Đề tài Tăng cường liên kết giữa sản xuất nguyên liệu và công nghiệp chế biến nông sản ở Việt Nam

Nghị quyết 10 của Bộ tài chính ban hành năm 1988 được coi là khâu đột phá đề ra giải pháp tình thế, đã chặn được sự sa xút trong nông nghiệp, hộ nông dân trở thành dơn vị sản xuất tự chủ, ngày càng có nhiều hộ nông thôn làm ăn giỏi và trở lên giàu có, tiến lên sản xuất hàng hoá, theo mô hình trạng thái. Kết quả là hình thành nhờ được một số vùng sản xuất nông sản tập trung phục vụ cho công nghiệp chế biéen.

Nhà nước coi công nhận các thành phần kinh tế của kinh tế thị trường cùng tồn tại và phát triển và được coi là sự ngang bằng nhau, nhờ vậy lên thu hút được nhiều nguồn vốn của xã hội và sản xuất nông nghiệp và vào công nghiệp chế biến nông sản.

 

doc45 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1648 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tăng cường liên kết giữa sản xuất nguyên liệu và công nghiệp chế biến nông sản ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầu phát triển nên nhiều loại nông sản ở nước ta hiên nay công nghiệp chế biến đã bắt đầu phát triển nên nhiều loại nông sản trước đay không được coi trọng, nhưng nay có thể là những cây nông nghiệp có giá trị kinh tế như: sắn, các loại cây có bột khác, đặc biệt là các loại cây công nghiệp như: chè, cà phê, chăn nuôi bò lấy sữa, hồ tiêu, thuốc lá, hạt điều. Nhờ có sự ra đời của ngành công nghiệp chế biến cho nên người ta có thể đầu tư vào sản xuất hàng hoá nông sản với số lượng lớn như ở nước ta hiện nay đã hình thành được một số vùng sản xuất hàng lớn như chè ở Thái Nguyên, cao su, hồ tiêu, cà phê… ở Tây nguyên, cây ăn quả ở Nam bộ. Như vậy liên kết giữa sản xuất nguyên liệu và công nghiệp chế biến tốt thì nó góp phần vào sự nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn của nước ta góp phần trực tiếp và to lớn vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước làm thay đổi quan hệ xuất nhập khẩu thay đổi cán cân ngoại thương, làm thay đổi nhanh bộ mặt kinh tế xã hội đất nước Chương II Thực trạng liên kết giữa sản xuất nguyên liệu và công nghiệp chế biến ở nước ta thời gian qua. 1.Các hình thức liên kết giữa sản xuất nguyên liệu và công nghiệp chế biến ở nước ta đã có những bước phát triển nhanh chóng. Trong những năm qua việc liên kết giữa sản phẩm nguyên liệu và cong nghiệp chế biến ở nước ta đã có những bứơc phát triển nhanh chóng: chúng ta đã xây dựng và cải tạo hàng loạt các nhà máy chế biến nông sản, với trang thiết bị công nghệ hiện đại của thế giới. Cho nên hàng năm chúng ta đã xuất khẩu được một lượng lớn nông sản qua chế biến ra thị trường thế giới. Thu được lượng ngoại tệ lớn chiếm tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam như : năm 2000 chiếm 39% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (4,35 tỷ USD, năm 2001 là 29% tổng kim ngạch xuất khẩu (4,379 tỷ USD). Để đạt được thanh tựu như vậy là do có sự đóng góp lớn của việc thực hiện có hiệu quả các hình thưcs liên kết giữa sản xuất nguyên liệu thực hiện nhiều các hình thức, kinh tế ,hình thành các công ty cổ phần. 1.1 Hình thành hợp đồng * Có nhiều định nghĩa cho từ hợp đồng nói chung hợp đồng giao ước bị rằng buộc bởi pháp lý, hợp đồng là một loại giao ước hay một loại giao ước mà sự vi phạm của