Đề tài Thị trường chứng khoán và vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại trong thị trường chứng khoá

Cũng như các nghiệp vụ giao dịch khác, nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán cũng được thực hiện trên cơ sở hợp đồng mua bán được ký kết giữa ngân hàng với khách hàng mua bán, công ty môi giới hoặc là một công ty kinh doanh chứng khoán khác. Với cơ chế này, ngân hàng vừa mang tính chất của một nhà đầu tư kinh doanh chứng khoán và thực hiện chức năng ổn định thị trường. Họ đầu tư mua chứng khoán để làm chủ những công ty có danh tiếng và thu lợi tức, nên họ giữ chứng khoán trong nhiều năm. Đồng thời, ngân hàng lại mang tính chất của người đầu cơ chứng khoán, là những người muốn thu lợi nhuận thật nhanh ngay trước mắt. Họ sẵn sàng chấp nhận rủi ro, họ táo bạo chớp lấy thời cơ để mua hoặc bán thật nhanh một loại chứng khoán nào đó và thu lợi lớn. Những người đầu cơ thường là những ngân hàng có nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh và có đủ một lượng vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh.

 

doc49 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1549 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường chứng khoán và vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại trong thị trường chứng khoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệp phát hành tổ chức việc phát hành thông qua một hoặc hai ngân hàng bao tiêu chính. Tuỳ thuộc vào qui mô của đợt phát hành, để chia sẻ rủi ro, ngân hàng quản lý bao tiêu chính sẽ tổ chức một nhóm gồm các NHĐT khác tham gia vào việc phân phối các chứng khoán. Nhóm các NHĐT này được gọi là nhóm bao tiêu hay tổ hợp bao tiêu. Các thành viên của nhóm này cam kết với nhà bao tiêu chính trong việc cộng tác để phân phối chứng khoán mới phát hành đến công chúng. Thoả thuận của các thành viên trong nhóm bao tiêu chứng khoán ghi rõ trách nhiệm của các thành viên, nhà bao tiêu chính là lợi nhuận sẽ được phân bổ. Ngoài ra, để gia tăng năng lực phân phối chứng khoán, NHĐT có thể hình thành nhóm bán. Nhóm bán bao gồm các thành viên của tổ hợp bao tiêu và các công ty chứng khoán không phải là thành viên của tổ hợp bao tiêu. Như vậy, với vai trò nhà bao tiêu chính, NHĐT chỉ đạo toàn bộ tiến trình bao tiêu bao gồm việc thiết lập thoả thuận giữa các thành viên thuộc tổ hợp bao tiêu, ấn định trách nhiệm pháp lý của các thành viên và ấn định tiền công; nhận cam kết về số chứng khoán sẽ bao tiêu của các thành viên; xác định số lượng chứng khoán mà mỗi thành viên khác có nhu cầu thêm hoặc cho thành viên nhóm bán khác; thiết lập nhóm bán để hỗ trợ cho việc phân phối chứng khoán và ký hợp đồng bao tiêu với nhà phát hành. Các thành viên của nhóm mua chủ yếu là các công ty chứng khoán lớn có quan hệ giao dịch thường xuyên với nhau và với một số các công ty chứng khoán đóng vai trò là người môi giới chứng khoán sau cùng cho các nhà đầu tư. Khối lượng chứng khoán càng lớn đòi hỏi mạng lưới phân phối càng lớn để phân phối chứng khoán đến người mua cuối cùng. Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại trên thị trường thứ cấp Nghiệp vụ môi giới chứng khoán NHTM hoạt động nghiệp vụ môi giới chứng khoán với tư cách là một đại lý thay mặt khách hàng đã giúp người mua và người bán gặp nhau thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hay TTCK không tập trung. Như vậy, với nghiệp vụ này, NHTM đóng vai trò trung gian giúp khách hàng mua bán chứng khoán để hưởng hoa hồng. Để thực hiện được nghiệp vụ này, NHTM phải mở cho khách hàng một tài khoản chứng khoán và một hay một số tài khoản tiền mặt tại ngân hàng. Tài khoản chứng khoán dùng để quản lý số chứng khoán và theo dõi sự biến động kinh doanh chứng khoán của khách hàng. Tất cả các hoạt động mua bán chuyển nhượng chứng khoán của khách hàng khi kết thúc đều được ngân hàng thực hiện việc thanh toán vốn thông qua tài khoản tiền mặt. Khách hàng có thể mua hoặc bán bất cứ loại chứng khoán nào trên cơ sở tài khoản chứng khoán và tài khoản tiền mặt. Khi có lệnh mua hay bán chứng khoán của khách hàng, ngân hàng sẽ nhận lệnh và tiến hành các thủ tục nhằm mua bán hộ chứng khoán cho khách hàng. Kết quả của hoạt động giao dịch này có thể đem lại cho khách hàng những khoản lời lớn, nhưng cũng có thể làm cho họ bị thua lỗ. Nhưng cho dù lời hay lỗ thì ngân hàng vẫn được phép thu một khoản hoa hồng theo quy định của luật pháp (hiện nay ở Việt Nam theo quy định của UBCKNN, đối với cổ phiếu, mức hoa hồng là 0,5% tổng giá trị giao dịch, còn đối với trái phiếu là 0,15%) và về pháp lý, ngân hàng không chịu trách nhiệm đối với kết quả cuối cùng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện lệnh theo yêu cầu của khách hàng, ngân hàng và khách hàng đặt lệnh phải tuân thủ những quy định của pháp luật về chứng khoán và giao dịch chứng khoán. Tuỳ thuộc vào khả năng tài chính, mục đích kinh doanh chứng khoán và yêu cầu trong đơn đặt hàng của mỗi khách hàng mà ngân hàng sẽ lựa chọn một hình thức giao dịch thích hợp cho khách hàng. Hình thức đó phải bảo đảm lợi ích và thuận lợi cho cả khách hàng và ngân hàng. Trong nghiệp vụ môi giới chứng khoán, có một số giao dịch chủ yếu sau đây: Giao dịch thông thường: là hình thức giao dịch được áp dụng phổ biến đối với những người đầu tư chỉ nhằm mục đích mua chứng khoán để hưởng lợi tức đơn thuần. Theo hình thức này, sau khi thực hiện xong giao dịch, người bán phải giao chứng khoán và người mua phải trả tiền sau một thời gian nhất định kể từ ngày giao dịch. Với hệ thống thanh toán hiện đại và hầu hết các khách hàng đặt lệnh mua bán chứng khoán đều mở tài khoản tại ngân hàng, nên các khoản tiền thanh toán đều được thực hiện bằng chuyển khoản. Giao dịch bán khống: là việc bán chứng khoán mà tại thời điểm bán, chứng khoán đó không thuộc sở hữu của người bán. Cụ thể, trong hoạt động kinh doanh chứng khoán, khi nhà đầu tư nhận định xu hướng sắp tới giá của một loại chứng khoán sẽ giảm, nhưng nhà đầu tư không có chứng khoán để bán, họ tiến hành vay chứng khoán để bán ngay nhằm kiếm lời, sau đó mua chứng khoán trong tương lai để trả cho người đã cho vay. Khi vay chứng khoán, nhà đầu tư phải trả cho người cho vay một khoản tiền do hai bên tự thoả thuận. Để đảm bảo số tiền vay, nhà đầu tư phải ký quỹ một số tiền nhất định để được vay chứng khoán và sau khi thực hiện lệnh bán chứng khoán, số tiền thu được phải đưa vào tài khoản của người cho vay. Sau một thời gian nhất định, giá chứng khoán giảm xuống, nhà đầu tư sẽ lấy số tiền đó mua chứng khoán trả cho người cho vay, phần chênh lệch nói trên sau khi đã trừ chi phí vay chứng khoán, sẽ được chuyển vào tài khoản của nhà đầu tư. Ngược lại, nếu giá chứng khoán tăng lên hoặc đứng yên thì nhà đầu tư sẽ lấy số tiền bán chứng khoán trước đó cộng với số tiền ký quỹ để mua chứng khoán trả cho người cho vay. Giao dịch bán khống là một nghiệp vụ thường được sử dụng ở các nước có TTCK phát triển. Ưu điểm của loại hình giao dịch này