất khẩu dệt may đã đạt trên 7 tỉ usd, tăng 32% so với cùng kỳ chiếm trên 16% tổng kim ngạch xuất khẩu; xuất khẩu các mặt hàng thuộc nhóm các hàng hóa khác mà chúng ta không thống kê được các sản phẩm cụ thể tăng mạnh, tỉ lệ tăng 38,9% với kim ngạch 8 tỉ 700 triệu usd chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu (nếu thống kê rõ được chi tiết các sản phẩm, chúng ta sẽ có những giải pháp thúc đẩy tăng trưởng cao hơn). Đầu tư và xuất khẩu tăng, thị trường nội địa được mở rộng tạo điều kiện cho công nghiệp và dịch vụ phát triển, nên GDP tăng gần 8,5%, là mức tăng cao nhất trong 10 năm qua. b. Những hạn chế mà nền kinh tế gặp phải - Giá cả tăng cao, không đạt được mục tiêu đề ra. Chỉ số giá tiêu dùng ước tăng 12,4% so với tháng 12-2006. Đây là tốc độ tăng giá cao nhất trong những năm gần đây, vượt qua tốc độ tăng GDP và không đạt mục tiêu đề ra. Nhóm hàng tăng giá cao nhất trong năm qua là hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 18,92%, riêng lương thực tăng 15,4%, giá thực phẩm tăng 21,16%, thứ 2 là nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 17,12%, thứ 3 là đồ dùng và dịch vụ khác tăng 9,02%, thứ 4 là dược phẩm, y tế tăng 7,05% và thứ 5 là may mặc, mũ nón, giày dép tăng 5,47%. ở Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ số giá cả ước cả năm tăng trên 12%. Nguyên nhân tăng giá: Về khách quan, giá thế giới tăng, thiên tai, dịch bệnh lan rộng, gây thiệt hại nặng nề. Về nguyên nhân chủ quan do điều hành giá yếu, dự báo sai, điều hành chính sách tiền tệ chưa tốt. "Việc lúng túng trong điều hành thị trường tiền tệ cũng là một lý do khiến tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) vượt quá tốc độ tăng GDP" (đánh giá của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại hội nghị Kế hoạch và Đầu tư năm 2007, ngày 30-11-2007. Theo đánh giá của chuyên gia kinh tế WB tại Hà Nội: Lượng tiền lưu thông quá lớn, tỷ lệ tăng tín dụng trên 38%, so với tốc độ tăng GDP khoảng 8% thì con số đó là rất nhiều, dù cho các ngân hàng thương mại phải tăng tỷ lệ dự trữ, nhưng lượng tiền lưu thông vẫn rất nhiều. Do dòng vốn đổ vào thị trường mạnh nhưng chưa có cơ quan điều tiết đủ năng lực, chính sách ngoại hối, ngoại tệ chưa phát huy tác dụng vì chính sách của Chính phủ trong thị trường tiền tệ và hối đoái không nhất quán. Chính phủ mua USD vào nhiều và bơm tiền đồng ra thị trường có thể làm giảm giá đồng USD sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và tạo sức ép cho lạm phát. Nhập siêu lớn. Chung cả năm, nhập siêu ước lên tới trên 13,1 tỉ USD, bằng 27,5% kim ngạch xuất khẩu. Điều này thể hiện rõ nhất trong 2 tháng cuối năm. Đáng chú ý là 3 mặt hàng nhập khẩu tăng gấp hơn 2 lần so năm 2006 là ô-tô nguyên chiếc xe máy nguyên chiếc và dầu mỡ động thực vật, không có mặt hàng nào giảm so với năm 2006 về kim ngạch. Kim ngạch nhập khẩu cả năm 2007 ước đạt 60,8 tỉ USD, tăng 35,5% so năm 2006. Cơ cấu kinh tế theo giá thực tế chuyển dich theo hướng tích cực. Tỷ trọng GDP khu vực nông - lâm nghiệp - thủy sản giảm còn dưới 20,0%/ so với 20,81% năm 2006, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng dần và chiếm trên 41,7% so với 41.56% và khu vực dịch vụ tăng nhẹ, chiếm 38,30% so với 38,08% trong 2 năm tương ứng. Nét mới trong năm 2007 là tỷ trọng khu vực dịch vụ tăng cao và tốc độ tăng khá ổn định, quý sau cao hơn