Đề tài Thất thoát, lãng phí trong đầu tư XDCB: Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

Lời mở đầu 1

Phần I: Lý luận chung 2

I. Khái niệm về đầu tư cơ bản, đầu tư

XDCB, và XDCB 2

II. Vai trò của hoạt động XDCB 3

III. Chỉ tiêu xác định thất thoát, lãng phí trong hoạt động đầu tư XDCB 5

Phần II: Thất thoát, lãng phí trong đầu tư XDCB: thực trạng và giải pháp 12

I. Thực trạng và nguyên nhân của hiện tượng thất thoát, lãng phí trong đầu tư XDCB 12

1. Thất thoát, lãng phí trong khâu xác định chủ trơng đầu tư 13

2. Thất thoát,lãng phí trong khâu thẩm định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật-tổng dự toán 15

3. Thất thoát lãng phí vốn trong đấu thầu xây dựng 18

4. Thất thoát, lãng phí do công tác chuẩn bị xây dựng 19

 

5. Thất thoát, lãng phí trong khâu tổ chức thực hiện dự án 21

 

I. Một số giải pháp nhằm hạn chế thất thoát lãng phí trong đầu tư XDCB 24

KẾT LUẬN 27

doc29 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 3085 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thất thoát, lãng phí trong đầu tư XDCB: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dẫn đến phát sinh tiêu cực trong hoạt động đầu tư . Khi đánh giá thất thoát, lãng phí vốn đầu tư và xây dựng ở khâu này cần phân tích xem xét theo nhưng tiêu chí như: + Khối lượng từng loại công việc theo thiêt kế kỹ thuật, thiết kế tổ chức thi công. Đánh giá khối lượng thực tế theo thiết kế; đánh giá tính hợp lý của khối lượng thiết kế so với yêu cầu về kỹ thuật, công nghệ Qua đó rút ra những nhận xét và lượng hóa nhưng thất thoát, lãng phí do khâu thiết kế sai gây ra: kê khống khối lượng, thiết kế sai dẫn đến phải phá bỏ khối lượng đã làm để làm lại theo thiết kế điều chỉnh hoặc bổ sung, tính toán khối lượng sai quy phạm, quy chuẩn. + Sử dụng sai định mức kinh tế- kỹ thuật của Nhà nước ban hành cho từng loại công trình theo quy phạm và quy chuẩn. + áp dụng sai giá cả theo từng loại vật tư thiết bị đã được Sở tài chính vật giá thông báo theo thực tế tại thời điểm tính toán, nghiệm thu tính toán. + áp dụng sai, hoặc do tình toán sai về khối lượng định mức, giá cả dẫn đến tính toán sai về các loại chi phí tính theo định mức. Nhìn chung, sau chủ trương đâu tư thất thoát, lãng phí trong quản lý chi phí và giá khá lớn. Vì vậy việc xem xét, đánh giá thât thoát, lãng phí, tham nhũng có thể xảy ra do khâu lập tổng dự toán, dự toán, quản lý giá và chi phí trong hoạt động đầu tư XDCB có vị trí quan trọng trong ngăn ngừa tiêu cực. Thất thoát, lãng phí, tiêu cực có thể xẩy ra trong khâu đền bù, giải phóng mặt bằng xây dựng. Đây là khu vực nhậy cảm cả về kinh tế và xã hội và cũngg là khu vực dễ bộc lộ những sơ hở gây ra thất thoát, lãng phí. Khi đánh giá thất thoát lãng phí, tiêu cực trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản cần dựa vào các căn cứ: + Xem xét tính pháp lý và hợp lý của phương pháp dền bù giải phóng mặt bằng, phương án đền bù và phương án tái định cư của các hộ dân phải di chuyển dể giải phóng mặt bằng. + Xem xét đánh giá việc vận dụng các chính sách, chế độ của nhà nước đối với công tác giải phóng mặt bằng như : việc xác định giá nhà, giá đất, hệ số sử dụng đất, hệ số xác định loại và hạng đất áp dụng trong phương án đền bù. + Kiểm tra tính chính xác của số hộ dân, số tài sản của dân cư trong phương án đền bù và