giao ước đó luật pháp sẽ điều chỉnh". Hầu hết chúng ta hiểu một cách trực giác hợp đồng là gì, nhưng vẫn có tình thế xuất hiện mà có thể thoạt nhìn thấy như là hợp đồng thực sự không phỉa là hợp đồng. * Tại điều 1 pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25 - 9- 1989 quy định: Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thảo thuận khác có múc đích kinh doanh, với sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực heịen kế hoạch của mình Để chánh các sai lầm có thể xảy ra trong việc kí kết các hợp đồng kinh tế điều quan trọng trước tiên là các bên phỉa đảm bảo hợp đồng có hiệu lực pháp lý. Hợp đồng kinh tế chỉ có hiệu lực pháp lý khi hội tụ đầy đủ các điều kiện sau: - Chủ thể của hợp đồng kinh tế phải hợp phápháp luật Chủ thể của hợp đồng kinh tế là các chủ thể có tư cách pháp nhân, còn bên kia là pháp nhân hay cá nhan có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật và phải kí kết trong phạm vi nghề nghiệp kinh doanh đã ký Pháp nhân phải là một tổ chức có đủ các điều kiện sau: * Là một tổ chức thành lập một cách hợp pháp. * Có tài sản riêng và chịu trách nhiệm một cách độc lập bằng các tài sản đó. * Có quyền quyết định một cách độc lập về các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. * Có quyền tự mình tham gia các quan hệ pháp luật. - Nội dung của hợp đồng kinh tế phải hợp pháp luật: Theo quy định tại điều 12 pháp lệnh kinh tế thì hợp đồng kinh tế bao gồm các điều khoản sau đây. 1. Ngày tháng năm ký hợp đồng Tên, địa chỉ, tài khoản, ngân hàng giao dịch của các bên Họ, tên người đại diện, người đứng tên đăng kỳ KINH DOANH 2. Điều khoản đối tượng của hợp đồng: tức là bên trao đổi, mua bán, giao dịch về cái gì? công việc gì? 3. Điều khoản chất lượng 4. Điều khoản về giá cả 5. Điều khoản về bảo hành 6. Điều khoản về nhiệm thu, giao nhận 7. Điều khoản về phương thức thanh toán 8. Điều khoản về trách nhiệm do vị phạm hợp đồng kinh tế 9. Điều khoản thời hạn có hiệu lực của hợp đồng 10. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng 11. Các bên có quyền xây dựng những điều khoản thể hiện sự thoả thuận về các vấn đề khác không trái quy định của pháp luật. * Hình thức hợp đồng kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến nông sản và các nhà sản xuất nguyên liêu. Đây là một hợp đồng được ký kết giữa doanh nghiệp chế biến và các nhà sản xuất nguyên liệu để hình thành các vùng nguyên liệu phục vụ cho doanh nghiệp chế biến. Trên cơ sở quy định trách nhiệm về hợp đồng giữa các bên trước pháp luật và xác định quyền lợi của mỗi bê. ở nước ta hiện nay hình thức hợp đồng chủ yếu được kí kết giữa các doanh nghiệp chế biến với hộ nông dân, cho các hợp tác xã, các nông trường và các trang trại. Tiêu thụ nông sản qua hợp đồng góp phần tháo gỡ những bất cập tỏng sản xuất và tiêu thụ nông sản hiện nay, nó góp phần phát triển và ổn định sản xuất nông nghiệp, gắn sản xuất với thị trường và xuất khẩu. Hình thành nên mối quan hệ chặt chẽ giữa các nhà sản xuất nguyên liệu với các doanh nghiệp chế biến và xuất khâủ, hạn chế được tình trạng nông sản dư thừa, không có thị trường tiêu thụ tạo môi trường để doanh nghiệp với các hộ nông dân, các hợp tác xác, các nông trường, các trang trại thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo lượng sản xuất hàng hoá lớn, có chất lượng tốt để xuất khẩu, nâng cao hiệu quả sử dụng đầu tư hỗ trợ của nhà nước. