Đề tài Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử

MỤC LỤC

Phần mở đầu

1. Lí do chọn đề tài 5

2. Mục đích nghiên cứu 6

3. Lịch sử vấn đề 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7

5. Phương pháp nghiên cứu 8

6. Ý nghĩa khoa học 8

7. Kết cấu niên luận 9

Phần nội dung

Chương 1: Giới thiệu chung 9

1.1 Khái niệm chung về thế giới nghệ thuật 9

1.1.1. Thế giới nghệ thuật 9

1.1.2. Thế giới nghệ thuật của một nhà thơ trữ tình 11

1.2. Vài nét về Hàn Mặc Tử 13

1.2.1. Cuộc đời 13

1.2.2. Sự nghiệp 14

1.2.3. Quan niệm về thơ 15

1.2.4. Quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật 17

Chương 2: Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử 18

2.1 Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh 19

2.1.1. Trong sáng, ngọt ngào 19

2.1.2. Kì dị, lạ thường 21

2.2. Âm nhạc trong thơ 23

2.3. Hình tượng: Trăng 25

Chương 3: Sự pha trộn trong thế giới nghệ thuật Hàn Mặc Tử 28

3.1. Giữa cổ điển và hiện đại 28

3.1.1. Thơ Đường luật 28

3.1.2. Thơ Mới – Lãng mạn, trữ tình 30

3.1.3. Thơ siêu thực 32

3.2. Đưa màu sắc tôn giáo vào thơ 34

3.2.1. Thiên chúa giáo 34

3.2.2. Phật giáo 35

KẾT LUẬN 38

Tài liệu tham khảo 39

 

 

