Đề tài Tài chính trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

 

Mở đầu 1

Nội dung 2

I. Bản chất và chức năng của tài chính 2

1. Bản chất tài chính 2

 2. Chức năng 3

 2.1. Chức năng phân phối 3

 2.2. Chức năng giám đốc 5

 3. Vai trò của tài chính trong nền kinh tế thị trường 5

 4 . Các công cụ tài chính 7

 4.1. Ngân sách Nhà nước 7

 4.2.Thuế 10

 4.3. Tiền tệ, tín dụng 13

 4.4. Dự trữ tài chính và bảo hiểm 15

II. Tài chính trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

 1. Quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường 18

18

 2. Những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 19

 3. Thực trang chung về tình hình tài chính ở Việt Nam 21

III. Phương hướng và giải pháp đổi mới hoạt động tài chính ở Việt Nam 23

 1. Mục tiêu tài chính trong những năm tới 23

 2. Phương hướng đổi mới hoạt động tài chính 25

 3. Một số giải pháp cơ bản trong quá trình đổi mới 26

Kết luận 29

Tài liệu tham khảo 30

 

 

doc31 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1116 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tài chính trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sắc thuế cần sửa đổi thì mới có thể đáp ứng các yêu caùu ổn định nguồn thu Ngân sách Nhà nước, phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩavà xu thế hợp tác quốc tế. 4.2.3 Vai trò của thuế Thuế là công cụ để huy động nguồn thu quan trọng cho Ngân sách Nhà nước Huy động nguồn thu quan trọng cho Ngân sách Nhà nước là vai trò chủ yếu của nhiều chính sách thuế. Bất kì Nhà nước nào cũng phải thu thuế để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Thuế là nguồn vật chất quan tẻọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của bộ máy quyền lực Nhà nước Qua gần 2 năm thi hành đổi mới hệ thống thuế, vai trò huy độnh nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước đã được tthực hiện và phts huy mạnh mẽ trong thực tiễn cuộc sống. Thuế đã được ban hành dưới hình thức pháp luậtvà pháp lệnh, tính pháp lý của chính sách thế đã được nâng lên rõ rệt nên đã có tác dụng nâng cao quyền lực của Nhà nước trong việc thu thuế và ý thức trách nhiệm nghĩa vụ của người nộp thuế. Nguôn thu về thuế đã tăng lên đáng kể chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu Ngân sách và đáp ứng được nhu cầu chi thương xuyên và trả nợ nước ngoài của Ngân sách Nhà nước, góp phần chống lạm phát và ổn định vật giá. Năm vừa qua là năm các pháp lệnh về thuế được thực hiện nghiêm túc thanh công và số thu về thuê so với các năm trước tưng 78%, chiếm xấp xỉ 80% số thu Ngân sách. Tuy nhiên qua kiểm nghiệm trong thực tế hệ thông thuế mới cũng con bộc lộ một số tồn tại là chưa bao quát hêt được nguồn thu, chính sách thuế còn phức tạp chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy độnh về thuế, còn nhiều kẽ hở cho tạo cho các đối tượng có thể trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế, tình trạng thất thu còn phổ biến, chính sách thuế của ta còn phức tạp, chưa rõ ràng và chưa phù hợp với điều kiện và trình độ của người thu và nộp thuế. Tính chất trực thu và gián thu còn lẫn lộn trong các sắc thuế, chưa có sự phân biệt rõ ràng. Do mỗi sắc thuế hiện nay phải đạt nhiều mục tiêu cung một lúc nên các thuế suất thường rất phức tạp à có nhiều loại thuế suất khác nhau. Ngoài ra nội dung luật thuế và các văn bản hướng dẫn là không xác định rõ những phạm trù kinh tế mà theo đó sẽ xác định các mức thuế khác nhau nên đã gây ra khó khăn cho việc thu và nộp thuế, tạo sơ hở cho chính sách, dễ gây tùy tiện và tiêu cực khi thực hiện. Thuế góp phần điều chỉnh kinh tế Ngoài