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được kí kết hợp đồng tiêu thụ thay đổi tiêu thụ nông sản theo các hình thức như: Doanh nghiệp cung ứng vốn trước, vật tư, hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ và mua lại nông sản hàng hoá, doanh nghiệp trực tiếp tiêu thụ 1.2 Hình thức công ty cổ phẩn: Theo quy định của luật doanh nghiệp năm 1999 * Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó: - Vồn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. - Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp - Cổ đông có quyền tự do chuỷên nhượng cổ phần của mình cho người khác trừ trường hợp quy định tài khoản 3 điều 55 cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác) và khảon 1 điều 58 trong 3 năm đầu kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận kinh doanh, các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần phổ thông được trào bán, cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lalạp có thể chuyển nhượng cho người không phải là cổ đông nêú được sự chấp nhậ của Đại hội cổ đông. Cổ đông dự định chuyển cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó của luật này . - Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa. - Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán. - Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày đựoc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Là doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, công ty cổ phần có đẩy đủ các quyền và nghĩa vụ của một doanh nghiệp cụ thể là Công ty có các quyền sau: - Chiếm hữu sử dụng, định đoạt các tài sản của công ty. - Chủ đọng lựa trọng ngành, nghề khác, chủ động mở rộng quy mô và ngành nghề kinh doanh. - Chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và kí kết hợp đồng - Lựa trọn hình thức và cách thức huy động vốn - kinh doanh xuất khẩu và nhập khẩu - Tuyển và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh. - Tự chủ kinh doanh, chủ động áp dụng phương pháp quản lý khoa học, hiện đại để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Từ chối và tố cáo mọi yêu cầu cung cấp các nguồn lực không được pháp luật quy định của bất kì cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào, trừ những khoản tự nguyên đóng góp vì mục đích nhân đạo và công ích. - Các quyền khác do pháp luật quy định. * Công ty có nghĩa vụ sau: - Hoạt động kinh doanh theo đúng ngành nghề đã đắng kí. - Lập sổ kế toán, hoá đơn chứng từ và lập báo cáo tài chính trung thực, chính xác. - Đăng kí thuế, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật. - Bảo đảm chất lượng hàng hoá theo tiêu chuẩn đã đăng kí. - Kê khai và định kỳ báo cáo chính xác, đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp và tình hình tài chính cuả doanh nghiệp với cơ quan đăng kí kinh doanh khi phát hiện các thông tin kê khai hoặc báo cáo tài chính, không đầy đủ, hoặc giả mại thì phải kịp thời hiệu đính lại các thông tin đó với cơ quan đăng kí kinh doanh. - Ưu tiên sử dụng lao động trong nước, bảo đảm quyền lợi ích của người lao động theo quy định của pháp luật về lao động, tông trọng quyền của các tổ chức công đoàn theo luật về công đoàn. - Tuân thủ các quy định của pháp luật về quốc phòng, an ninh, trật trự , an toàn xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh. - Thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. * Từ khi bắt đầu triển khai chủ trương cổ phần hoá vào năm 1992 đến hết tháng 11 năm 2001, cả nước đã có 771 doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hoá cổ phần hoá đã có tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Qua cổ phần hoá đã huy động được khoảng 3.000 tỷ đồng vốn xã hội vào sản xuất kinh doanh, đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, nhờ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. các doanh nghiệp cổ phần hoá trên một năm đa số hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, đính chung doanh tăng 1,4 lần, lợi nhuận tăng 2 lần, nộp ngân sách 1,2 lần, thu nhập người lao động tăng 22%, số lao động tăng 5,1% Trong những năm qua ở nước ta đã cổ phần hoá được nhiều các doanh nghiệp chế biến nông sản, làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong những năm qua đã có bước phát triển tốt. - Hình thức liên kết giữa doanh nghiệp chế biến và người sản xuất nông sản được thông qua cổ phần hoá, nó có nội dung: Nhà nước cổ phần hoá các doanh nghiệp chế biến nông sản, đưa một số doanh nghiệp lên thành công ty cổ phần, từ đó phát hành cổ phiếu và trái phiếu bán cho những người trong công ty và những người ngoài doanh nghiệp theo tỷ lệ nhất định, đặc biệt là bán cổ phiếu cho người nông dân cung cấp nguyên liệu đầu vào cho nhà máy. - Tác dụng: Việc cổ phần hoá các nhà máy chế biến đó đã làm cho người nông dân gắn bó với nhà máy, bởi vì một phần tài sản của doanh nghiệp cũng là của họ, nếu nhà máy làm ăn có hiệu quả thu được nhiều lợi nhuận cao thì họ cũng bán được các sản phẩm nguyên liệu là đầu vào cho nhà máy với giá cả tốt, ngoài ra khi doanh nghiệp lam făn có lãi thì họ cũng được hưởng một phần lợi nhuận đó. Chình vì vậy việc liên kết giữa sản xuất nguyên liệu và công nghệ chế biến thông qua việc hình thành các công ty cổ phần là rất có hiệu quả, cần đựoc phát huy và mở rộng. Thực tiễn những năm qua một số doanh nghiệp chế biến đã cổ phần hoá đã làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiêụ quả hơn. Đạt được điều đó chính là nhờ có cỏ phần hoá mà mối quan hệ giữa sản xuất nguyên liệu và công nghiệp chế biến nông sản gắn bó mật thiết với nhau, đó là nhờ vào mối quan hệ lợi ích gắn bó với nhau mật thiết 2.Nhứng thành tựu đạt được. 2.1 Từ phía sản xuất nguyên liệu nông sản 2.1.1 Về công tác quy hoạch. Trong những năm qua, công tác quy hoạch đã được chú trọng và thực hiện đồng bộ hơn. Đã hình thành được một số vùng sản xuất nguyên liệu tập trung gắn với công nghiệp chế biến. Nước ta đã hình thành được các vùng sản xuất hàng háo có quy mô lớn như: vùng lúa đồng bằng Sông Cửu Long, vùng cây ăn quả ở Nam Bộ, Bắc Giang) vùng chuyên canh cây công nghiệp ở Tây Nguyên ( cà phê, cao su, tiêu, điều…), Vùng lúa ở Đồng Bằng Sông Hồng, vùng lúa ở Duyên Hải miền Trung 2.1.2. Sản lượng và chất lượng nguyên liệu: Nhờ động lực to lớn của chính sách đổi mới thập lỷ 90 đã đánh dấu một thời kỳ quan trọng của nông nghiệp Việt Nam chuyển mạnh từ nền sản xuất tư cấp , tự túc sang sản xuất hàng hoá. Liên tục trong 10 năm ( 1989- 1999) sản xuất nông