doc41 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6842 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xúc mà thi nhân gặp phải trong cuộc sống đời thường. Ví dụ như Tố Hữu – một nhà thơ trữ tình chính trị, cái tôi ông thể hiện là người chiến sĩ, người tình trong thơ là tình đồng chí, thế giới bao quanh nó là cả một trường tranh đấu. Ta thử đến với Hàn Mặc Tử - một nhà thơ lãng mạn, sẽ có sự khác biệt như thế nào? Cái tôi ông muốn thể hiện là chính bản thân mình, với những cảm xúc hết sức chân thật. Có khi vui vẻ, yêu đời, khi thì đau đớn đến tuyệt vọng. Ngoài ra, Hàn Mặc Tử còn hiện rõ là một tín đồ tôn giáo, một “con chiên ngoan đạo”, bởi thơ ông có sự hòa lẫn Thiên chúa giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Tôn giáo ấy là thứ tôn giáo lãng mạn, nhà thơ chỉ mượn hình ảnh , từ ngữ của nó để nói lên niềm say mê khao khát, là tiếng nói hướng về đức tin. Có thể nhận thấy từ “Đau thương” trở về trước người tình trong thơ Hàn là những người phụ nữ với hình ảnh nổi trội, vẻ xuân tình được tô đậm, miêu tả bằng nhục cảm. Đó là những cảm xúc chân thực của một chàng trai khỏe mạnh khao khát chiêm ngưỡng, hưởng thụ vẻ đẹp nơi trần thế. Còn “Đau thương” trở về sau hình ảnh mang tính huyễn tưởng. Người thơ có vẻ đẹp trinh bạch, xuân tình nhưng thiên về màu sắc xuất thế, quan tâm nhiều đến vẻ đẹp tinh thần. Vì lúc này đây Hàn Mặc Tử đã mắc bệnh, cơ hội chiêm ngưỡng, tận hưởng vẻ đẹp trần thế không còn, nhà thơ hướng về vẻ đẹp đẹp huyễn tưởng nơi tiên giới như để được cứu rỗi. Như vậy, hai mô hình thế giới nghệ thuật của thơ cách mạng và thơ lãng mạn rất khác biệt, nó mang tính quy luật. Mỗi nhà thơ có cách sáng tạo thế giới nghệ thuật cho riêng mình đều đó còn phụ thuộc vào tư tưởng, vào phong cách ngôn ngữ của thi sĩ đó. Đồng thời phụ thuộc vào khuynh hướng trường phái mà người nghệ sĩ đó chịu ảnh hưởng. 1.2. Vài nét về Hàn Mặc Tử 1.2.1. Cuộc đời Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, tên thánh là Pierre hay Francois. Sinh ở làng Lệ Mĩ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là Quảng Bình) trong một gia đình viên chức nghèo theo đạo Thiên Chúa. Cha là Nguyễn Văn Toản từng là chủ sự Thương Chánh Nhật Lệ và mẹ là Nguyễn Thị Duy, một người đàn bà xứ Huế hiền lành, trung hậu chịu thương chịu khó. Sau khi cha mất, gia đình Nguyễn Trọng Trí chuyển vào Quy Nhơn sống với người anh đầu đang làm việc tại đây. Do muốn con theo đuổi sự nghiệp công danh nên mẹ ông bàn với người anh gởi ông ra Huế theo học tại trường dòng Pellerin, một trong những trường nổi tiếng nhất tại Huế. Và tại đây Nguyễn Trọng Trí đã có hai năm học trung học (1928 – 1930). Hoàn cảnh kinh tế gia đình lúc này sa sút, Hàn Mặc Tử phải bỏ học. Ông làm viên chức tại sở Đạc Điền Quy Nhơn (1932 - 1933), rồi vào Sài Gòn làm báo (1934 -1935). Đến năm 1936, Hàn Mặc Tử mắc bệnh phong ông về hẳn Quy Nhơn chữa bệnh và mất đi tại trại phong Quy Hòa (11/11/1940). Chính đất Thần Kinh với non nước hữu tình, nơi quy tụ nhiều nhân tài và đặc biệt sinh ra trong gia đình có truyền thống Nho học đã ảnh hưởng và khai mở hồn thơ Trọng Trí để sau này ông trở thành nhà thơ thiên tài. 1.2.2. Sự nghiệp Nguyễn Trọng Trí mở đầu sự nghiệp thơ văn của mình với bút hiệu Minh Duệ Thị bằng thể thơ Đường luật ngay khi tuổi đời chỉ mới 16. Trong khoảng thời gian này, cụ Phan Bội Châu mở thi xã Mộng Du, lên tiếng kêu gọi các thức giả xướng họa thơ văn. Nguyễn Trọng Trí cũng gởi bài đi với bút danh Phong Trần được cụ họa lại và hết lời khen ngợi. Tháng 10/1935, ông bỏ sở Đạc điền cùng với một số người bạn thơ văn vào Sài Gòn làm báo. Tại đây Nguyễn Trọng Trí lấy bút hiệu là Lệ Thanh (tên làng Lệ Mĩ, chánh quán Tân Thanh ghép lại), ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ của một câu lạc bộ thơ, bút hiệu Lệ Thanh cũng nổi tiếng từ đó. Nguyễn Trọng Trí cộng tác với báo Trong Khuê Phòng, Đông Dương tuần báo, báo Người Mới. Năm 1936, khi phụ trách trang văn chương báo Sài Gòn, Nguyễn Trọng Trí mới đổi hiệu là Hàn Mạc Tử và sau này thành Hàn Mặc Tử nghĩa là “khách văn chương” theo lời khuyên của một vài người bạn. Tuy cuộc đời nhiều bi thương nhưng Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo nhất trong phong trào thơ Mới. Bắt đầu bằng thơ cổ điển Đường luật rồi chuyển sang sáng tác với khuynh hướng thơ Mới lãng mạn và sau này tiến xa hơn là dòng thơ tượng trưng siêu thực. Với một diện mạo hết sức phức tạp và một hồn thơ bí ẩn của Hàn Mặc Tử người ta vẫn thấy rõ một tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời trần trụi nơi ông. Hàn Mặc Tử đã để lại cho nền văn học nhiều tập thơ có giá trị như : “Gái quê” - xuất bản năm 1936 lúc nhà thơ còn sống. “ Đau thương : thơ Điên ” (1938), “ Xuân như ý ”, “Thượng thanh khí ”, “Cẩm châu duyên”,…”Duyên kì ngộ” (1939), “Quần tiên hội” là hai tác phẩm kịch thơ. Và thơ văn xuôi “Chơi giữa mùa trăng” (1940). Ngoài ra còn có một số tiểu luận, phỏng vấn, phóng sự. 1.2.3. Quan niệm về thơ Nếu như các nhà thơ trong phong trào thơ Mới đều tìm đến với một bậc thi nhân, một hồn thơ nào đó để học hỏi. Xuân Diệu thích Rimbaud và Verlaine, Chế Lan Viên mê Edgar Poe, còn Hàn Mặc Tử thì khác. Chàng tuyên bố mình không thích một nhà thơ phương Tây nào cả, chàng tiếp thu tất cả cái hay, cái đặc biệt của họ để xây dựng cho mình một lối thơ riêng mà ông thích. Mở đầu hành trình thơ bằng lối cổ điển Đường luật nhưng lại chuyển nhanh qua lãng mạn trong phong trào thơ Mới và tiếp tục tiến đến siêu thực, hồn thơ Hàn Mặc Tử như cơn lốc xoáy, ào ạt, hòa trộn tất cả nào là đau khổ và hạnh phúc, khát vọng và tình yêu, tình đời và người đời,… Đối với ông, thơ như người bạn để gởi gắm những gì đẹp nhất, hay nhất, khoái cảm nhất và những yêu thương si mê cuồng dại nhất. Thơ cũng có lúc như cứu cánh giúp ông bớt đau đớn trong những cơn hành hạ của bệnh tật. Vì thế Hàn Mặc Tử quan niệm về thơ rất rõ : “Thơ phải là sự ham muốn vô biên nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời tách biệt” còn “Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn thơ trong trẻo”. Và theo ông nói thì : “Tôi làm thơ là bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng”. (Quan niệm về thơ – Hàn Mặc Tử). Ở lời tựa tập Thơ Điên, Hàn Mặc Tử viết: “Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú”. Như thế theo ông thơ phải xuất phát từ những cảm xúc chân thật không đem vào sự giả dối. Điều đó không có nghĩa trong quá trình sáng tạo nhà thơ không thể bịa ra, không thể tưởng tượng ra nhiều thứ, mà trái lại phải bịa phải tưởng tượng làm sao giống y như thật trên cơ sở của tình cảm., lúc đó mới hòng được đọc giả tiếp nhận. Ta thử nghe nhà thơ tiên đoán về cái chết của mình: “Một mai kia bên khe nước ngọc Với sương sao anh nằm chết như trăng Anh không thấy một nàng tiên mô đến khóc Đến hôn anh và rửa vết thương lòng”. (Duyên kì ngộ) Và sự thật là thế, khi nhà thơ qua đời không bóng dáng một người thân, bạn bè nào đến tiễn đưa. Ở Phan Thiết! Phan Thiết,! thi sĩ thả trí tưởng tượng của mình lên chính tầng trời: “Nhớ khi xưa ta là chim phượng hoàng Vỗ cánh bay lên chín tầng trời cao ngất”. Đây là tiếng kêu rên từ nội tâm của một linh hồn tuyệt vọng vì thế nó hết sức chân thật. Hay nỗi đau với giai nhân Mộng Cầm đã khiến cho Hàn Mặc Tử phải “hóa điên hóa dại”: “Người đi một nửa hồn tôi