quý trước, trong điều kiện có khó khăn nhiều mặt, nhất là dịch vụ vận tải, du lịch, thương mại, tài chính ngân hàng trong bối cảnh hội nhập WTO. Do kinh tế tăng trưởng cao nên tình hình tài chính lành mạnh, thu chi ngân sách nhà nước cân đối, bội chi ngân sách trong phạm vi Quốc hội cho phép. Theo Bộ Tài chính, tổng thu ngân sách nhà nước cả năm 2007 ước đạt 287.900 tỉ đồng, vượt dự toán cả năm (dự toán 281.900 tỉ đồng) và tăng 11,6% so với năm 2006. Các khoản thu có tỷ trọng lớn đều đạt mức khá. Mặc dù chịu ảnh hưởng lớn của mưa lũ, song nhiều khoản thu chủ yếu như thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh, phí và lệ phí, thu từ khu vực kinh tế quốc doanh, thu từ nhà, đất tăng khá. Một số khoản thu đạt khá so với dự toán, trong đó: thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đạt 100,8%; thu từ nhà và đất đạt 117,6% dự toán. Tổng số chi ngân sách nhà nước cả năm 2007 ước đạt dự toán năm. Bội chi ngân sách cả năm ước đạt 5% GDP. Đến nay ngân sách trung ương đã cấp chuyển 100% dự toán chi bổ sung cân đối cho các địa phương, trong đó một số địa phương có khó khăn đã được cấp đủ 100% trợ cấp cân đối ngân sách theo dự toán để chủ động nguồn xử lý các nhiệm vụ chi trong tháng cuối năm. Bên cạnh đó, việc bảo đảm lương thực cho công tác cứu trợ nhân dân và kinh phí để hỗ trợ các địa phương bị thiệt hại do mưa lũ gây ra cũng được chú trọng, đáp ứng kịp thời yêu cầu đề ra. 2. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành dệt may Việt Nam - Toàn quốc hiện có khoảng 2.000 DN dệt may với hơn 2 triệu lao động; 25% trong số đó là các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Các DN may hiện nay phần lớn là các DN tư nhân hay Cty cổ phần. Họ thường chú trọng ưu tiên thực hiện các hợp đồng may gia công XK. Nhiều DN chỉ sản xuất các sản phẩm theo đơn đặt hàng từ nước ngoài dưới dạng gia công thuần tuý. Trong nhiều năm qua ngành dệt may Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tương đối cao - bình quân 20%/năm trong giai đoạn 2000-2005. Bảng kết quả hoạt động kinh doanh của ngành dệt may ĐVT: triêu đồng 2000 2001 2002 2003 2004 Doanh thu 23451 26587 113 (%) 33969 128 (%) 33471 128 (%) 52980 122 (%) Lợi nhuận 476 208 44 (%) 400 193 (%) 684 171 (%) 509 74 (%) Thuế 765 837 109 (%) 977 117 (%) 1102 113 (%) 2388 217 (%) Trong năm 2006 ngành dệt may Việt Nam xuất khẩu hàng hoá trị giá 5,83 tỷ USD, tương đương mức tăng trưởng 20,5% so với năm trước và chiếm 15% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Các nước nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam là Mỹ (doanh thu 3.04 tỷ USD), EU (1,24 tỷ USD) và Nhật (628 triệu USD). Trong khi đó, toàn bộ thị trường trong nước chỉ đạt doanh số khoảng 1,8 tỷ USD. Sản phẩm xuất khẩu quan trọng nhất là áo khoác, quần dài, sơmi, hàng dệt kim và quần áo các loại. Các lô hàng XK vẫn chủ yếu là các hợp đồng gia công lại cho đối tác nước ngoài; nhiều DN VN hầu như không có đối tác phân phối trực tiếp trên thị trường quốc tế. Lợi nhuận của các DN dệt may thường khá thấp (so với doanh thu) do phần lớn nguyên phụ liệu, mẫu mã thiết kế và hoạt động phân phối đều được quyết định bởi đối tác nước ngoài. Phần đóng góp của phía VN vào việc hoàn thiện một chiếc áo khoác chỉ vào khoảng 11%, đối với sơ mi là 25%, quần dài là 15% và trong các sản phẩm khác luôn dưới mức 25%. Cũng trong năm 2006, ngành dệt may phải chi 5,65 tỷ USD cho nhập khẩu, chủ yếu là vải (chiếm 52%), nguyên phụ liệu (34%), sợi (10%) và bông xơ (4%). Các mặt hàng này đa phần được nhập từ Trung Quốc, Đài Loan và các nước ASEAN. Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành dệt đạt khoảng 13%. Năng lực của các DN cung ứng nguyên phụ liệu trong nước còn khá khiêm tốn. Với 24.000 ha diện tích trồng bông, hàng năm VN mới chỉ sản xuất ra được 8.000 tấn bông xơ, đáp ứng khoảng 5% nhu cầu trong nước. Ngoài ra, 70% nhu cầu sợi tổng hợp, 40% nhu cầu sợi xơ ngắn, 40% nhu cầu vải dệt kim và 60% nhu cầu vải dệt thoi vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Kim ngạch xuất nhập khẩu theo mặt hàng ngành trang thiết bị lực lượng sản xuất (/năm) ngành sợi ngành dệt thoi ngành dệt kim ngành may 2,5 triệu cọc sơi 20000 máy may 4000 máy 300000 máy may công nghiệp 250000 tấn 600 triệu m2 100000 tấn 1,25 tỷ sản phẩm Những tác động tích cực đến các doanh nghiệp việt nam - Cơ hội lớn đối với xuất khẩu dệt may Việt Nam bởi các hàng rào hạn ngạch được gỡ bỏ. vì không bị khống chế về hạn ngạch. Khi đó, nhiều nhà đầu tư nước ngoài cũng sẽ quan tâm đầu tư vào sản xuất dệt may tại Việt Nam, các doanh nghiệp tại nước thứ ba cũng sẽ vào đặt hàng. Như vậy số lượng hàng hóa xuất khẩu sẽ tăng lên. Điều đó sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư mở rộng, đầu tư mới và thu hút thêm các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là vào ngành dệt may và các lĩnh vực hạ tầng phục vụ cho sản xuất tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế cũng như ngành dệt may phát triển hơn nữa. Việt Nam cũng sẽ có thêm cơ hội để tiếp cận trình độ quản lý và công nghệ kỹ thuật mới. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, cái được lớn nhất của ngành Dệt May là các rào cản xuất khẩu vào Mỹ đối với sản phẩm dệt may sẽ được xóa bỏ. Các doanh nghiệp dệt may không phải lo chạy hạn ngạch. Với những doanh nghiệp trước kia không có hạn ngạch thì nay có nhiều khả năng tiếp cận với thị trường may mặc Mỹ. Còn với những công ty đã xuất khẩu vào Mỹ rồi, việc không còn hạn ngạch sẽ tạo cơ hội gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này. Đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc tạm thời đang bị Mỹ áp dụng biện pháp tự vệ đến năm 2008 do sau khi gia nhập WTO, nước này đã gia tăng quá nhanh sản phẩm dệt may vào thị trường Mỹ, buộc Mỹ phải áp hạn ngạch với 28 mặt hàng dệt may xuất xứ từ Trung Quốc. Việt Nam vẫn có nhiều cơ hội gia tăng xuất khẩu vào thị trường đầy tiềm năng này. Một thuận lợi nữa là, trên nguyên tắc thỏa thuận thương mại song phương với Mỹ, khi Việt Nam gia nhập WTO, Mỹ sẽ không áp dụng biện pháp tự vệ như đã áp dụng khi đàm phán gia nhập WTO với Trung Quốc trước đây. Và hàng dệt may Việt Nam sẽ được xuất khẩu vào Mỹ không còn bị áp đặt hạn ngạch đối với một số mặt hàng mà Mỹ đã từng áp dụng với Việt Nam từ năm 2003. Những tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp việt nam - Mặt trái của WTO là các doanh nghiệp cũng sẽ phải chia sẻ thị trường nội địa cho các đối thủ nước ngoài. Điều lo ngại nhất đối với các doanh nghiệp dệt may chính là sự cạnh tranh trên sân nhà sẽ trở nên gay gắt hơn, bởi các chính sách hỗ trợ của Chính phủ dành cho ngành không còn và quan trọng hơn là hàng rào thuế quan bảo hộ doanh nghiệp ở