nghiệp đạt nhịp độ bình quân 4,3%/ năm. Nông nghiệp phát triển khá toàn diện và bền vững. lần hàngNăng suất nhiều loại cây con đều tăng năng suất lúa tăng 33%, cà phên tăng 6-7 lần, cao su tăng 27%.. An ninh lương thực quốc gia được đảm bảo. Từ mức nhập khẩu hàng năm 600 nghìn đến 1 triệu tấn lương thực đén năm 1989 Việt Nam đã xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, năm 2000 đạt tổng sản lượng lương thực quy thóc 35,64 triệu tấn, đưa lương thực bình quan đầu người từ 330 kg năm 1990 lên 444kg năm 2000. - Chăn nuôi tiếp tục phát triển chiếm 13-14% giá trị toàn ngành và tăng bình quân 5,.4% giá trị sản lượng thủy sản bình quân hàng năm tăng lên 8,8%, trong đó sản lượng nuôi trồng tăng 13%/ năm ( xem bảng dưới) Sản lượng một số loại nguyên liệu nông sản chính Lúa Chè Cà phê Mía Thuốc lá Cao su 1995 249763,7 40,2 218,0 10711,1 27,7 124,7 1997 27623,9 52,2 420,5 11920,9 27,2 186,5 1998 29145,5 56,6 409,3 13843,5 33,3 193,5 1999 31393,8 70,2 509,8 11761,3 35,6 248,7 2000 32554,0 76,5 698,2 15246,0 27,2 291,1 2001 32911,3 84,1 632,4 14325,4 31,0 331,5 Nguồn: niên giám thống kê 2002 2.1.3 Về đầu tư phát triển vùng nguyên liệu đã thu hút được sự quan tâm của các cấp có thẩm quyền cũng như của các doanh nghiệp. - Tổng vốn đầu tư cho máy móc và thiết bị chế biến tăng đáng kể đối với nhà máy chế biến cà phê từ nay đến năm 2010 đầu tư khoảng 1.700 tỷ đồng, đối với Nhà máy chế biến cao su, các dây chuyền sẵn có đang dần dần được nâng cấp, hiện đại hoá . - Giống mới được sử dụng hơn 90% diện tích gieo trồng lúa và 60% diện tích ngô bắp giá trị sản xuất nông nghiệp trên 1 ha giao trồng tăng từ 13,5 triệu năm 1996 18 triệu đồng năm 2001 - Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn được tăng cường, nhất là về thuỷ lợi tăng lên gần 3 triệu ha năm 1996, đảm bảo tưới gần 80% diện tích giao trồng. 2.1.4. Về công tác tổ chức sản xuất, quản lý vùng nguyên liệu. Việc sản xuất quản lý vùng nguyên liệu ngày càng được tổ chức khoa học luôn theo hướng kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ trong đó đóng vai trò tiên phong phải kể đến 2 nông trường Sông Mậu và Nông trường Cờ Đỏ. 2.1.5 Về lợi ích của người dân: Đời sống nông dân ở hầu hết các vùng được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân hộ đạt hơn 10 triệu đồng/ năm, tăng 29,8% so với năm 1993. Hộ đói nghèo ở nông thôn giảm 8,08% lên 20%. Tốc độ tăng thu nhập bình quân hàng năm ở khu vực nông thôn trong 3 năm 1996-1999 là 6% thu nhập bình quân đầu người trên năm 1999 so với năm 1992 đều tăng từ 3 đến 4,85 lần 2.2 Công nghiệp chế biến Nhờ có sự liên kết có hiệu quả nên trong những năm qua có hàng loạt các nhà máy chế biến nông sản ra đời với công nghệ và kỹ thuật hiện đại của thế giới, chế biến nhiều các loại nông sản khác nhau như: chè, cà phề, hạt điều, rau quả, mía cây.. cho nên dã hình thành được nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hoá lớn có mối quan hệ chặt chẽ với các nhà máy. Nông sản hàng hoá lớn có mối quan hệ chặt chẽ với các nhà máy chế biến nông sản ra đời, với công nghệ và kỹ thuật hiện đại của thế giới, chế biến nhiên liệu các loại nông sản khác nhau như: chè, cà phê, hạt điều , ra qủa, mía cây… cho nên đã hình thành được nhiều vòng sản xuất nông sản hàng hoá lớn có mối