mất Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ”. (Những giọt lệ) Trong trường Thơ mới, thơ Hàn Mặc Tử lạ hơn thơ mới và mới hơn những người làm ra nền thơ ấy. Ông không cắt lìa hồn thơ mình với hồn thơ dân tộc, mà giữ lại tinh hoa truyền thống nhưng lại có kiểu tư duy lạ. Nguồn thơ ấy không bao giờ vơi cạn vì Hàn Mặc Tử hiến dâng cho thơ tất cả đời mình: “Ta muốn hồn ta trào ra đầu ngọn bút Mỗi hồn thơ đều dính não cân ta”. (Rướm máu) 1.2.4. Quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh? Đó là câu hỏi vẫn đang còn nhiều tranh cãi trong giới văn nghệ sĩ. Mặc dù chơi thân với các nhà thơ cách mạng như Chế Lan Viên, người tù cộng sản Nguyễn Minh Vỹ, từng tiếp xúc với chí sĩ Phan Bội Châu và từng ca ngợi các văn sĩ cách mạng nước ngoài như : Maxime Gorki, Romain Rolland, Henri Barbusse…, thế nhưng Hàn Mặc Tử vẫn nghiêng về khuynh hướng nghệ thuật vị nghệ thuật. Chủ trương của khuynh hướng này là người nghệ sĩ sáng tác chỉ phục vụ cho bản thân nghệ thuật, không vì một ai khác. Cũng giống như con người muốn yêu gia đình, yêu xóm làng, yêu quê hương đất nước,… trước hết phải yêu chính bản thân mình. Không một ai có thể nói thánh rằng yêu người này người kia, vì người này người khác,… mà không vì chính bản thân mình. Nghệ thuật cũng thế. Là người nghệ sĩ sáng tác theo khuynh hướng nghệ thuật vị nghệ thuật nên Hàn Mặc Tử ra sức bảo vệ quan điểm của mình. Trong bài “Thân oan cho Tố Tâm” thi sĩ viết: “…làm việc là làm việc mà văn chương là văn chương…khi quý trọng hay chê dè một quyển truyện nào ta nên đặt lòng tự ái và đảng phái ra ngoài…vì chỉ có văn chương mới là đáng kể mà thôi.” (1938). Mắc căn bệnh quái ác: bệnh phong, cả thế giới như sụp đổ trước mắt người thi sĩ 26 tuổi này. Chàng phải sống cô đơn trong sự hắt hủi xa lánh của người đời và tất nhiên nguồn cảm hứng của nhà thơ bất hạnh chỉ còn là “say trăng, say người thục nữ, say kinh cầu nguyện, say trường tương tư” (Tình – Chơi giữa mùa trăng). Nhà thơ kết luận rằng “trăng, hoa, nhạc, hương” mới chính là “yếu tố của thơ ca”: “Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ! Trăng sao đắm đuối trong sương nhạc Như đón từ xa một ý thơ” (Đà Lạt trăng mờ - Đau thương) Cũng dễ thông cảm cho nhà thơ, vì quá đau đớn trong bệnh tật, thi sĩ muốn mượn hình ảnh của thiên nhiên, âm thanh của tạo vật làm người bạn đồng hành trong hành trình chiến đấu với cái chết của mình để phần nào đó làm vơi đi nỗi đau đớn về tinh thần và thể xác. Trong quá trình sáng tác theo khuynh hướng nghệ thuật vị nghệ thuật, Hàn Mặc Tử đã phát huy hết tài năng, đem đến cho văn học Việt Nam những nguồn thơ mới lạ, trong trẻo, đôi lúc lại nhuốm màu huyền bí. Dù sáng tác theo khuynh hướng nào đi chăng nửa, thì sự thành công của tác phẩm cũng như đóng góp của tác giả là minh chứng cho yếu tố tích cực của khuynh hướng đó. Và chàng thi sĩ đau thương Hàn Mặc Tử chúng ta đã làm được! CHƯƠNG 2: THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ Trong phong trào thơ Mới, Hàn Mặc Tử là một tài năng lạ. Ông chỉ có mặt trên đời trong một khoảng thời gian ngắn nhưng ngay trong quãng đời ngắn ngủi ấy Hàn Mặc Tử lại phải sống một mình đối diện với căn bệnh hiểm nghèo. Nhưng nhà thơ đã sống hết mình để có được một sức sáng tạo lớn, một thế giới nghệ thuật độc đáo: “Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến gần đứt cả sự sống” (Tựa Đau thương). Đây dường như là cường độ sống, cường độ cảm xúc: “phát triển hết”, “gần đứt cả sự sống” của người biết trước cái chết và người ấy đã chuyển tất cả thành nghệ thuật. Như vậy, “thế giới nghệ thuật của Hàn Mặc Tử chính là kinh nghiệm đau thương được hiển thị bằng ngôn từ, bằng nhạc, bằng hương” Nguyễn Đăng Điệp. Hàn Mặc Tử nước mắt giọng cười chen nhau, trong Hàn Mặc Tử tác phẩm và dư luận, tr.240 . 