thị trường nội địa cũng bị dỡ bỏ. Dù ngay từ năm nay, thuế nhập khẩu vải và hàng may mặc từ các nước ASEAN đã giảm xuống còn 5%, nhưng đối thủ cạnh tranh chính của sản phẩm dệt may Việt Nam lại nằm ở những nước ngoài khối ASEAN như Hàn Quốc, Nhật, Đài Loan, Pakistan, Trung Quốc và ấn Độ… Hiện tại, hàng dệt may nhập từ các nước không thuộc khối ASEAN đang phải chịu thuế suất rất cao, 50% với sản phẩm may và 40% với sản phẩm dệt. Nhưng khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, mức thuế trên sẽ giảm xuống còn tối đa là 15%, do đó, các doanh nghiệp dệt và may sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh lớn ở thị trường nội địa. Trong xuất khẩu, Việt Nam đã chịu nhiều thiệt thòi khi cạnh tranh về giá với các sản phẩm xuất xứ từ Trung Quốc thì ngay trong thị trường nội địa, hàng Trung Quốc giá rẻ cũng là nỗi lo lớn của bất kỳ doanh nghiệp nào. Nói đến cạnh tranh với hàng Trung Quốc, chắc chúng ta không thể vượt qua được bởi Trung Quốc chủ động được các nguyên, phụ liệu cho ngành dệt may, trong khi chúng ta phải nhập khẩu tới 80% các nguyên, phụ liệu. Mặt khác, trong khi một nhà máy dệt của Trung Quốc trung bình có khoảng 6.000 máy dệt thì các doanh nghiệp dệt Việt Nam chỉ có khoảng vài trăm máy, đa phần là cũ, lạc hậu. Theo ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam, khoảng cách về trình độ phát triển giữa ngành Dệt Việt Nam và các nước khá xa. Nếu xếp theo thang điểm 10, thì ngành Dệt Việt Nam chỉ đạt khoảng 3-3,5 điểm, chưa đạt mức trung bình của thế giới. Thiết bị lạc hậu dẫn đến chất lượng vải nội không ổn định, độ bền màu kém, khiến cho khách hàng đặt may không dám lựa chọn vải nội, buộc các doanh nghiệp may gia công lại phải nhập khẩu vải từ các công ty nước ngoài. Không chỉ may gia công, ngay cả các công ty may phục vụ tiêu dùng nội địa cũng không dám mạo hiểm thương hiệu của mình khi mua vải chất lượng kém để sản xuất những mặt hàng của mình. Điều đó làm ngành Dệt càng gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, những doanh nghiệp Dệt trong nước làm ăn được hầu hết đều là các doanh nghiệp tư nhân hoặc liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài Những kết quả đạt được - Sau khi gia nhập WTO nền kinh tế Việt Nam có những bước chuyển biến Trong đó ngành dệt may đã có đóng góp xứng đáng, xuất khẩu tăng trên 33%, đưa Việt Nam vào danh sách 10 nước xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới, thị trường trong nước vẫn được giữ vững và phát triển. Xuất khẩu dệt may năm 2007 đã tăng trưởng tương đối tốt, đạt 7,7 tỷ USD, tăng 32% so với năm 2006, đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ chiếm tới 56% thị phần xuất khẩu của toàn ngành. Để vươn lên vị trí số 1 về kim ngạch xuất khẩu, Tập thể cán bộ, công nhân viên Tập đoàn dệt may Việt Nam đã không ngừng cố gắng nâng cao năng suất lao động, hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt gần 13.000 tỷ đồng và tổng doanh thu trên 22.000 tỷ đồng. Trong đó, nhiều doanh nghiệp đạt mức tăng trưởng cao hơn mức bình quân chung (trên 20%) như: Công ty Cổ phần Sợi Phú Bài, Công ty Cổ phần Dệt Công Nghiệp, Tổng Công ty Cổ phần dệt may Hòa Thọ, May & Dịch vụ Hưng Long, May Thái Nguyên, May Đồng Nai, May Bình Định, May Sông Tiền, May Thuận Tiến, May Việt Hưng, May Tiến Thuận... kết quả đạt được là nhờ phát huy hiệu quả tổng hợp của