trong quá trình thực hiện đền bù. + Kiểm tra, đánh giá những thất thoát, lãng phí, tham nhũng vốn và tài sản trong quá trình quản lý, triển khai công tác đền bù giải phóng mặt bằng xây dựng, tái định cư các hộ dân. 3. Nhóm tiêu chí đánh giá thất thoát, lãng phí, tiêu cực có thể xẩy ra trong công tác triển khai và điều hành kế hoạch đầu tư hàng năm Việc bố trí triển khai kế hoạch đầu tư hàng năm cũng là khâu dễ gây ra lãng phí, thất thoát, tiêu cực dẫn đến tham nhũng bởi các hiện tượng như: Bố trí danh mục các dự án đầu tư vào kế hoạch đầu tư hàng năm quá phân tán, không sát với tiến độ thi công của dự án đã được phê duyệt. Danh mục dự án đầu tư càng nhiều, thời gian đầu tư càng bị kéo dài, dẫn đếnlãng phí, thất thoát vốn đầu tư cả trực tiếp và gián tiếp. Không đủ điều kiện để bố trí kế hoạch vẫn ghi vào kế hoạch đầu tư hàng năm làm cho việc triển khai kế hoạch gặp khó khăn, phải chờ đợi, hoặc có khi có khối lượng thực hiện vẫn không đủ điều kiện thanh toán. Bố trí kế hoạch không theo sát các mục tiêu định hướng của chiến lược, của kế hoạch 5 năm cũng sẽ dẫn đến gián tiép làm thất thoát , lãng phí vốn đầu tư sau này: bởi vì khi dự án hoàn thành đưa vào khai thác, sử dụng sẽ thiếu đồng bộ với các hoạt động khác của các ngành và cả xã hội. Bố trí kế hoạch đầu tư hàng năm cho các dự án không theo sát tiến độ đầu tư thực hiện dự án được cấp thẩm quyền phê duyệt trong quyết định đầu tư . 4. Nhóm tiêu chí đánh giá thất thoát, lãng phí, tiêu cực vốn đầu tư có thể xẩy ra trong khâu lựa chon nhà thầu. Trong thực tế lâu nay đã áp dụng 2 hình thức lựa chọn nhà thầu là chỉ định và đấu thầu xây dựng. Hình thức chỉ định thầu áp dụng rất hạn chế vì bị coi là lạc hậu, thiếu yếu tố cạnh tranh, nên chỉ áp dụng cho những gói thầu của các dự án đầu tư có giá trị dưới 1 tỷ đồng, dự án thử nghiệm, dự án sản xuất chất nổ, dự án khắc phục hậu quả của thiên tai (lụt bão, sụt lở). Hình thức đấu thầu là hình thức tiến bộ trong chọn thầu xây dựng, nhưng trong thực tế đã và đang diễn ra nhiều tiêu cực gây ra thất thoát, lãng phí và tham nhũng làm sai lệch bản chất đấu thầu do : Không thực hiện đúng trình tự đấu thầu Xét thầu, đánh giá để loại nhà thầu khi lựa chọn nhà thầu không chính xác, thiếu chuẩn mực. Hiện tượng thông đồng giữa các nhà thầu khi tham gia đấu thầu đã khống chế giá trúng thầu cho đơn vị được thoả thuận để thắng thầu (các nhà thầu thoả thuận với nhau để một nhà thầu nào đó thắng thầu bằng cách bỏ giá thầu cao hơn gía của nhà thầu đã thoả thuận ). Việc chuẩn bị tổ chức đấu thầu và công tác tổ chức đấu thầu không đảm bảo chất lượng cũng sẽ dẫn đến gây thất thoát, lãng phí và tiều cực về vốn và tài sản trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. 5. Nhóm tiêu chí đánh giá thất thoát, lãng phí trong khâu thanh toán vốn đầu tư. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản chỉ được thanh toán cho giá trị khối lượng thực hiện đã hoàn thành, đủ điều kiện thanh toán. Do đó, khi thanh toán vốn đầu tư nếu thoát ly các điều kiện của giá trị khối lượng hoàn thanh đủ điều kiện thanh toán sẽ gây lãng phí, thất thoát và các hiện tượng tiêu cực có thể xẩy ra. Để đánh giá mức độ lãng phí, thất thoat và ngăn chặn thất thoát, lãng phí vốn đầu tư trong khâu thanh toán cần phải bám sát các điều kiện làm căn cứ cho thanh toán vốn đầu tư như: Có đủ thủ tục