là làm cho thị trường được vận hành liên tục và ổn định. Tuy nhiên, nó cũng có hạn chế nhất định, đó là nếu số nhà đầu tư bán khống quá nhiều và phán đoán của họ sai thì sẽ có nguy cơ mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản, làm rối loạn thị trường. Do vậy, hiện nay ở Việt Nam, TTCK mới được đưa vào vận hành, các nhà đầu tư chưa có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, và để tránh rối loạn thị trường khi chúng ta chưa có đủ khả năng giám sát, quản lý nghiệp vụ phức tạp này nên Chính phủ đã cấm giao dịch bán khống. Giao dịch vay ký quỹ: là việc nhà đầu tư vay tiền để mua chứng khoán với giá thấp, sau đó bán chứng khoán với giá cao vào thời điểm tương lai để hưởng chênh lệch giá. Với phương thức mua ký quỹ, nhà đầu tư có thể tăng được lợi nhuận trên tổng số tiền đầu tư ít ỏi của mình, còn ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận cao hơn do tăng được doanh số giao dịch và lãi suất cho vay đối với nhà đầu tư. Tuy nhiên, nếu phán đoán của nhà đầu tư sai lầm thì nguy cơ mất khả năng thanh toán và dẫn đến phá sản là điều khó tránh khỏi, vì vậy nghiệp vụ này cũng chỉ được sử dụng ở các nước có TTCK phát triển. Và thông thường để bảo đảm an toàn cho ngân hàng, mức ký quỹ được áp dụng là 50% giá trị chứng khoán đặt mua và chỉ thực hiện ở một số loại chứng khoán nhất định. Đối với Việt Nam, Nghị định về chứng khoán của Chính phủ cũng cấm nghiệp vụ giao dịch này. Có thể thấy, hoạt động môi giới chứng khoán hiện nay ở Việt Nam là hoạt động có tính năng động, ngắn hạn và đòi hỏi ít đầu tư về nguồn vốn và nhân lực. Vì vậy, với mạng lưới chi nhánh rộng khắp và sự tin cậy của khách hàng, NHTM có thể hy vọng nhiều vào dịch vụ ít rủi ro này. Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán Thông qua việc phân tích chứng khoán trên thị trường, phân tích tình hình tài chính, khả năng hoạt động của công ty phát hành, phân tích các dự án đầu tư, từ đó NHTM sẽ cung cấp các thông tin và tư vấn cho nhà phát hành, nhà đầu tư một cách có hiệu quả. Vậy tại sao nhà đầu tư không tự mình tìm kiếm và phân tích các thông tin về doanh nghiệp và các chứng khoán trên thị trường? Lý do ở đây là hoạt động chứng khoán là hoạt động phức tạp, sự phức tạp ở đây không phải do bản thân TTCK mà là do hoạt động của các doanh nghiệp với các ngành nghề khác nhau. Vì vậy, đối với các nhà đầu tư trừ một số nhà kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp, thì phần lớn là không hiểu biết về các doanh nghiệp cho nên họ cần sự giúp đỡ của các nhà tư vấn. Hơn nữa, đối với những người có hiểu biết và thường xuyên mua bán trên TTCK, khi đến TTCK, họ đã biết mua cái gì, bán cái gì, giá cả như thế nào và khối lượng giao dịch là bao nhiêu, đó là những người kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp. Còn phần lớn công chúng đầu tư trên TTCK đều cần đến sự giúp đỡ của các dịch vụ tư vấn của ngân hàng. Mặt khác, như đã nói ở phần trên, theo quy định của pháp luật, các công ty cổ phần phải công khai hoá các báo cáo tài chính của công ty. Song đôi khi các nhà đầu tư không thể xem xét một cách kỹ lưỡng và đầy đủ hoặc do không có đủ năng lực để nghiên cứu chúng. Nhưng các NHTM do nghề nghiệp của mình nên họ rất thành thạo công việc này và có thể tư vấn giúp khách hàng. Như vậy, với khả năng chuyên môn và quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp trong nghiệp vụ tín dụng của mình, NHTM là người hiểu rõ nhất thực trạng kinh tế, tài chính của các