quan hệ chặt chẽ với các nhà máy. Nhờ vậy trong những năm qua chúng ta đã chế biến ra các sản phẩm không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và hàng năm chúng ta đã xuất khẩu và thu về lượng ngoại tệ lớn cho đất nước, làm giảm cán cân giữa xuất và nhập khẩu. Như năm 2000 chúng ta xuất khẩu 4,35 USD, năm 2001 đạt 4,379 tỷ USD, năm 2002 đạt 4,6 tỷ USD 2.3. Về vai trò của nhà nước. Từ khi nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ ngiã có sự quản lý của nhà nước thì vai trò của nhà nước đối với phát triển kinh tế đất nước, cũng như kinh tế nông nghiệp nông thôn ngày càng tăng cường. Nghị quyết 10 của bộ chính trị ban hành năm 1988 được coi là đột phá đê ra giải pháp tình thế, đã chặn được sự sa xút trong nông nghiệp nông thôn ngày càng tăng cường . Nghị quyết 10 của Bộ tài chính ban hành năm 1988 được coi là khâu đột phá đề ra giải pháp tình thế, đã chặn được sự sa xút trong nông nghiệp, hộ nông dân trở thành dơn vị sản xuất tự chủ, ngày càng có nhiều hộ nông thôn làm ăn giỏi và trở lên giàu có, tiến lên sản xuất hàng hoá, theo mô hình trạng thái. Kết quả là hình thành nhờ được một số vùng sản xuất nông sản tập trung phục vụ cho công nghiệp chế biéen. Nhà nước coi công nhận các thành phần kinh tế của kinh tế thị trường cùng tồn tại và phát triển và được coi là sự ngang bằng nhau, nhờ vậy lên thu hút được nhiều nguồn vốn của xã hội và sản xuất nông nghiệp và vào công nghiệp chế biến nông sản. Ngoài ra, nhà nước còn ban hành một số chính sách như: chính sách ruộng đất, chính sách giao đất giao rừng… những thay đổi về chính sách nông nghiệp nông thôn đã phát huy tác dụng tích cực, tạo ra bước phát triển rõ rệt đối với kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung, các vùng nguyên liệu nông sản và công nghiệp chế biến nói riêng. Nhờ các chủ trương và chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước đã làm cho sản xuất nông nghiệp phát triển rất nhanh, từ đó đã ra đời hàng loạt nhà máy chế biến quan hệ, tác động, phụ thuộc mạnh mẽ lẫn nhau làm cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nông nghiệp nong thôn diễn ra rất nhanh, hình thành được hàng loạt các vùng gán sản xuất nguyên liệu với công nghiệp chế biến như; các vùng chè ( Thái nguyên) , mía đường, cao su,. Cà phê nhờ vậy mà kim ngạch xuất khẩu nông sản của nước ta liên tục tăng năm 1990 là gần 1,2 tỷ đô la, năm 1995 là gần 2,5 tỷ đô la, năm 2001 là gần 4,4 tỷ đo la ( theo liên giám thống kê 2000) 3. Hạn chế. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc thực hiện liên kết đó vẫn còn nhiều hạn chế. Việc thực hiện hợp đồng giữa doanh nghiệp và người sản xuất nguyên liệu còn nhiều vấn đề bất cập, hợp đồng còn chưa mang tính pháp lý cao lên trong những năm vừa qua đã xảy ra nhiều hiện tượng vi phạm hợp đồng làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, làm cho họ mất lòng tin vào nhau. Ví dụ như ở công ty Bông ó Đồng Lai liên vụ 2002 - 2003 có tình trạng người nông dân vi phạm hợp đồng ký với công ty Bông Đông Lai. Ngay khi vừa khởi động vụ thu hoạch bông ( 12/2002) từ thưởng đã tranh mua quyết liệt làm cho giá bông lên cao và nhân dân đã bán bông cho tư thương, mà không bán ho nhà máy theo hợp đồng đã ký dẫn đến công nhân thì không có việc làm hoạt động sản xuất