pháp lý về đầu tư theo quy định. Có quyết định thành lập Ban quản lý dự án, quyết định bổ nhiệm trưởng ban, bổ nhiệm kế toán trưởng, mở tài khoản thanh toán ở kho bạc Nhà nước. Có kế hoạch đầu tư được thông báo. Có quyết đinh đơn vị trúng thầu (đối với đấu thầu) hoặc quyết định chỉ định thầu. Có hợp đồng kinh tế gửi chủ đầu tư (bên A) và nhà thầu (bên B) Có khối lượng hoàn thành đủ điều kiện thanh toán được A-B nghiệm thu, bên A chấp nhận và đề nghị thanh toán. Những căn cứ nêu trên là tiêu chí để phân tích, đánh giá và xác định nguyên nhân của thất thoát, lãng phí vốn đầu tư XDCB xảy ra trong khâu thanh toán. 6. Tiêu chí đánh giá thất thoát, lãng phí, tiêu cực vốn đầu tư trong khâu quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành. Khi dự án hoàn thành sẽ được nghiệm thu, quyết toán vốn đầu tư hoàn thành để giao cho đơn vị sử dụng, quản lý nhằm vừa bảo toàn vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Do vậy, toàn bộ vốn đầu tư xây dựng dự án từ khâu chuẩn bị đầu tư đến khi dự án hoàn thành được nghiệm thu đầy đủ và báo cáo quyết toán sẽ được thẩm tra để phê duyệt. Khâu thẩm tra quyết toán chính xác trước khi phê duyệt sẽ có tác dụng tích cực ngăn chặn thất thoát, lãng phí vốn đầu tư. Công tác quyết toán, thẩm tra phê duyệt quyết toán làm kém, thực hiện không đầy đủ sẽ tạo cơ sở pháp lý cho tình trạng lãng phí, thất thoát vốn đầu tư. Phần II: Thất thoát, lãng phí trong đầu tư XDCB: thực trạng và giải pháp. I - Thực trạng và nguyên nhân của hiện tượng thất thoát, lãng phí trong đầu tư XDCB Trong thời gian qua, những thành tựu về đầu tư xây dựng đã mang lại to lớn cho sự phát triển kinh tế – xã hội, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên bên cạnh đó lĩnh vực này cũng đã bộc lộ khá nhiều yếu kém như: chất lượng, hiệu quả nhiều công trình chưa cao, đầu tư chưa tập trung hoàn chỉnh, đặc biệt là còn thất thoát vẫn còn ở con số quá lớn Mặc dù cho đến nay đã có bao nhiêu cuộc thanh tra, kiểm tra, nhiều vụ án hình sự và hàng trăm cuộc hội thảo nhằm hạn chế và tìm ra nguyên nhân tiêu cực trong lĩnh vực XDCB, nhưng có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng: Không ai có thể đưa ra một con số chính xác về tỷ lệ thất thoát, lãng phí tham nhũng là bao nhiêu phần trăm trên tổng số nguồn vốn trong đầu tư XDCB. Chỉ biết là, mỗi một người có trách nhiệm khác nhau đã đưa ra những con số khác nhau như: 10%, 20%, 30%, 40% thậm chí là 50%. Trong cuộc hội thảo tầm cỡ quốc gia gần đây với tiêu chí: “Làm thế nào để chống thất thoát trong đầu tư XDCB” người ta đã công bố, hàng năm, riêng thất thoát trong XDCB đã lên tới 25.000 tỷ đến 30.000 tỷ đồng. Số tiền thất thoát đó đủ để trả lương cho toàn bộ công chức và viên chức khối hành chính sự nghiệp. Con số trên cho thấy thất thoát, lãng phí vốn đầu tư xây dựng của Nhà nước đã và đang ở mức độ nghiêm trọng, làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích xã hội, lòng tin của nhân dân. Hiện nay, thất thoát lãng phí trong đầu tư XDCB đã và đang là điểm nóng rất nhạy cảm, được dư luận rất quan tâm. Tuy nhiên, có một thực tế đáng buồn là tình trạng này đang diễn ra phổ biến ở các dự án thuộc khu vực kinh tế nhà nước, đặc biệt là các dự án đầu tư XDCB từ nguồn ngân sách nhà nước. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra sự mất cân bằng về tài chính của Nhà nước. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới việc gây thất thoát, lãng phí trong đầu tư XDCB hiện nay ở nước ta, nhưng trong phạm vi đề tài này chúng tôi xin phép phân tích một phần thực trạng và rút ra một vài nguyên nhân cơ bản sau đây: 1. Thất thoát, lãng phí trong khâu xác định chủ trương đầu tư: Hầu hết các dự án được đầu tư đều xuất phát từ nhu cầu thực tế và trên cơ sở quy hoạch chung, nhưng trên thực tế có trường hợp không có quy hoạch hoặc quy hoạch chưa hợp lý phải điều chỉnh lại, hoặc trong quá trình lập dự án do khảo sát không kỹ, lựa chọn địa điểm, công nghệ chưa thích hợp, đầu tư không đồng bộ giữa các hạng mục, xác định quy mô xây dựng công trình vượt quá nhu cầu sử dụng Các nguyên nhân này đều dẫn đến thất thoát, lãng phí và tiêu cực khá lớn. Nguyên nhân dẫn đến quyết định chủ trương sai một phần do trình độ, nhận thức, quan điểm của người có thẩm quyền chưa đủ tầm, một phần do công tác kiểm định của cơ quan chuyên môn tham mưu cho người có thẩm quyền. Do đó không ít các dự án sau khi ra quyết định đầu tư, việc triển khai thực hiện dự án đến khi hoàn thành và đưa vào sử dụng thì sử dụng không hết công suất hoặc công nghệ lạc hậu nên chất lượng sản phẩm làm ra thấp, giá thành cao, kinh doanh bị thua lỗ. Thật vậy, tình trạng đầu tư tràn lan, công nghệ lạc hậu khá phổ biến: theo số liệu điều tra thì máy móc thiết bị của Việt Nam lạc hậu so với thế giới từ 19 đến 20 năm, bình quân lạc hậu 2-3 thế hệ. Hơn 55% là trình độ thủ công, 41% là trình độ cơ khí và chưa đầy 4% là trình độ tự động hoá. Thêm vào đó là việc trong quá trình đầu tư chưa tính toán đày đủ tính đồng bộ từ cơ sở SXKD đến nguyên liệu, năng lực thị trường tiêu thụ và khả năng cạnh tranh của các đối tượng khác. Hậu quả là công suất hoạt động thấp (khoảng 50 – 60%), giá thành cao, sản phẩm tiêu thụ chậm , doanh nghiệp bị thua lỗ, thậm chí không nộp đủ thuế. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, một số tỉnh đổ xô vào làm nhà máy bia và nước ngọt. Trong đó có nhiều nhà máy thất bại thảm hại như nhà máy bia tỉnh Sóc Trăng được xây dựng vào tháng 4/1994 với thiết bị, công nghệ CHLB Đức có công suất thiết kế là 5 triệu lít bia và 8 triệu lít nước ngọt/năm. Nhà máy đi vào hoạt động từ tháng 5/1996 và chỉ sản xuất được 574.321 lít, đạt 11,5% công suất thiết kế và sau 2 năm hoạt động nhà máy bị lỗ gần 14,5 tỷ đồng. Khi có nhu cầu về xi măng lớn, Chính phủ có chủ trương đầu tư vào xi măng và thế là một loạt các nhà máy xi măng lò đứng với công suất 500 nghìn tấn/năm, thiết bị Trung Quốc ở các địa phương ra đời như: xi măng Thanh Ba (Phú Thọ), xi măng Hà Bắc, xi măng Sơn LaDo vậy, trên 50 nhà máy xi măng lò đứng thiết bị Trung Quốc được đầu tư bằng nguồn vốn vay đã ra đời. Nhưng sản phẩm làm ra có chất lượng kém, giá thành cao nên phần lớn những nhà máy này không đủ khả năng nộp thuế và trả nợ. Rồi sau đó lại đến lượt các nhà máy đường với thiết bị do Trung Quốc cung cấp lại ra đời để đảm bảo mục tiêu 1 triệu tấn đường nhưng cũng rơi vào tình trạng thua lỗ trần trọng. Thêm vào đó, khi Chính phủ có chủ trương đầu tư qua hình thức tín dụng ưu đãi cho đóng tàu đánh cá xa bờ, thế là một loạt các dự án đánh cá xa bờ được thực duyệt. Đối tượng vay theo hình thức này hầu hết là các hộ tư nhân vay tín dụng ưu đãi của Nhà nước để đầu tư vào phương tiện đánh