doanh nghiệp, có đủ khả năng dự đoán các xu hướng phát triển, và do đó sẽ là người tư vấn cho đầu tư rất tốt trên TTCK. Trong nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán của NHTM, có hai loại nghiệp vụ cơ bản nhất là nghiệp vụ thông tin và nghiệp vụ tư vấn. Nghiệp vụ thông tin: Trong nền kinh tế thị trường, việc nắm bắt thông tin kịp thời và chính xác có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm kinh doanh giành được thắng lợi. ý nghĩa đó càng quan trọng hơn đối với TTCK, kinh doanh một loại hàng hóa đặc biệt, có tính nhạy cảm đối với thị trường hơn bất cứ hàng hóa nào. NHTM là đầu mối của thị trường, là tổ chức trung gian giữa các khách hàng và giữa khách hàng với Sở giao dịch chứng khoán hoặc TTCK không tập trung. Hơn nữa, với uy tín của NHTM đã tạo được sự tín nhiệm của khách hàng về dịch vụ thông tin. Tuỳ theo yêu cầu của khách hàng mà ngân hàng sẽ cung cấp các thông tin: Tình hình TTCK trong nước và quốc tế Giá cả các loại chứng khoán được mua bán, xu hướng biến động của nó Thông tin về số liệu phân tích tình hình tài chính của công ty phát hành Nghiệp vụ tư vấn: Nghiệp vụ tư vấn có thể chia thành hai loại: Tư vấn cho công ty phát hành, hay còn gọi là tư vấn tài chính công ty. Ngân hàng có thể sử dụng các kỹ năng của mình để tư vấn cho các công ty về việc sát nhập, thâu tóm, cơ cấu vốn của công ty để đạt mức độ hoạt động tối ưu và các vấn đề có liên quan để thu phí tư vấn. Khi nghiệp vụ này đi kèm với nghiệp vụ bảo lãnh phát hành thì càng có hiệu quả cao, thu hồi vốn qua phát hành chứng khoán nhanh nhất với chi phí rẻ nhất. Tư vấn đầu tư. Đây là công việc của NHTM xác định các đặc tính và điều kiện của các chứng khoán, đánh giá thị giá chứng khoán, phân tích tài chính của công ty phát hành để giúp cho việc mua bán chứng khoán của khách hàng được thành công. NHTM đưa ra những lời khuyến nghị, nó thường phải phù hợp với tình hình tài chính và mục tiêu của nhà đầu tư. Nghiệp vụ này muốn đưa lại hiệu quả cao cho nhà đầu tư, để từ đó NHTM cũng thu được tiền hoa hồng thoả đáng, thì đòi hỏi NHTM phải có những kiến thức và kỹ năng chuyên môn nhất định nhưng không yêu cầu vốn lớn. Nghiệp vụ quản lý danh mục chứng khoán Đây là nghiệp vụ mang tính chất tín thác. Với nghiệp vụ này, ngân hàng đóng vai trò là những tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, được hình thành bởi những người đầu tư nhỏ và những người kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp cũng góp vốn để thực hiện đầu tư chứng khoán, nhằm đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư, phân tán rủi ro cho những nguồn vốn đầu tư khiêm tốn. Như vậy, thay vì những người đầu tư đưa vốn của mình cho các hãng môi giới để trực tiếp mua một hoặc một vài loại chứng khoán nào đó, thì ở đây họ góp vốn vào tổ chức đầu tư để thực hiện việc đầu tư tập thể. Lợi ích căn bản của đầu tư qua hình thức này là ở chỗ: đây là những tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, do đó có trình độ chuyên môn, có đủ thông tin cần thiết, hơn nữa, khả năng quản lý, phát huy hiệu quả vốn đầu tư tốt hơn nhiều so với đầu tư riêng biệt. Mặt khác, đầu tư qua hình thức này đảm bảo tính thanh khoản cao. Nghĩa là khả năng chuyển hoá từ chứng khoán ra tiền mặt và ngược lại rất dễ dàng khi có nhu cầu thu hồi lại vốn đầu tư, và rủi ro trong đầu tư bị hạn chế ở mức thấp nhất, vì vốn đầu tư của quỹ được thực hiện đầu tư phân tán ra nhiều lĩnh vực. Thông qua hình thức này, người đầu tư