nhà máy bị đình đốn. Ngoài ra còn có trường hợp vi phạm từ phía nhà máy như tình trạng mấy năm trước do giá đường đã ký làm cho công nhân phải đót bỏ mía, làm cho người dân đã nghèo lại càng nghèo hơn. Chình vì vậy những hạn chế trên cho nên làm ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu nông sản của nước ta, hoạt động xuất khẩu nông sản vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng thế mạnh của nước ta về phát triển nông nghiệp, làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế 4. Nguyên nhân : 4.1. Nguyên nhân từ các cấp quản lý - Trình độ tổ chức và thực hiện quy hoạch: + Chưa gắn kết với quy hoạch với chính sách thực hiện quy hoạch, tạo ra là tổng cho việc phát triển tự phát, kém bền vững, dẫn đến tình trạng vừa thừa vừa thiếu nguyên liệu. + Trinh độ tổ chức và thực hiện các quy hoạch của các cấp quản lý còn nhiều hạn chế + Do việc xử lý vi phạm hợp đồng của pháp luật chưa dứt điểm, còn lúng túng trong việc xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật. - Chính sách đầu tư cho phát triển vùng nguyên liệu chưa thoả đáng + Việc đầu tư phát triển hệ thống thuỷ lợi cho vùng trồng cây công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức. + Thiếu giống chất lượng cao, hiên nay phần lới sử dụng các giống cũ, cho năng suất thấp. Trong khi đó, việc đầu tư công tác giống quá ít ỏi, cơ sở vật chất kĩ thuật nghèo nàn, đội ngũ cán bộ làm công tác giống chưa được chú ý đạo tạo đủ trình độ tiếp cận tiến bộ khoa học kĩ thuật mới + Năng suất các loại cây nguyên liệu chưa caok do thiếu vốn đầu tư.s + Cơ chế chính sách còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ. + Việc triển khai và thực hiện các ký kết hợp đồng kinh tế giữa các doanh nghiệp và với nông dân vùng nguyên liệu còn chậm và gần như chừa phát huy tác dụng trên thực tế, do chưa có quy chế về xử lý vi phạm hợp đồng của nhà nước, do đó tình trạng vi phạm hợp đồng kinh tế của các doanh nghiệp và người dân đặc biệt từ phía doanh nghiệp thường xuyên xaỷ ra. 4.2 Nguyên liệu từ phía doanh nghiệp - Hầu hết các nhà máy chế bién chưa quan tâm đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu thậm chí có nhà máy không thực hiện vùng nguyên liệu - Không giải quyết thoả đáng về mặt lợi ích vật chất cho người nông dân. Nhiều trường hợp doanh nghiệp lạm dụng thế độc quyền thu mua nguyên liệu gây sức ép đối với hộ nông dân về giá cả, tiêu chuẩn chất lượng. Bên cạnh đó, do cơ chế quản lý lỏng lẻo, tình trạng các doanh nghiệp làm ăn thiếu trách nhiệm đối với người dân còn khá phổ biến. - Các doanh nghiệp chưa xây dựng được mối quan hệ liên kết giữa sản xuất nguyên liệu với công nghiệp chế biến, dẫn đến tình trạng khủng hoảng về nguyên liệu. - Các cơ sở chế biến công nghiệp còn manh mún, quy mô nhỏ, năng suất thấp, hoạt động kém hiệu quả. - Chế biến chủ yếu thủ công, chưa khoa học. Do thiếu các thiết bị công nghệ chế biến nên sản phẩm có chất lượng kém. - Lâu nay có hiện tượng khi mấy chưa xây dựng thì nông dân đã trồng tự phát, ồ ạt tràn lan, không ai mua, sau khi có nhà máy, nông dân đã mỏi mệt chuyển sang cây trồng khác, dự án sản xuất lại khan hiếm nguyên liêu. 4.3 Từ phía người nông dân. - Do nhận thức từ phía người nông dân thấp kém về kiến thức thị trường, nông dân không có khả năng dự