bắt. Trong khi đó hoạt động đánh bắt cá xa bờ chưa được đầu tư đồng bộ từ tàu đánh cá, dịch vụ, cơ sở chế biến, thị trường tiêu thụ nên đã có địa phương khối lượng đánh bắt vượt quá khả năng về sức mua, giá cá chỉ đạt 1000đ/kg. Một số quyết định đầu tư khác như: Thuỷ cung Thăng Long, hệ thống thoát nước Nhiêu Lộc – Thị Nghè có sự tắc trách của các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư và xây dựng ở khâu thẩm định dự án, chọn hình thức và đối tác quản lýnên khi đưa ra quyết định về chủ trương đầu tư thiếu chính xác, không hợp lý gây ảnh hưởng nghiên trọng làm thất thoát lãng phí vốn, tài sản của Nhà nước. Nguyên nhân của vấn đề gây thất thoát, lãng phí do những sai lầm trong chủ trương đầu tư ở các cấp, các ngành, điạ phương là do: Việc bàn bạc, cân nhắc, tính toán về khía cạnh hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, môi trường đầu tư còn hời hợt, thiếu cụ thể. Có không ít trường hợp khi quyết định về chủ trương đầu tư còn nặng về phong trào, chạy theo thành tích nên kéo theo tình trạng đầu tư tràn lan, kém hiệu quả. 2. Thất thoát,lãng phí trong khâu thẩm định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật-tổng dự toán: Công tác thẩm định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán ở nhiều địa phương, nhiều ngành còn tình trạng chưa tuân thủ các quy định về nội dung được phê duyệt trong quyết định đầu tư của dự án, áp dụng sai định mức, sai đơn giáđã tạo khe hở, khó khăn cho công tác quản lý, thanh toán và quyết toán vốn đầu tư dẫn đến lãng phí, thất thoát vốn: Một là, tình trạng một số cấp có thẩm quyền ra quyết định đầu tư, quyết định phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, dự toán chi tiết thiếu chính xác dẫn đến phải bổ sung, điều chỉnh nhiều lần, thậm chí có không ít dự án vừa thiết kế, vừa thi côngđến giai đoạn cuối hoặc khi xong công trình mới trình duyệt hoặc xin điều chỉnh tổng dự toán nhằm hợp thức hoá các chi phí đã phát sinh. Điều này có thể thấy rõ ở dự án tu bổ, tôn tạo Nhà hát lớn Thành phố Hà Nội đã hoàn thành từ năm 1997 nhưng tổng dự toán vẫn chưa được phê duyệt, Bộ Văn hoá - Thông tin vẫn chưa giải trình được cơ sở xác định giá trị tổng dự toán. Một ví dụ khác là các dự án đê điều, do tính chất quan trọng của công tác đê điều nên các chủ đầu tư được phép chỉ định đơn vị thi công và triển khai thi công trong khi vừa thiết kế, lập dự toán do đó tình trạng này ảnh hưởng đến khâu thanh toán và quyết toán khi công trình hoàn thành. Năm 2001 công tác tu bổ đê điều được bố trí kế hoạch là 160 tỷ đồng, Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn triển khai phân bổ chỉ tiêu kế hoạch cho 19 tỉnh có đê từ Hà Tĩnh trở ra, nhưng chưa có dự toán nên hợp đồng kinh tế A-B không ký được. Do đó, các đơn vị thi công không được tạm ứng vốn mà phải tự bỏ vốn ra thi công mặc dù Bộ Tài Chính đã có công văn cho phép được tạm ứng 50% kế hoạch vốn đầu tư năm khi hợp đồng được ký kết. Có những dự án gần hoàn thành vẫn không có tổng dự toán được duyệt, không có cơ sở để quản lý và kiểm soát thanh toán vốn cho dự án. Hai là, chế độ Nhà nước quy định về chi phí tư vấn (khảo sát, thiết kế) được tính tỷ lệ thuận theo chi phí công trình. Vì vậy, trong thực tế các nhà thiết kế có xu hướng tăng quy mô và hệ số an toàn của công trình cao hơn mức bình thường để tăng giá trị công trình