có được một tập chứng khoán gồm nhiều loại khác nhau, cố định, không thay đổi, từ một số vốn đầu tư khiêm tốn. Ngân hàng đầu tư uỷ thác thường đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau, nhưng tập trung nhất vẫn là các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu công ty và cổ phiếu thượng hạng. Sở hữu một số vốn uỷ thác như vậy, người đầu tư có được một tập chứng khoán đa dạng, mà nếu đầu tư trực tiếp, người đầu tư không thể có được. Sở hữu chứng khoán của người đầu tư, ngân hàng thường không thay đổi, nghĩa là tập chứng khoán của họ vẫn được giữ nguyên cho đến khi thanh toán. Trong trường hợp có một loại trái phiếu nào đó được công ty phát hành mua lại trước ngày đáo hạn thì trái phiếu đó của người đầu tư cũng không được thay thế bằng những chứng khoán khác, ngân hàng sẽ đứng ra nhận thay cho người đầu tư số vốn mà công ty phát hành hoàn lại. Và đó là một nguồn thu rất kinh tế của ngân hàng. Việc lựa chọn tập chứng khoán đầu tư có thể do ngân hàng hoặc do người đầu tư quyết định, nhưng khi thực hiện dù với hình thức nào, ngân hàng cũng phải tra cứu những bản cáo bạch cẩn thận trước khi mua. Tuy nhiên, có một trở ngại cơ bản của hình thức này là thiếu thông tin về giá trị các loại chứng khoán trong tập chứng khoán. Do vậy, người đầu tư thường muốn ngân hàng đầu tư vào những chứng khoán có bảo đảm, có lợi nhuận cao nhưng an toàn như AAA hoặc AA. Nghiệp vụ lưu ký chứng khoán Đây là nghiệp vụ uỷ thác của khách hàng cho ngân hàng về việc lưu giữ và quản lý một số chứng khoán nhất định. Ngày nay, rất nhiều chứng khoán được phát hành dưới dạng ghi sổ điện tử. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều chứng khoán dưới dạng chứng chỉ. Dù chứng khoán được phát hành dưới dạng điện tử hay chứng chỉ thì nó đều có giá trị như tiền, nên cần được bảo quản và lưu giữ cẩn thận. Trong điều kiện hiện nay, chứng khoán của các nhà đầu tư được lưu giữ trên máy tính điện tử vẫn có thể xảy ra mất mát, nhưng nếu họ cầm dưới dạng chứng chỉ, nguy cơ mất an toàn càng cao. Do vậy, những người sở hữu chứng khoán có nhu cầu nhờ ngân hàng lưu giữ và quản lý hộ số chứng khoán mà họ có. Nghiệp vụ lưu giữ, bảo quản chứng khoán cho khách hàng là dịch vụ cho thuê két sắt đối với cá nhân hay công ty có số lượng chứng khoán lớn dưới dạng chứng chỉ và vận hành an toàn hệ thống máy tính đối với chứng khoán dưới dạng điện tử. Thực hiện nghiệp vụ này, khách hàng sẽ đưa toàn bộ số chứng khoán hoặc một số chứng khoán mà họ có bao gồm các loại cổ phiếu, trái phiếu đến ngân hàng (chứng khoán điện tử thì họ uỷ quyền ngay từ khi mua) và ký hợp đồng với ngân hàng. Khi đã ký hợp đồng, ngân hàng nhận trách nhiệm bảo quản an toàn cho các chứng khoán và thực hiện mọi quyền lợi có liên quan đến các chứng khoán như quyền nhận cổ tức, lãi và vốn gốc, quyền bỏ phiếu... Họ chịu trách nhiệm trước khách hàng về bất cứ mất mát nào đối với các chứng khoán lưu ký. Ngoài ra, công ty chứng khoán sẽ thay mặt khách hàng toàn quyền quyết định các giao dịch mua bán số chứng khoán này, theo dõi trên sổ sách kế toán và định kỳ lập báo cáo gửi khách hàng, ghi rõ số chứng khoán còn lưu lại để khách hàng biết được tình hình lỗ lãi, mức thuế phải nộp, trả hoa hồng cho công ty. Tại hầu hết các TTCK trên thế giới, để nâng cao khả năng quản lý rủi ro trong các giao dịch mua bán chứng khoán và đảm bảo sự vận hành trơn tru của thị trường, những quy định có liên quan đến các hoạt động lưu ký, thanh toán bù trừ chứng