các dự án đầu tư mới, đầu tư chiều sâu, khai thác các đơn hàng ổn định có giá trị cao, củng cố tổ chức, sắp xếp bố trí hợp lý hóa sản xuất tại các đơn vị. Kim ngạch xuất khẩu toàn Tập đoàn đạt gần 1,5 tỷ USD (hơn 19%) trong tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành tăng trên 34%, đạt gần 7,8 tỷ USD. Những doanh nghiệp đã đạt mức tăng kim ngạch xuất khẩu cao hơn bình quân chung là Tổng Công ty dệt may Hà Nội, Tổng Công ty Phong Phú, Dệt Nam Định, DK Đông Phương, Sợi Phú Bài, Tổng Công ty Cổ phần dệt may Hòa Thọ, Dệt Việt Thắng, Dệt may Huế, May Hưng Yên, May Đức Giang, May Thái Nguyên, May Đồng Nai, May Sông Tiền, May Việt Thịnh, May Phương Nam, May Tân Châu, May Tiền Tiến… Lợi nhuận năm 2007 ước đạt trên 556 tỷ đồng. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn bình quân ước đạt 15,6%. Ước nộp ngân sách của các đơn vị có cổ phần chi phối đạt hơn 120% kế hoạch năm. Hiệu quả sản xuất kinh doanh năm 2007 tăng rõ rệt. Đây là kết quả của một quá trình chuyển đổi mô hình quản lý - chuyển phần lớn doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo công ty cổ phần (theo Luật Doanh Nghiệp). Các đơn vị có tỷ suất lợi nhuận/vốn cao nhất năm 2007 là Công ty Cổ phần Vinatex Tân Tạo: 100%; May Hưng Yên: 73,9%; May Nhà Bè: 62,5%; May Hồ Gươm: 44,8%; Tổng Công ty Phong Phú: 40,2%; May Phương Đông: 38,9%; Sợi Phú Bài: 37,3%; May Nam Định 36,1%; Tổng Công ty dệt may Hòa Thọ: 33,3%; Dệt Việt Thắng 32,1%; May 10: 30,6%. Các DN dệt may trong nước đã phải vượt qua hàng loạt thách thức khắc nghiệt từ phía đối tác, trong đó có khó khăn nhất là chương trình giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ VN do Chính phủ Mỹ thực hiện. áp lực càng gia tăng nặng nề khi hầu hết chi phí đầu vào sản xuất đều tăng hơn 40% so với năm ngoái. Nhiều đơn hàng của quý I.2007 giảm mạnh khi cơ chế giám sát đặc biệt của Mỹ chính thức áp lên 5 nhóm hàng dệt may, hàng loạt nhà nhập khẩu lớn tạm ngừng, thậm chí rút đơn đặt hàng ở VN nhằm giảm thiểu rủi ro... khiến các DN trong nước một phen lao đao. Tuy nhiên, vượt qua những "rào cản" đó, dệt may VN đã khẳng định được vị thế của mình. Theo đó, Bộ Công Thương vừa đề ra chỉ tiêu xuất khẩu dệt may năm 2008 là 9, 5 tỷ USD, đây là con số rất cao, đúng bằng tỷ lệ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu 20% của Bộ Công Thương. nếu có sự đồng tâm giữa Chính phủ và các DN thì mục tiêu 9, 5 tỷ USD trong năm 2008 là hoàn toàn khả quan và có thể đạt được cao hơn".Cơ cấu thị trường xuất khẩu của ngành dệt may VN năm 2008 vẫn xác định thị trường Mỹ là thị trường xuất khẩu chính, chiếm 55% trên tổng kim ngạch xuất khẩu (tương đương 5,3- 5, 5 tỉ USD), tiếp sau là EU, chiếm khoảng 1,6- 1, 8 tỉ USD... Tuy nhiên, việc xuất khẩu dệt may trong năm 2008 vào thị trường Hoa Kỳ sẽ rất khó khăn. Những hạn chế - Thách thức vì xuất phát điểm của Việt Nam còn nhỏ bé, những mặt yếu của Việt Nam còn rất nhiều, Việt Nam đã có kết quả xuất khẩu dệt may rất tốt trong năm 2007 tạo đà phát triển cho những năm tiếp theo. Nhưng cũng là vô vàn những thách thức : Thứ nhất, hầu hết nguyên vật liệu (vải, phụ liệu…) vẫn phải nhập khẩu là chính. Điều này cho thấy tỷ lệ nội địa hoá trong ngành dệt may còn rất thấp, phần gia công còn cao (khoảng 65%). Thứ hai, khâu thiết kế, tạo mốt, tạo dáng sản phẩm của Việt Nam còn rất yếu, chưa chủ động nắm