nhằm tăng chi phí thiết kế để hưởng lợi mà ít chú ý đến nghiên cứu thiết kế hợp lý để giảm bớt các khối lượng không cần thiết. Hiện tượng này cũng dẫn đến phê duyệt giá trị dự toán không sát thực tế, gây lãng phí và thất thoát vốn đầu tư đồng thời tạo sơ hở để giảm khối lượng (giảm tiêu chuẩn quy phạm vật tư để giảm bớt khối lượng) trong quá trình thi công nhằm hưởng lợi Ba là, quá trình khảo sát lập dự án đầu tư cũng tạo ra khe hở gây thất thoát, lãng phí vốn và tài sản của Nhà nước. Để đơn giản hoá trong khâu trình duyệt chủ trương đầu tư, nhiều chủ đầu tư chia dự án lớn thành nhiều dự án nhỏ hoặc nhiều hạn mục chỉ tạm tính nhằm mục đích làm cho tổng mức đầu tư thấp đi. Do vậy trong quá trình thi công đã vượt mức dự toán khá lớn có khi gấp đôi so với tổng mức vốn đầu tư đã duyệt ban đầu nên phải điều chỉnh tổng mức và duyệt lại. Thậm chí có dự án khi hoàn thành cũng không duyệt lại tổng mức vốn mà lấy số vốn thực tế đã cấp làm quyết toán. Tình trạng này cũng gây sơ hở cho công tác quản lý trong quá trình thực hiện dự án dẫn đến lãng phí, thất thoát vốn đầu tư một cách hợp pháp đồng thời tạo lỗ hổng cho các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng có thể xảy ra. Bốn là, một hiện tượng khác cũng khá phổ biến là khi lập và phê duyệt tổng dự toán, dự toán không theo sát các định mức kinh tế kỹ thuật của Nhà nước đã ban hành, không sát với thực tế của từng khu vực, giá cả thị trường trong từng thời kỳ dẫn đến phê duyệt tổng mức đầu tư quá chênh lệch với thực tế. Điển hình như các dự án sau: Đơn vị : tỷ đồng Tên dự án Tổng mức đầu tư Tổng dự toán Tổng dự toán do tư vấn lập qua thẩm định Cầu Hàm Rồng 336,586 296,761 234,772 Quốc lộ 1A 125 94,45 57,694 (đoạn tránh Phan Rang) Quốc lộ 18 484 397,889 335,566 Nguồn: Theo số liệu Báo cáo của TCĐTPT năm 2003 Năm là, chất lượng thiết kế của một số dự án không đảm bảo yêu cầu, không phù hợp với thực địa cảnh quan thực tế, cũng như yêu cầu kỹ thuật dẫn đến phải sửa đổi, bổ sung thiết kếnên chất lượng công trình không đảm bảo như dự án Nhà hát chèo Kim Mã Hà Nội. Dự án này được đầu tư xây dựng trong gần 10 năm mới hoàn thành (từ tháng 3/1985 đến tháng 9/1992) nhưng năm 1989 đã phát hiện công trình có sự cố bị nứt. Trung tâm kiểm định chất lượng xây dựng đã chỉ rõ có một số sai sót trong thiết kế và ngày 9/7/1996 Bộ Văn hoá - Thông tin mới có quyết định ngừng mọi hoạt động tại Nhà hát chèo này để lập phương án cải tạo. 3. Thất thoát lãng phí vốn trong đấu thầu xây dựng: Một trong những mặt trái trong XDCB đó là vấn đề: Đấu thầu và những bất cập về đấu thầu: Mỗi năm nhờ đấu thầu, ngân sách quốc gia “tiết kiệm” được khoảng 400 triệu USD. Tuy nhiên các chuyên gia lại nhìn con số đó với nhiều nỗi lo khác nhau. Nhiều cá nhân và tổ chức rất lo lắng và có nhiều lần báo động về tình trạng bỏ thầu phá giá. Một điều khó hiểu là nhiều công trình trúng thầu với giá thấp hơn rất nhiều thậm chí chỉ bằng 50% - 70% giá dự toán mà vẫn được chấp nhận. Phải chăng những người xét thầu không hiểu gì về xây dựng, hoặc người lập dự toán không biết tính toán? Chúng ta có thể thấy rằng nếu thực hiện đấu thầu như vậy thì : hoặc là dự toán sai, hoặc là công trình không đạt chất lượng hoặc nhà thầu sẽ phá sản?! Nhưng thực tế thì chắc chắn là dự toán không sai nhiều đến thế và cũng chẳng có nhà thầu nào phá sản cả, mà cái