toán về nhu cầu, xu hướng phát triển của thị trường, mùa chủ yếu hành động mang tính tự phát là chủ yếu, ồ ạt trồng khi giá nguyên liệu lên cao rồi lại ào ạt phá khi giá xuống, không theo quy định. - Người nông dân còn chưa quen với cung cách làm ăn mới là thông qua hợp đồng khiến nhiều doanh nghiệp muốn thực hiện cũng khó tìm đối tác. - Tỷ lệ lao động được đào tạo chuyên môn kỹ thuật còn rất thấp, thực tế này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng nguyên liêu. 4.4 Ngoài ra còn những nguyên nhân khác - Kết cấu hạ tầng nông thôn, nhất là hạ tầng phục vụ sản xuất tuy đã có nhiều tiến bộ đáng kể, song so với yêu cầu phát triển kinh tế nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn rất kém và lạc hậu. - Nhìn chung cơ cấu kinh tế nông thôn hiên nay vẫn nặng nề về sản xuất nông nghiệp độc cạnh ở nhiều vùng với năng suất và chất lượng nông sản chưa cao, độ đồng đều thấp, mức độ tập trung hàng hoá chưa nhiều. Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất tuy có tiến bộ một bước, nhưng chậm và không vững chắc. Đặc biệt không ít nơi chuyển dịch thiếu định hướng quy hoạch manh mún, mang tính tự phát. - Lực lượng lao động ở nông thôn có trình độ thấp, phần lớn chưa được đào tạo nghề nghiệp chỉ có khoảng 3,5% lao động được đào tạo so với tổng số lao động ở nông thôn. Chủ yếu vẫn là lao động thủ công, có bản năng kém và chất lượng kém. Điều đó đã và đang là thách thức to lớn trong việc liên kết giữa sản xuất nguyên liệu và công nghiệp chế biến - Sự thành công của 17 năm đổi mới, bên cạnh vịêc có cơ chế chính sách đúng đắn phải thừa nhận yếu tố khoa học, công nghệ trước hết là công nghệ sinh học đã góp phần quan trọng cho sự thành công này. Song nhìn chung công nghệ sinh học nói riêng và khoa học công nghệ nói chung ở nước ta vẫn đang ở tình trạng lạc hậu và thấp kém nhiều so với các nước trong khu vực. Sản phẩm làm ra chất lượng chưa cao, sức cạnh tranh trên thị trường còn yếu, đòi hỏi phải được đầu tư lớn để tăng cường tiền lực khoa học công nghệ trong khi vốn rất thiếu đang là một mâu thuẫn và thách thức gay gắt. - Một số nền kinh tế lớn tăng trưởng chậm, thậm chí có dấu hiện suy thoái đã lmà hẹp thị trường tiêu thụ hàng hoá nói chung, thị trường hàng nông sản nói riêng ở nước ta. - Do viến động thường xuyên của giá cả trên thị trường thế giới, gây ảnh hưởng lớn đến giá cả nguyên liệu cũng như sản xuất hàng hoá nông sản trong nứoc, ảnh hưởng xấu đến tâm lý người nông dân. - Sản xuất nông sản chứa nhiểu rủi ro về thời tiết dịch bệnh trong khi giá cả trong nước và trên thế giới thường xuyên biến động nhưng vẫn chưa có một phương án bảo hiểm rủi ro nào cho nông nghiệp hoặc cơ chế bảo hiểm nào có hiệu quả. - Có nhiều bất cập từ khâu đầu tư, thu hoạch, vận chuyển một số nguyên liệu thiếu ổn định diện tích, năng suất, sản lượng khi thì lên cao khi thì xuống thấp ảnh hưởng đế khai thác hết công suất và đảm bảo hiêụ quả kinh doanh của nhà máy. - Công tác thông tin thị trường ở nứoc ta hiên nay chưa được giải quyết tốt ở các cấp doanh nghiệp, chính phủ và các tổ chức hỗ trợ thương mại Chương III. Giải pháp tăng cường liên kết giữa sản xuất nguyên liệu và công nghiệp chế biến nông sản ở nước t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35524.doc
Tài liệu liên quan