2.1. Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh Trong khoảng 12 năm hiện diện trên bầu trời văn học, nhà thơ chúng ta đã in đậm dấu chân mình từ thơ Đường đến lãng mạn rồi tượng trưng siêu thực. Cái “tôi” trữ tình vì thế cũng biến hóa theo, khi gần gũi với con người qua những hình ảnh mộc mạc, giản dị; khi hòa nhập với thế giới trăng sao, khi chìm đắm trong nỗi buồn và có lúc hồn thơ muốn vượt mình ra ngoài vũ trụ bằng những vần thơ ghê gớm. 2.1.1. Trong sáng, ngọt ngào Thơ Hàn Mặc Tử là hành trình dài đi từ cuộc đời để đến cõi xa xôi. Chính vì thế dấu vết sự sống in đậm hơn cả là những miền quê. Ông dành cho miền quê ấy những lời thơ trong sáng như ca dao, ngọt lành như trái chín với cái nhìn trẻ trung lãng mạn và đầy bí ẩn. Ở cái tuổi “Hai mươi mốt tuổi, tuổi như hoa” chứa đựng bao hy vọng: “Ra đời thấy vui làm sao Đầy cả say sưa với ngọt ngào… Lúc ấy hồn ta như rạo rực Bâng khuâng thèm uống rượu Quỳnh Dao” (Chạy theo hạnh phúc) Không giống như Anh Thơ chỉ miêu tả những bức tranh quê, hay Đoàn Văn Cừ thích thú miêu tả trước những cảnh sinh hoạt hội hè, hoặc như Nguyễn Bính say đắm trong miêu tả tình yêu, Hàn Mặc Tử đến với quê hương trong những khoảnh khắc bừng sáng nhất của tâm hồn. Tình quê theo cách cảm của thi sĩ vì thế không phải chỉ là tình đời, tình người ở chốn quê hương mà sâu xa hơn là biểu hiện cả trong nhớ thương của thiên nhiên tạo vật. Những hình ảnh thôn quê mộc mạc, gần gũi từ đám mây, dòng nước, đến lũy tre, bờ liễu, ngàn lau,…tất cả đi vào thơ Hàn một cách êm ái. “Mây chiều còn phiêu bạt Lang thang trên đồi quê Gió chiều quên dừng lại Dòng nước luôn trôi đi Ngàn lau không tiếng nói Lòng anh dường đê mê…” (Tình quê) Hình ảnh thơ mộng của sông Hương, cầu Tràng Tiền, những cô gái áo tím thướt tha, những thôn xóm ven bờ sông như Vĩ Dạ, nổi tiếng bởi những cây trái xanh tươi bốn mùa, những ngôi nhà duyên dáng, vườn tược, sông nước: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền.” (Đây thôn Vĩ Dạ) Như đã biết, nhà thơ Hàn Mặc Tử của chúng ta là một dân thành thị - lại có sống và làm báo ở Sài Gòn. Nhưng sao hồn thơ anh lại hướng về nông thôn và lời thơ anh viết về người nông dân lao động lại nhẹ nhàng, trong sáng gần như một lời ca dân gian: “Trong làn nắng ửng khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng” (Mùa xuân chín) Hay: “Chị ấy năm nay còn gánh thóc Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?” (Mùa xuân chín) Thi sĩ miêu tả cảnh lao động nặng nhọc của cô thôn nữ sao mà thấy nhẹ nhàng, thánh thót như vậy? Và còn gì đẹp bằng những lời thơ: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời Bao cô thiếu nữ hát trên đồi Ngày mai trong đám xuân xanh ấy Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi” (Mùa xuân chín) Có thể nói “Mùa xuân chín” đã thâu tóm cái ý vị thanh tao và tươi tắn của “Gái quê”. Còn đây là thứ tình kín đáo của người con trai mới lớn lên, đang còn ngượng ngùng về niềm ân ái, ôm một thứ tình trong sạch thiêng liêng, hồn nhiên và ngây dại, nghe sao mà “dễ thương” quá: “Từ gió xuân đi, gió hạ về Anh thường gởi gắm mối tình quê. Bên em mỗi lúc trên đường cái Hóng mát cho lòng được thỏa thuê!” (Âm thầm) Anh thanh niên Nguyễn Trọng Trí yêu nông thôn, yêu quê hương tươi đẹp, cuộc sống thực của người lao động như thế và đang tuổi thanh xuân ắt nhìn trời đất, con người với một niềm tin lạc quan trong sáng. 2.1.2. Kì dị, lạ thường Đang lúc sức sống của người thanh niên 24 dạt dào dâng lên với mộng ước yêu đời, thì “định mệnh” tàn khốc bắt đầu vây