duy nhất sảy ra là các công trình chất lượng không đạt yêu cầu và thậm chí nhiều công trình buộc Nhà nước phải chi thêm để bù cho công trình đang thi công dở dang vì sự hoàn thành của nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Ví dụ: Gói thầu 2A hầm Hải Vân trúng thầu với giá chỉ bằng 34,3% giá dự toán đã tưởng là kỷ lục về thắng thầu mà vẫn phải chào thua gói thầu 2B với giá trúng thầu chỉ bằng 28,9% giá dự toán. Hay trong công trình xây dựng nhà máy xi măng Phúc Sơn (Hải Dương), giá thẩm định gói thầu san lấp mặt bằng là 35 tỷ đồng. Các nhà thầu của Bộ Xây Dựng sau khi tính toán tiết kiệm đã chào giá 31 tỷ đồng, các công ty quân đội chào giá 21 tỷ, nhưng các nhà thầu địa phương với lý do huy động “sức dân nhàn rỗi” đã bỏ thầu với giá chỉ là 14 tỷ đồng. Như vậy, phá giá đang được các nhà thầu coi là một trong những biện pháp chủ yếu để thắng thầu. Có những vụ đấu thầu, chênh lệch giữa giá thắng thầu và giá gói thầu lên tới hàng trăm tỷ đồng. Ví dụ như trường hợp đấu thầu xây dựng cảng Cái Lân chênh lệch giá là 400 tỷ đồng. Đường Bắc Ninh – Nội Bài có trên 9 nhà thầu bỏ giá trong khoảng 657 – 675 tỷ đồng và nhà thầu thắng thầu vẫn bỏ giá 657 tỷ đồng nhưng nhờ vào “thư giảm giá” lên tới 223 tỷ đồng. Thời gian cam kết hoàn thành công trình này là 24 tháng nhưng trên thực tế thì sau 18 tháng thi công, con đường 36,3 km này chưa có một mét nào được xây dựng hoàn chỉnh; cả tuyến đường có 14 chiếc cầu nhưng gần chục chiếc chưa có ai đụng đến. Tiến độ thi công có thể phải kéo dài thêm 2 năm và các chuyên gia dự đoán rằng: công trình này khó có thể hoàn thành nếu không có sự trợ giúp của Nhà nước. Sự xuất hiện đúng lúc của Nhà nước luôn luôn được coi là chỗ dựa tốt cho các nhà thầu. Vì thế các nhà thầu sử dụng mọi cách để thắng thầu, sau đó sẽ tìm cách xoay sở để cùng với tư vấn giám sát, chủ đầu tư sửa đổi thiết kế, bổ sung khối lượng hoặc tráo đổi vật tư... Như vậy, nguyên nhân chính của những bất cập trong hoạt động đấu thầu ở nước ta hiện nay là do những khiếm khuyết trong quy chế đầu thầu và công tác quản lý đấu thầu của ta đã tạo ra những kẽ hở cho những nhà thầu “luồn lách” bằng mọi cách để trúng thầu một cách hợp pháp hoặc không hợp pháp. Điểm bất cập này cần phải giải quyết một cách triệt để trong thời gian tới. 4. Thất thoát, lãng phí do công tác chuẩn bị xây dựng: Nội dung công tác chuẩn bị xây dựng gồm: điều tra khảo sát, lập hồ sơ thiết kế xây dựng, lập tổng dự toán và dự toán chi tiết, chuẩn bị mặt bằng xây dựng. Trong những nội dung đó nội dung chuẩn bị mặt bằng xây dựng mà trọng tâm là công tác đền bù, giải phóng mặt bằng để xây dựng. Trong vài năm gần đây, công tác đền bù và giải phóng mặt bằng luôn gây ắch tắc, làm chậm tiến độ xây dựng, xảy ra những tiêu cực gây lãng phí, thất thoát vốn của Nhà nước. Để hiểu kỹ hơn vấn đề này chúng ta phải đi vào xem xét 2 mặt cơ bản của nó: Thứ nhất là: Những sai phạm do nhà thầu hoặc chủ đầu tư gây ra. Trường hợp nhà thầu hoặc chủ đầu tư bớt xén đơn giá đền bù cho dân vùng có dự án thi công theo quy định dẫn đến dân không đồng tình hoặc gặp khó khăn trong đời sống nên không chịu di dời là có song không phổ biến. Hiện tượng phổ biến nhất là các văn bản pháp lý để giải quyết công tác này còn nhiều vấn đề bất cập, khó áp dụng. Cơ sở pháp lý để giải quyết công tác đền bù và giải phóng mặt