việc huy động nguôn thu cho Ngân sách Nhà nước thuế cò có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh nền kinh tế. Chính sách thuế có ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả, đén quan hệ cung cầu đến cơ cấu điều trị và sự phát triển hoặc suy thoái của nền kinh tế căn cứ vào tình huống cụ thể , Nhà nước có thể chủ đông điều hành về thuế, lúc hoàn cảnh kinh tế quá thịnh thì việc tăng thuế có tác dụng ức chế sự tăng trưởng của tổng nhu cầu,làm giảm bớt sự tăng trương kinh tế, lúc hoàn cảnh kinh tế sa sút sản xuất suy thoái thì việc hạ thấp thuế sẽ có tác dụng nâng cao nhu cầu tổng thể, từ đó xúc tiến phục hưng tình trạng kinh tế. Như vậy thông qua cơ chế thuế Nhà nước có thể chủ động phát huy tác dụng điều hành nền kinh tế, co hẹp vào lúc hoàn cảnh quá thịnh hoặ khuếch trương vào lúc hoản cảnh suy thoái. Thuế có tác dụng trực tiếp đến giá cả đến thu nhập vì vậy dựa vào công cụ thuế Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc tích lũy và đầu tư. Khi ban hành một sắc thuế do những yêu cầu về mặt kinh tế chính trị và xã hội Nhà nước ta đều có những quy định về đối tượng phạm vi thuế. Các quy định này xét bề ngoài là một sự cưỡng chế, nhưng bên trong nhằm mục đích điều chỉnh những quan hệ kinh tế xã hội nhất định. Việc phân biệt thuế suất đối với các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ hoặc các nghành nghề sản xuất kinh doanh những quy định ưu đãi thuế với một số nghành vùng lãnh thổ, tự nó đã góp phần điều chỉnh việc bỏ vốn kinh doanh này vào ngành nghề này hay nghành nghề khác của doanh nghiệp mà không cần có sự hô hào vận động của Nhà nước, bởi vì người nộp thuế tự họ phải tính toán tới việc đầu tư vốn vào đâu sẽ có lợi và ngược lại, chính sách thuế hiện hành thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước ta là khuyến khích nghành sản xuất, dịch vụ, thương mại. việc quy định thuế lợi tức ưu đãi đối với các dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích như sản xuất hàng hóa xuất khẩu đầu tư vào những vùng có điều kiện kinh tế không thuận lợi… nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế một cách đồng bộ trong cả nước theo hướng có lợi cho nền kinh tế quốc dân. Thông qua áp dụng thuế suất thấp đối với các mặt hàng dịch vụ thiết yếu, phổ thông Nhà nước tác động làm cho giá cả hạ tiêu dùng tăng lên đáng kể, cũng qua đó cho phép doanh nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao. áp dụng thuế suất cao đối với hàng hóa xa xỉ, dịch vụ cao cấp sẽ tác động làm cho giá cả tăng, giảm mức tiêu dùng và sản xuất. Như vậy thuế không những có ảnh hưởng tới quan hệ cung cầu mà còn góp phần điều chỉnh cơ chế kinh tế theo ý muốn của Nhà nước. Với chế độ mộy chính sách thuế thông nhất đối với mọi thành phần kinh tế, điều này phù hợp với yêu cầu của cơ chế thị trường, tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất kinh doanh trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh và đặt ra đòi hỏi các dịch vụ doanh nghiệp quốc doanh phải vươn lên hoạt động có hiệu quả khắc phục dần hiện tượng ỷ lại vào Nhà nước. Thuế góp phần điều hòa thu nhập thực hiện công bằng xã hội trong phân phối Trong nên kinh tế thị trường nếu không có sự can thiệp của Nhà nước để tự thị trường điều chỉnh thì việc phân phối của cải và thu nhập sẽ càng tập trung tạo ra hai cực đối lập nhau, một số người sẽ giàu có lên nhanh chóng và đa số người nghèo cuộc sống sẽ không được cải thiện. Tình trạng trên chẳng những làm mất đi ý nghĩa cao cả của việc phát triển kinh tế của một đất nước. Trong thực tiễn sự phát triển kinh tế của một quốc gia là kết quả của nỗ lực cồng đồng của toàn dân, mỗi thành viên trong xã hội đều có những đống góp nhất định của họ. Thành quả của sự phát triển kinh tế nếu không chia sẻ cho mọi người cùng hưởng thì rõ ràng là mất đi sự công bằng, bởi vậy cần có sự can thiệp của Nhà nước trong sự phân phối thu nhập trong xã hội, đặc biệt thông qua công cụ thuế. Việc điều hòa thu nhập được thể hiện qua thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế đánh cao vào những mặt hàng dịch vụ cao cấp nhằm điều tiết bớt thu nhập của người giầu hoặc thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của công ty hoặc các nhân có thu nhập. Nhìn chung đối tượng có thu nhập cao thì phải nộp thuế nhiều, có thu nhập thấp thì nộp ít, thu nhập chỉ đủ đảm bảo cuộc sống bình thường thì không phải nộp thu. Số tiền Nhà nước thu được sẽ được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng xã hội như trẻ mồ côi, người già không nơi nương tựa, người tàn tật… Cơ chế thuế như vậy sẽ tạo điều kiện để chuyển dịch thu nhập của người cao sang người có thu nhập thấp để rút ngắn khoảng cánh của người giàu và người nghèo, góp phần để điều hòa thu nhập và thực hiện công bằng xã hội. 4.3 Tiền tệ, tín dụng 4.3.1 Khái niệm về chính sách tiền tệ và tín dụng Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận cấu thành quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô có vai trò trọng yếu trong việc ổn định nền tiền tệ quốc gia và phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia làkiểm soát chặt chẽ lạm phát, tưng bước tăng cường tính ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đông tiền, tào điều kiện huy động vốn góp phần cho một mức tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Đó cùng là điều kiện quan trọng để củng cố uy tín và phát triển hoạt động của hệ thống ngân hàng, nhanh chóng hòa nhập quốc tế, phục vụ công cuộc phát triển kinh tế đáp ứng ngày càng cao dịch vụ tài chính của nền kinh tế. 4.3.2. Cơ chế quản lý và thực trạng. Các nhà kinh tế và học giả Phương Tây đã quan niệm và thừa nhận tiền tệ như một sản phẩm kì diệu trong số những phát minh kì diệu của nhân loại, đóng vai trò như người mửo đầu, người nâng đỡ, người điều chỉnh, người tham gia và người quyết định đối với mọi quá trình sản xuất. Để thực hiện vai trò điều chỉnh vĩ mô của công cụ tiền tệ, hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường đều thông qua các chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (thay Ngân hàng Trung ương), trong đó, các chính sách tiền tệ đều hướng vào mục đích chủ yếu là tạo ra và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, kiểm soát lạm phát và ổn định tiền tệ. Tuy nhiên trong điều kiện và hoàn cảnh kinh tế thị trường ở từng nước trình độ quản lý và các chính sách tiền tệ được các Chính phủ hướng đến sẽ không giống nhau song tựu trung lại thì mục tiêu cao nhất của chính sách tiền tệ là hướng và tăng trưởng kinh tế vì rằng mục tiêu này là mục tiêu bao trùm để giải quyết hàng loạt các mục tiêu khác. Một nền kinh tế không thể tăng trưởng nếu như không có sự thúc đẩy của Chính phủ thông qua vai trò của công cụ tiền tệ. Bởi vì tiền tệ không để đơn thuần là nhiệm vụ thước đo giá trị của quá trình tái sản xuất giản đơn, nó còn thể hiện trong quá trình tái sản xuất mở rộng thông qua phần tích lũy tiền tệ từ kết quả thặng dư được dồn tích tái đầu tư mở rộng sản xuất, góp phần làm tăng tổng sản phẩm quốc dân và nhờ đó kinh tế tăng trưởng. Vai trò của các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng hết sức quan trọng trong việc huy động và tập trung các nguồn vốn thặng dư nhàn rỗi trong nền kinh tế