bắt nhu cầu của thị trường, người tiêu dùng. Thứ ba là vấn đề về thương hiệu. Việt Nam xuất khẩu năm 2007 là 7,8 tỷ USD, nhưng thương hiệu chính của Việt Nam là chưa đáng kể, những doanh nghiệp mạnh như Thành Công, Việt Tiến, May 10, Nhà Bè, Thái Tuấn… mặc dù đích thân sản xuất nhưng thương hiệu lại là nước ngoài. Việt Nam chưa có đủ điều kiện cạnh tranh vì thương hiệu chiếm vị trí rất quan trọng. Cũng sản phẩm như vậy, thời gian sản xuất như vậy nhưng với thương hiệu nổi tiếng, uy tín, giá cả có thể gấp 3 lần so cùng sản phẩm kém về thương hiệu nhưng vẫn có khả năng cạnh tranh cao. Điểm này Việt Nam còn yếu. Thứ tư là Việt Nam có đội ngũ lao động dồi dào, có kỷ luật, có tay nghề nhưng cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật còn thiếu, những giám đốc giỏi, doanh nhân giỏi trong ngành dệt may rất thiếu. Đây là điểm khó khăn cũng như bất lợi của dệt may Việt Nam, bởi chính con người sẽ tạo nên giá trị và mong muốn trong việc phát triển ngành dệt may. Thứ năm là khả năng cạnh tranh. Tình thời trang, nhanh nhạy của thị trường dệt may, giá cả…Chính vì Việt Nam không có nguyên liệu tại chỗ, không có thương hiệu…nên khả năng cạnh tranh của dệt may Việt Nam bất lợi so các cường quốc xuất khẩu hàng dệt may khác. Với Trung Quốc, Việt Nam chỉ có thể cạnh tranh bằng những sản phẩm cao cấp hoặc từ trung bình trở lên Chương III GIẢI PHÁP CHO NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM 1. Xu hướng thị trường những năm tới - Ngành dệt may Việt Nam có những bước phát triển tạo ra những bước ngoặt và ngành dệt may Việt Nam đang hướng mạnh ra xuất khẩu và được đánh giá là có triển vọng, xu hướng xuất khẩu của ngành dệt may của Việt Nam được nâng cao và đẩy mạnh. Việt Nam đang phấn đấu để nhân đôi kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn 2006-2010. Tuy nhiên, bên cạnh thuận lợi của ngành là được Nhà nước, Chính phủ, các Bộ ngành quan tâm và nỗ lực của DN, năm 2008 sẽ có nhiều khó khăn cho ngành để đạt được mục tiêu nói trên do có một số trở ngại đối với 3 thị trường trọng điểm: - Thị trường Hoa Kỳ: Là thị trường lớn nhất chiếm tỷ trọng khoảng 55% tổng kim ngạch xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng hàng năm cao. Thị trường này vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro do Chương trình Giám sát vẫn được duy trì và sẽ tiếp tục đánh giá số liệu 6 tháng tiếp theo vào tháng 3.2008. Bộ Thương mại Hoa Kỳ chưa đưa ra bất kỳ một hành động cụ thể nào nhằm giảm bớt mặt hàng trong diện bị giám sát và cũng không nêu lên tiêu chí điều kiện cụ thể làm cơ sở tự khởi kiện điều tra chống bán phá giá hàng dệt may Việt Nam. Có khả năng cơ chế giám sát của Hoa Kỳ được duy trì cho đến hết năm 2008. Hiện nay theo số liệu xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ mà Hải quan Hoa Kỳ công bố, giá xuất khẩu trung bình hàng tháng đã có xu hướng giảm xuống và lượng xuất khẩu có xu hướng tăng lên, thêm vào đó yếu tố chính trị nội bộ của Hoa Kỳ khiến các nhà nhập khẩu càng e ngại trong việc đặt hàng tại Việt Nam, cản trở đáng kể tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may trong năm 2

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docSử dụng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên (CVM) để đánh giá giá trị của việc duy trì hệ thống cây xanh trên địa bàn thành phố HN.DOC
Tài liệu liên quan