bằng được quy định tại nhiều văn bản của Nhà nước, song chủ yếu nhất là Nghị định số 87/CP ra ngày 17/8/1994 của Chính phủ về khung giá đất và Nghị định số 22/ 1998/ NĐ-CP về hướng dẫn đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Những nội dung hướng dẫn quy định đền bù ngay trong các văn bản nêu chưa rõ đã gây khó khăn trong việc giải quyết quyền lợi cho dân khi giải phóng mặt bằng, gây chậm trễ trong thực hiện tiến độ thi công của dự án. Mặt khác, trong công tác đền bù giải phóng mặt bằng, chủ đầu tư ít tuyên truyền chính sách của Đảng và Nhà nước để người dân hiểu và thực hiện; khảo sát lên phương án đền bù còn chậm và không sát thực tế dẫn đến tình trạng một số hộ dân khi biết Nhà nước có chủ trương thu hồi đất và đền bù thì lập tức xây dựng hoặc trồng cây trên phần đất đó. Tình trạng này đã gây thiệt hại cho NSNN, dẫn đến việc người chịu ảnh hưởng có những đòi hỏi bất hợp lý làm chậm công tác giải phóng mặt bằng. Thứ hai là: Tiến độ thực hiện chậm do người dân có diện tích đất được đền bù.. Nhiều dự án bị kéo dài thời gian triển khai thi công do người dân không chịu thực hiện đền bù, không chấp nhận di dời. Một ví dụ điển hình là công trình đường điện 22 KV Sơn Tây – Hoà Lạc là tuyến quan trọng nhất phục vụ điện cho Khu công nghệ cao Hoà Lạc, làng văn hoá Việt Nam, Khu công nghiệp Phú CátTổng trị giá công trình này là trên 8 tỷ đồng với 24km đường dây và 236 cột điện. Kế hoạch khởi công vào ngày 15/5/2001 và hoàn thành vào 15/7/2001 song đến đầu tháng 7 vẫn chưa có mặt bằng thi công. Vướng mắc nhất là việc đền bù cây chè, theo đơn giá duyệt đền bù là 4.000đ/cây nhưng người dân đòi 25.000đ/cây, ngành điện không thể giải quyết được. Hay một ví dụ khác là công trình cầu Trần Phú ở tỉnh Khánh Hoà, dự kiến ban đầu đến tháng 9/2001 cầu sẽ đưa vào sử dụng. Nhưng đến cuối tháng 6/2001 phía bờ Bắc khâu giải toả vẫn án binh bất động nên các trụ cầu 9, 10 đến mố 11 chưa có đường vào thi công. Còn phía bờ Nam chỉ mới giải toả được một nửa số hộ dân. Điều này cũng đã từng xảy ra đối với cầu vượt Cầu Giấy – công trình phục vụ Seagames 22 của Hà Nội, và nó chỉ được hoàn thành hơn 1 tháng trước khi Seagames 22 bắt đầu. Các ví dụ minh họa cho thấy cũng là việc đền bù và giải phóng mặt bằng, có nơi xác định giá cả đền bù chưa hợp lý, có nhiều nơi dân đòi hỏi nhiều và gây khó khăn khá lớn, trong khi các cấp uỷ, chính quyền địa phương còn né tránh không ra tay cùng giải quyết làm cho thời gian thi công xây dựng công trình nhiều nơi bị chậm dài, kéo dài thời gian thực hiện làm cho kém hiệu quả đầu tư, an ninh tài chính trong hoạt động đầu tư bị vi phạm, gây thất thoát, lãng phí vốn và tài sản của Nhà nước. 5. Thất thoát, lãng phí trong khâu tổ chức thực hiện dự án: Lãng phí trong khâu này cũng khá lớn, được đánh giá vào khoảng 16% tổng vốn thất thoát. Là người được Nhà nước giao quyền sử dụng vốn đầu tư của NSNN để xây dựng công trình, chủ đầu tư được toàn quyền tổ chức từ khâu lập dự án đầu tư, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt đến khâu tổ chức thực hiện dự án đầu tư bao gồm: tổ chức đấu thầu, ký kết hợp đồng và được quyền yêu cầu các cơ quan hữu quan của Nhà nước công bố công khai các quy định có liên quan đến công việc đầu tư như quy hoạch xây dựng,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0214.doc
Tài liệu liên quan