dưới hình thức "đi vay" để tái phân phối các nguồn này cho các nhu cầu vần vốn để phát triển kinh tế của các thế nhân và pháp nhân dưới dạng cho vay. Phục vụ góp phần phát triển kinh tế. Chính phủ thường thông qua ngân hàng Trung ương để có một chính sách lãi suất để điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, khuyến khích tăng trưởng kinh tế. Bởi lẽ lãi suất có vai trò kích thích hoặc hạn chế đầu tư mở rộng hoặc thu hẹp đầu tư ở ngành này lĩnh vực này. Mục tiêu thứ hai trong chính sách tiền tệ của Chính phủ là tạo công ăn việc làm, đây cũng là mục tiêu chung của bất kỳ nền kinh tế của các Quốc gia nào, nhất là các quốc gia chậm phát triển với nguồn nhân lực ngày càng gia tăng nhanh hơn số lượng việc làm dẫn đến tình trạng thất nghiệp và bán thất nghiệp. Chính phủ của rất nhiều các quốc gia đã thi hành các chính sách và nhiều biện pháp trong đó chính sách tiền tệ chỉ có thể được sử dụng hướng vào đầu tư phát triển để tăng trưởng và tạo thêm công ăn việc làm. Điều này là một logic hiển nhiên bởi vì khi nền kinh tế phát triển thì ngàgnh nghề được mở mang công ăn việc làm được tạo ra nhiều hơn từ đó thất nghiệp giảm đi và ngược lại làm nền kinh tế trì trệ, lạm phát sẽ đi liền với thất nghiệp gia tăng, đồng tiền không ổn định. Thực hiện chương trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, Nhà nước đã thực thi đổi mới chính sách tiền tệ trong đó cải cách lãi suất tín dụng theo hướng lãi suất được sử dụng như một cong cụ quan trọng của chính sách tiền tệ, chuyển từ lãi suất bao cấp sang lãi suất thị trường đã có tác dụng giảm cầu trên thị trường, góp phần ổn định giá cả, nâng cao sức mua của đồng tiền. Nhà nước thông qua vai trò của hệ thống Ngân hàng đã hình thành thị trường tiền tệ ngắn hạn. Tín dụng Ngân hàng đã mở rộng ra các thành phần kinh tế, phát triển các hìnht hức cho vay tới hộ nông dân và người sản xuất thru công, dịch vụ. Nhà nước lại thông qua chính sách tiền tệ tín dụng đã góp phần xắp xếp lại các Xí nghiệp quốc doanh như xoá dần tín dụng bao cấp. Để khuyến khích xuất khẩu, Chính phủ đã thay đổi các điều chỉnh tỷ giá hối đoái góp phần tạo nguồn ngoại tệ bù đắp thiếu hụt cán cân thanh toán quốc tế. Mặt khác, chính sách quản lý ngoại hối đã được đổi mới và hoàn thiện, Ngân hàng Nhà nước đã mở rộng 2 Trung tâm giao dịch ngoại tệ ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh nhằm kiểm soát việc cung ứng ngoại theo cơ chế thị trường. Bên cạnh đổi mới hệ thống Ngân hàng chuyển từ Ngân hàng một cấp thành Ngân hàng hai cấp. Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, Chính phủ cũng đã áp dụng các giải pháp cho vay trong và ngoài nước qua hệ thống kho bạc Nhà nước. Các phương tiện huy động tiền tệ đó được phát triển như tín phiếu kho bạc với các lãi suất và thời hạn khác nhau để tạo nguồn vốn đầu tư cho các dự án ngành, nghề thực hiện các mục tiêu điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội của Nhà nước. 4.4. Dự trữ tài chính và bảo hiểm. 4.4.1. Khái niệm sự cần thiết phải có. Trong quá trình sản xuất và hình thành của cải vật chất, do nhận thức thiếu đầy đủ các quy luật thiên nhiên và các đối tượng khác mà con người chưa kiểm tra được , nên tác động của những yếu tố đó (thiên nhiên, xã hội, và kxy thuật), đã làm cho con người sản xuất không thu được những kết quả đã dự tính từ trước, làm mất cân đối quá trình sản xuất xã hội. Đó chính là tiền đồ khách quan cần thiết phải lập quỹ dự trữ. Trong quá trình phát triển của xã hội loài người , nhu cầu lập qũy dự trữ ngày càng tăng. Nhưng trong hệ thống qũy dự trữ thì qũy dự trữ tài chính đóng vị trí đặc biệt