lấy Hàn Mặc Tử . Bệnh phong đã gây nên vết rạn nứt thứ nhất vào đời chàng , căn nguyên cho những đổ vỡ khác. Nỗi đau chồng chất nỗi đau “Lòng thi sĩ chứa đầy trang máu lệ”, theo suốt cả đoạn đời anh. Nỗi đau ấy trở thành bi kịch: “Anh điên anh nói như người dại Van lạy không gian xóa những ngày” (Lưu luyến) Nhưng khác với các nhà thơ cùng thời, anh ý thức được cái bi kịch ấy, anh đương đầu với thảm kịch tâm trạng, sống với nó và hòa điệu thành sức sống thơ ca. Và trước mắt chúng ta là một giọng thơ độc đáo không chia xẻ âm hưởng với ai hết. Không còn đâu những lời thơ trong sáng ngọt ngào đầy ý vị như ngày nào. Một lối thơ bất bình thường dần lộ ra: “Thịt da tôi sượng sần và tê điếng Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên” (Hồn là ai) Trước mắt nhà thơ toàn hiện ra cái mùi của chết chốc, mùi của máu huyết: “Ta trút linh hồn giữa lúc đây Gió sầu vô hạn nuối trong cây” (Trút linh hồn) “Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh” (Biển hồn ta) Theo quan niệm truyền thống Đông phương, thi sĩ bao giờ cũng hiện ra như một người tinh tế, dịu dàng, chỉ sợ mỗi cử động mạnh của mình làm kinh động cả đất trời. Ở Việt Nam ta bắt gặp Xuân Diệu, Huy Cận cũng như nhiều người khác. “Tôi với người yêu qua nhè nhẹ - Im lìm không nói năng chi” (Trăng – Xuân Diệu) hoặc “Chân bên chân hồn bên hồn yên lặng” (Đi giữa đường thơm – Huy Cận). Đến Hàn Mặc Tử, thì cách nói, cách tiếp cận đời sống khác hẳn, người làm thơ không có thì giờ nghĩ về mình nên cách bộc lộ có sỗ sàng, sống sượng thậm chí bệnh hoạn cũng không quản ngại. Đi ngược với quan niệm thi ca truyền thống, trong thơ Hàn Mặc Tử những từ liên quan tới động tác của cái miệng luôn được sử dụng: - Ta cắn lời thơ để máu trào Ta há miệng cho hồn thơ trào vọt - Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng - Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra. Có thể nói đó là cả một cuộc nổi loạn trong cảm giác của thi ca. Dường như, ở Hàn Mặc Tử cái tư chất làm những câu thơ kì dị, lạ thường này đã dần hé mở ngay trong thời kì đầu còn là nhà thơ cổ điển. Với quan niệm cứng nhắc, nhưng thi tài Hàn Mặc Tử vẫn có dịp bộc lộ: “Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối Gió thu lọt cửa cọ mài chăn” (Thức khuya) Và sau này là nhà thơ lãng mạn, tư tưởng ấy lại càng phát triển: “Ống quần vo xắn trên đầu gối Da thịt, trời ơi! Ttrắng rợn mình” (Nụ cười) Ở vào ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết, vẻ đẹp trong thơ Hàn Mặc Tử hiện lên vẻ đẹp lạnh, ma quái nhưng lại hết sức quyến rũ. Nó làm cho người đọc bất giác rợn người vì những viễn cảnh mà thi sĩ vẽ ra, thật kì dị! 2.2. Âm nhạc trong thơ Sinh ra và lớn lên tại vùng đất miền Trung đầy nắng và gió, nơi có các làn điệu dân ca ngọt ngào, ít nhiều đã ăn sâu vào tiềm thức của chàng thiếu niên Nguyễn Trọng Trí. Với tâm hồn lãng mạn của người thi sĩ trẻ tuổi, Hàn Mặc Tử không khỏi mê đắm trước âm thanh huyền hoặc ấy. Bị âm nhạc quyến rũ nên “ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử rất giàu tính âm nhạc, có lúc phảng phất nhạc điệu của cung văn đồng bóng” (Yến Lan). Nguyễn Bá Tín còn cho hay “Hàn Mặc Tử rất mê đắm âm nhạc, nhất là các điệu Nam bằng, Nam ai, hai bản nhạc cổ Huế được ưa chuộng ở miền Trung”: “Đây vườn trăng, tình căng lên muốn đứt Thương toàn thương, đương vây muôn dây hường” (Quần tiên hội) Nhạc điệu của thơ tượng trưng Pháp dường như đã có ảnh hưởng ở mức độ đậm nhạt khác nhau đến thơ Lưu Trọng Lư, Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Xuân Sanh. Nhiều câu thơ của Bích Khê, Hàn Mặc Tử nghiêng về thanh bằng: “Ôi! Đêm nay trời trong như gương Không làn mây vương không