quan trọng. Chúng cho phép sử dụng một cách linh hoạt và có hiệu quả trong phạm vi cả nước trong việc phát triển nền kinh tế của từng vùng và đặc biệt chúng có khả năng bù đắp những thiệt hại do thiên tai hoặc tai nạn bất ngờ một cách nhanh chóng. Đây chính là yếu tố cơ bản nhất nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối nền kinh tế xã hội. Quỹ bảo hiểm là một thành phần trong hệ thống dự trữ Nhà nước được hìnht hành do thu phí bảo hiểm bằng tiền hoặc hiện vật từ người tham gia bảo hiểm cho những cá nhân hay đơn vị pháp nhân có tham gia lập quỹ. Về nội dung kinh tế thì qũy Bảo hiểm là một thành phần cần thiết của qũy dự trữ và giữa chúng có liên hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên giữa chúng có sự khác nhau về mục đích về hình thức sử dụng chung. Mục đích của qũy dự trữ là khắc phục những thiệt hại do bất kì nguyên nhân nào, mà không cần một điều kiện gì khi cần thiết. Còn qudỹ bảo hiểm chỉ dùng để khắc phục những thiệt hại do trường hợp bất ngờ và thiên tai đặc biệt chúng được lập nên trong những mục đích nhất định đã được ổn định và đạt điều kiện từ trước. Tất cả các quỹ dự trữ và bảo hiểm nói trên có quan hệ mật thiết với nhau. Sự tương quan tỷ lệ giữa các loại qũy đó thay đổi theo từng giai đoạn phát triển xã hội khác nhau. Nghiên cứu và phân tích nội dung kinh tế của các qũy dự trữ và bảo hiểm ta thấy chúng có những sự giống nhau cơ bản đó là sự thống nhất của các qũy trên được hình thành từ một nguồn cơ bản - sản phẩm thặng dư, tức là khi con người đã sản xuất ra số sản phẩm nhiều hơn sự cần thiết để duy trì cuộc sống hàng ngày và phần sản phẩm dôi ra đó con người dùng để bù đắp cho sự hao mòn tư liệu sản xuất và ngoài ra còn để tích luỹ cho những lúc khó khăn không ngờ tới. 4.4.2. Phân loại. Trong mối liên quan đến nhiều nguyên nhân xã hội khác nhau, phần đảm bảo nhu cầu bảo vệ sản xuất với những phạm vi thiệt hại khác nhau và điều kiện để phục vụ hồi sản xuất một cách nhanh chóng thì các khoản dự trữ của mỗi quốc gia lập nên không chỉ một mà là cả một hệ thống các quỹ dự trữ và bảo hiểm. Ngoài hệ thống các qũy dự trữ và bảo hiểm người ta còn lập qũy dự phòng. Hai loại quỹ trên có đặc điểm chung là: cùng lập ra với mục đích chi cho những trường hợp không lường trước được. Tuy nhiên chúng có những khác biệt cơ bản về nguồn hình thành và về phạm vi, thời gian hoạt động. Người ta phân loại các quỹ dự trữ theo nhiều cách khác nhau. Căn cứ vào hình thức lập qũy ta có thể chia ra thành: qũy dự trữ bằng hiện vật và quỹ dự trữ bằng tiền. Nhưng để phân biệt rõ phạm vi, mức độ và tác dụng cụ thể các quỹ dự trữ các nhà kinh tế thế giới còn phân loại các quỹ dự trữ theo phạm vi hình thành và sử dụng chúng như sau: Quỹ dự trữ tập trung và quỹ dự trữ phân tán. Trên cơ sở các nguyên tắc phân loại nói trên, một quốc gia dự trữ và bảo hiểm khác nhau dựa vào nguyên tắc chung đó có thể chia chúng thành: - Các quy dự trữ bằng hiện vật tập trung của Nhà nước. - Các quỹ dự trữ tài chính tập trung của Nhà nước. - Các quỹ dự trữ phân tán bằng hiện vật và bằng tiền được lập ở từng đơn vị kinh tế, Xí nghiệp, từng vùng nhỏ (xã, huyện, vùng và dân cư). Quỹ bảo hiểm: Đặc biệt trong điều kiện phát triển kinh tế theo chiều dâu hiện nay, các hình thức hoạt động của bảo hiểm cũng đa dạng thêm cả về chiều rộng và chiều sâu. Từ những năm 1970 đến nay người ta có xu hướng liênhập khẩuết giữa loại hình bảo hiểm bắt buộc với bảo hiệm tự nguyện và giã các loại bảo hiểm khác nhau với nhau. Xuất phát từ nội dung kinh tế từng đối tượng của thị trường bảo hiểm ta có thể chia thành các loại bảo hiểm sau. Bảo hiểm tài sản - đối lượng là tất cả các giá trị vật chất có thể. Bảo hiểm nhân thọ - là bảo hiểm là cơ sở quan hệ kinh tế của nó là những trường hợp xảy ra đối với con người. Bảo hiểm trách nhiệm - phục vụ cho những khách thể và khả năng bắt buộc người tham gia bảo hiểm phải bồi thường cho người thứ ba. Người ta còn căn cứ trên lĩnh vực kinh tế và phi kinh tế mà phân loại bảo hiểm thành bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hểim nhân thọ, và ngoài ra còn căn cứ trên cơ sở thời hạn tham gia bảo hiểm người ta còn chia ra thành các loại hình bảo hiểm dài hạn và các loại hình bảo hiểm thông thường (ngắn hạn). 4.4.3. Vai trò của quỹ dự trữ và bảo hiểm. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới, quỹ dự trữ được tập trung tgại một mối để quản lý và sử dụng. Sự quản lý tập trung qũy dự trữ ch phép Nhà nước thực hiện chính sách tài chính thống nhất, đảm bảo khả năng và xã hội và củng cố khả năng quốc phòng của Nhà nước khi cần thiết. Trong quá trình cải cách kinh tế ở Việt Nam, chúng ta đã gặp không ít khó khăn, trong đó trước hết cần nói đến những khó khăn về tài chính của quốc gia. Để thiết lập một hình thức tài chính ổn định yêu cầu phải phát triển nhưng công cụ tài chính: Ngân sách Nhà nước, thuế, tiên tệ và tín dựng , dự trữ và bảo hiểm… Nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa các công cụ trênmà Nhà nước có thể tiến hành điều tiết thị trường thông qua việc phân phối hợp lý các khoản chi Ngân sách Nhà nước, điều tiết lưu thông và sản xuất bằng các chính sách thuế, đưa ra những tỷ lệ lãi hợp lý, mềm dẻo nhằm thu hút ngày càng nhiều số tiền nhân dântỏng dănmỏ thêm những hình thức thanh toán tiên tiến trong nước (Ngân phiếu…) khi cần có thể tung dự trữ để ổn định giá cả. Vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước còn biểu hiện qua việc hạn chế sự mất cân đối trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh bằng cách lấy từ qũy dự trữ tài chính quốc gia để bù đắp cho những thiệt hại lớn có thể ảnh hưởng đến dây truyền sản xuất làm mất sự ổn định chung cho toàn xã hội. Bên cạnh đó bảo hiểm không những đóng vai trò là người bảo vệ che chắn cho người sản xuất, kinh doanh dịch vụ khỏi bị tác động ngoài ý muốn của họ mà còn thu hút một nguồn vốn đáng kể từ các tư nhân và các doanh nghiệp để đầu tư cho các chương trình kinh tế thông qua thị trường tài chính. Ngoài ra trong nến kinh tế thị trường một lúc có nhiều thành phần tham gia kinh doanh bảo hiểm cạnh tranh lẫn nhau đẫn đến nhu cầu cần có một tổ chức bảo hểim đứng giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm làm môi giới cho người tham gia bảo hiểm tìm tôn trọng bảo hiểm một người bảo vệ tốt nhất phù hợp với khả năng tài chính của họ. Do đó dịch vụ bảo hiểm ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu bảo hiểm của các cá nhân các tổ chức có nhu cầu. 4.4.4. Thực trạng. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tẹ 1997 - 1998 đã ảnh hưởng đến phạm vi rộng trong đó không loại trừ việc gây ảnh hưởng tới nền tài chính của Việt Nam. Từ đó trửo đi Nhà nước cũng tích cực tăng cường công tác dự trữ bảo hiểm. Tỏng một vài năm trước ta có tình trạng mọi người mua vàng và đô la để dự trữ cho sự mất giá của đồng tiền, Nhà nước đã đối phó với tình hình ấy đã đưa ra những chính sách tiền tệ tín dụng linh hoạt nhằm chống lại lạm phát như: Chinh sách tỉ giá linh hoạt và tăng lãi suất tiết kiệm cao hơn tăng giá hàng. Do đó lượng tiền gửi tiết kiệm tăng nhanh và giảm dần cơn sốt lạm phát. Trong những giai đoạn cần thiết Nhà nước cần trong dự trữ để mau dự phòng vật tư, máy móc nông nghiệp, nhằm