hơi sương Tơ trăng buông rèm trên muôn cành Tơ trăng vàng rung như âm thanh” (Tiêu sầu) “Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông” (Tỳ bà – Bích Khê) Và trong nhiều bài thơ tượng trưng của Hàn Mặc Tử đều mang cái “tinh thần âm nhạc” vào thơ ca để thể hiện thế giới chiêm bao và tiềm thức. Ông quan niệm giống như Verlanine, cho rằng nhạc điệu là trước hết. Trong bài “Ảnh hưởng của đạo Phật trong thơ Hàn Mặc Tử” Quách Tấn nhận xét: “Hàn Mặc Tử rất chú trọng về âm nhạc và màu sắc. Đó chính là vì tâm hồn Tử có nhiều trạng thái cá biệt, nhiều khi rất bí ẩn u huyền, để diễn tả phải dùng màu sắc, hình ảnh và âm nhạc, vì chỉ có âm nhạc mới diễn tả nổi những cái sâu xa thầm kín, những cái tế nhị của tâm hồn”. Từ cái chết của cô gái có tiếng đàn tranh nỉ non như than thở bơ vơ trong đêm thanh vắng, Hàn Mặc Tử sững sờ, ngơ ngác viết bài “Cô gái đồng trinh”: “Đàn ngọc rít lên chiều mưa nả nớt Tôi kêu rên vang khóc lạy nàng thôi Nàng lạy nàng hãy nghe tôi cầu khẩn Hãy khoan tay cầm lại trí tương tư…” Sức quyến rũ của của âm nhạc trong thơ làm ta có cảm tưởng như thi sĩ đang ở trạng thái thăng hoa lên đồng, còn người cảm thụ như đang bị thôi miên đến khờ dại: “Đã mê rồi! Tư Mã chàng ơi Người thiếp lao đao sượng cả người Ôi! Ôi! Hãm bớt cung cầm lại Lòng say đôi má cũng say theo….” (Cẩm châu duyên) Tương tự với kĩ thuật tạo nhạc trong các bài thơ “Giai điệu buổi chiều” (Harmonie du soir) và “Thuận nghịch” (Revesibilite) của Baudelaire hay bài “Cảnh thần tiên” (Feerie) của Valery, Hàn Mặc Tử cũng tạo cho mình một khúc nhạc khiêu vũ du dương: “Vàng bay theo vàng đuổi theo vàng bay Tiếng vàng này vừa mê này vừa say Dồn qua phương Đông mặt trời chưa nóng Dồn qua phương Tây màu sắc hây hây” (Duyên kì ngộ) Đọc những bài thơ như “Tình quê”, “Đây thôn Vĩ Dạ”, “Đà Lạt trăng mờ”,…chúng ta không khỏi bị mê đắm cuốn hút trước hết bởi âm nhạc, ta có cảm giác êm như tiếng chim kêu ríu rít trong một buổi sớm mai tốt trời và mát dịu như cơn mưa xuân lất phất. Quả thật, Trần Thanh Mại không nói quá khi khẳng định rằng: “Hàn Mặc Tử là nhà thi sĩ Việt Nam có cái nghệ thuật âm nhạc tài tình nhất”. 2.3. Hình tượng: Trăng Hàn Mặc Tử - vị chúa của Trường thơ loạn, người có cuộc đời đau khổ và bất hạnh nhất, nhưng ông lại có tài năng thơ kì diệu được các nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học cùng thời khâm phục, ngợi ca. Một trong những đề tài tạo nên sự kì diệu ấy phải kể đến là đề tài trăng. Có thể nói Nguyễn Trọng Trí đã gắn bó với trăng trong cuộc đời thực như gắn bó với một người bạn tri âm tri kỷ. Cho nên điều dễ nhận thấy là trong toàn bộ sự nghiệp thơ ca của ông, đề tài trăng chiếm một số lượng lớn. Có tới 15 bài thơ tiêu đề trăng, hàng chục bài viết về trăng và đặc biệt là cảm xúc dâng trào của nhà thơ khi đứng trước vẻ đẹp thơ mộng của trăng: “Trăng là ánh sáng? Nhất là trăng giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm kì ảo, thơm thơm,…(Chơi giữa mùa trăng). Nhờ trí tưởng tượng phi thường, Hàn Mặc Tử đã hư ảo hóa thực tại, tạo ra những ánh trăng khác thường, không giống bất cứ một thứ trăng nào có trước. Chúng ta từng yêu tha thiết những vần thơ trong sáng trau chuốt như ngọc ngà của Nguyễn Trãi khi ông viết về trăng: “Nước biếc non xanh thuyền gối bãi Đêm thanh nguyệt bạt khách lên lầu” Càng không khỏi trân trọng những sáng tạo của thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều, hình ảnh trăng thơ mộng gắn bó với tâm trạng và cảm xúc của con người: “Vầng trăng ai xẻ làm đôi Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường” Hay: “Vầng trăng vằng vặc giữa trời Đinh ninh hai miệng một lời song song” Trăng trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du cho dù mang ít nhiều cái tôi riêng nhưng nói chung vẫn nằm trong phạm trù ý thức hệ phong kiến trung đại, chưa đi vào cõi hư ảo. Và đó cũng là tính chất chung của thơ cổ điển, bởi trong nghệ thuật cổ điển, tưởng tượng chưa đóng một vai trò quan trọng. Thơ Mới cũng nhìn trăng trong vị trí cố định như chúng ta, nhưng nhà thơ chiếu những cái nhìn khác nhau vào vầng trăng để tìm ra những khía cạnh mới, những lối nói mới: “Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá Ánh sáng tuôn đầy các lối đi” (Trăng – Xuân Diệu) Xuân Diệu đã nhân trăng lên nhiều lần: nhiều trăng quá. Song, trăng vẫn là trăng, cảnh vẫn là cảnh thật trước mắt, rất nên thơ nhưng chưa hư ảo. Còn Hàn Mặc Tử thì không nhìn trăng như những nhà thơ cổ điển, và cũng không nhìn trăng như những nhà thơ mới. Trong thơ chàng, trăng không còn là trăng nữa. Hàn Mặc Tử đã người hóa, vật hóa trăng, biến cái tĩnh, lạnh, xa lạ của trăng trở nên nồng nàn, rạo rực, gần gũi. Từ “Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối – Gió thu lọt cửa cọ mài chăn” (Thức khuya) đến “Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm – Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe” (Bẽn lẽn). Hàn Mặc Tử lại trăng hóa người “Gió rít từng cơn trăng ngã ngửa – Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô” hoặc “Mới lên trăng đã thẹn thò – Thơm như tình ái của ni cô”. Giữa trăng và người có sự giao thoa, hòa hợp: “Tiên đưa tôi bay lên cung trăng Tôi phiêu diêu cùng ngàn sao băng A ha! Lòng tôi trăng là trăng! A ha! Trăng tràn đầy châu thân!” (Tiêu sầu) Hơn thế, nhà thơ còn hóa thân vào trăng, biến thành trăng: “Không gian dày đặc toàn trăng cả Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng.” (Huyền ảo) Thậm chí còn rao bán cả trăng: “Trăng, trăng, trăng. Là trăng, trăng, trăng! Ai mua trăng tôi bán trăng cho” (Trăng vàng, trăng ngọc) Trong “Gái quê”, mảnh trăng lưỡi liềm chỉ khiến thi sĩ bực bội muốn “chặt khóm thùy dương nghiêng ngả trước gió chiều lơi lả” và “chặt hồn ta dứt nỗi niềm” nhưng khi bệnh tật dày vò, thi nhân thấy trăng lưỡi liềm là trăng đã… bị “cắn”: “Hôm nay có một nửa trăng thôi, Một nửa kia ai cắn vỡ rồi” (Em nhớ mình xa) Thi nhân đã ký thác vào trong thơ sự vật vã đau đớn qua những hình ảnh tạo ảo giác quái dị: “Cả miệng ta là trăng, là trăng, trăng, Cả hồn ta vô số gái hồng nhan, Ta nhả ra đây một nàng…” (Một miệng trăng) Hàn Mặc Tử không nhìn trăng như một thực thể cố định trên bầu trời, mà ông cho trăng một nội dung, một ngoại hình khác hẳn. Trí tưởng tượng đã giúp ông thoát khỏi hình ảnh đầu tiên tiếp nhận được về trăng. Vì vậy, trăng của Hàn luôn thay đổi hình hài, luôn luôn di chuyển, hành động chứ không bất động như trăng thật. Chỉ qua đề tài trăng trong thơ Hàn Mặc Tử có thể thấy rõ sự phát triển tư duy nghệ thuật của nhà thơ đầy tài năng nhưng bất hạnh này. Trong “đau thương” mà sáng tạo, Hàn Mặc Tử chàng trai trẻ đa sầu, đa cảm mượn ánh trăng huyền ảo để thỏa sức thổ lộ, nói lên nỗi lòng mình: Cô đơn, lẻ loi, trước cảnh đời nhộn nhịp, yên vui. Thực tế là vậy, nhưng thế giới của Hàn Mặc Từ chỉ đầy máu, đầy hồn, và đầy Trăng. “ Nghĩ thế ta lại thương con người cô độc. Đã cô độc kiếp này và còn cô độc đến muôn kiếp” (Thi nhân Việt Nam). Với tinh thần “đãi cát tìm vàng” chúng ta trân trọng những bước đi sáng tạo nghệ thuật thơ ca của Hàn Mặc Tử, bởi ông đã tìm ra những cái mới lạ trong đề tài trăng – một đề tài khá quen thuộc nếu không nói đã xáo mòn trong thơ xưa nay. Và chúng ta càng hiểu thêm vì

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử - Trương Mỹ Yến.doc
Tài liệu liên quan