cung cấp cho bà con nông dân những vật tư máy móc với giá cả phải chăng, như vậy sẽ không làm ảnh hưởng đến việc tăng chi phí sản xuất nông nghiệp. Trong những năm gần đây thị trường bảo hiểm của nước ta đã phát triển rất mạnh mẽ, xuất hiện nhiều Công ty bảo hiểm đa quốc gia đã có mặt trềnt Việt Nam, các Công ty bảo hiểm với vốn đầu tư nước ngoài đã làm cho thị trường bảo hiểm thêm sôi động và có rất nhiều loại hình mới ra đòi đáp ứng được nhu cầu bảo hiểm ngày càng tăng của mọi tầng lớp dân cư và các tổ chức. Tuy nhiên hoạt động bảo hiểm vẫn còn nhiều mặt hạn chế bởi vẫn tồn tại một số độc quyền trềnt bảo hiểm. II. Tài chính trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. 1. Quá trình chuyền nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn mang nặng tính tự túc, tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội sản xuất hàng hoá. Trước hết cần nghiên cứu một số đặc trưng cơ bản của cơ chế kế hoạch hoá tập trung - cơ chế quản lý kinh tế đã tồn tại ở nước ta trước đổi mới. Đó là cơ chế quản lý mà Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều đó thể hiện ở sự chi tiết hoá các nhiệm vụ do Trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ một Trung tâm. Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình. Trong nền kinh tế này bỏ qua quan hệ hàng hoá tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hoạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức: bao cấp qua giá, bao cấp qua tiền lương hiện vật (chế độ tem phiếu) và bao cấp qua cấp phát vốn của ngân sách, mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn. Từ những đặc điểm trên đã dẫn đến bộ máy quản lý rất cồng kềnh có nhiều cấp trng gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, không thạo nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách thì quan liêu cửa quyền. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hìnht hành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó. Phương hướng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta đã được Đại hội VI của Đảng xác định là tiếp tục được Đại hội VII của Đảng khẳng định: "Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Sự chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường là một sự cần thiết khách quan với cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam là: Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi, mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường. Quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chru sở hữu đối với các hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang giá. Thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật -công nghệ, về trìngh độ tổ chức quản lý, nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau. Đồng thời trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá, tiền tệ. Như vậy, kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu, khách quan, không thể lấy ý chủ quan mà xoá bỏ nó được. 2. Những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp như trước đây nhưng đó cũng không phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách của các nước tư bản, tức là không phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách của các nước tư bản, tức là không phải kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Bởi vì chúng ta còn đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có, vừa chưa có đầy đủ yếu tố xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, một mặt vừa có những tính chất chung của nền kinh tế thị trường. Mộ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0716.doc
Tài liệu liên quan