khoán đòi hỏi chứng khoán thuộc sở hữu của các nhà đầu tư phải được lưu ký tại một trung tâm lưu ký chứng khoán tập trung thông qua các thành viên lưu ký nước sở tại như các NHTM, công ty chứng khoán ... trước khi những chứng khoán này được giao dịch trên TTCK. Nghiệp vụ lưu ký chứng khoán vừa mang lại lợi ích cho khách hàng, vừa mang lại lợi ích cho công ty chứng khoán. Về phía khách hàng, chứng khoán được bảo quản an toàn, tài khoản của khách hàng được công ty chứng khoán bảo hộ, quá trình chuyển giao được nhanh chóng (nếu khách hàng muốn bán chúng), tiết kiệm được các khoản chi phí và được công ty chứng khoán cung cấp các dịch vụ khác có liên quan đến chứng khoán. Về phía công ty chứng khoán, công ty có thể sử dụng chứng khoán lưu giữ, bảo quản hộ chứng khoán như vật thế chấp cho một khoản vay của khách hàng, có điều kiện mở rộng được các nghiệp vụ khác để thu hoa hồng, tăng thêm nguồn lợi cho công ty chứng khoán, hơn nữa, công ty chứng khoán thu được các khoản phí nghiệp vụ, đây là nguồn lợi lớn gần như không bị rủi ro. Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán hay còn gọi là nghiệp vụ tự doanh. ở nghiệp vụ này, NHTM hoạt động với tư cách là nhà đầu tư mua bán chứng khoán bằng nguồn vốn của mình để tìm kiếm lợi nhuận, cũng như chấp nhận rủi ro từ những hoạt động đó. Khác với nghiệp vụ môi giới chứng khoán, nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán là ngân hàng nối những người bán và người mua chứng khoán bằng cách ngân hàng đứng ra mua chứng khoán của những người bán, sau đó bán lại cho người mua khác người chứng khoán này với giá cao hơn giá họ đã mua vào để có thu nhập từ chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Tuy nhiên, đây lại là nghiệp vụ kinh doanh có nhiều rủi ro lớn vì ngân hàng nắm giữ một lượng lớn chứng khoán đã mua được. Nếu giá chứng khoán đó tăng lên thì ngân hàng sẽ được lợi, nhưng ngược lại, giá chứng khoán giảm xuống, ngân hàng sẽ bị lỗ, thậm chí còn có thể phá sản, dễ gây ảnh hưởng xấu cho hoạt động của hệ thống ngân hàng. Mặc dù vậy nhưng ngân hàng vẫn thực hiện nghiệp vụ này, bởi lẽ hoạt động nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán này, ngoài mục đích là thu lợi nhuận hơn, nó còn làm chức năng ổn định TTCK. Khi giá chứng khoán trên thị trường biến động, ảnh hưởng xấu đến thị trường, các NHTM sẽ tham gia mua bán chứng khoán nhằm lập lại thế ổn định của thị trường. Cũng như các nghiệp vụ giao dịch khác, nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán cũng được thực hiện trên cơ sở hợp đồng mua bán được ký kết giữa ngân hàng với khách hàng mua bán, công ty môi giới hoặc là một công ty kinh doanh chứng khoán khác. Với cơ chế này, ngân hàng vừa mang tính chất của một nhà đầu tư kinh doanh chứng khoán và thực hiện chức năng ổn định thị trường. Họ đầu tư mua chứng khoán để làm chủ những công ty có danh tiếng và thu lợi tức, nên họ giữ chứng khoán trong nhiều năm. Đồng thời, ngân hàng lại mang tính chất của người đầu cơ chứng khoán, là những người muốn thu lợi nhuận thật nhanh ngay trước mắt. Họ sẵn sàng chấp nhận rủi ro, họ táo bạo chớp lấy thời cơ để mua hoặc bán thật nhanh một loại chứng khoán nào đó và thu lợi lớn. Những người đầu cơ thường là những ngân hàng có nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh và có đủ một lượng vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh. Trong thực tế, kinh doanh chứng khoán là một nghiệp vụ phức tạp và khả năng rủi ro có thể xảy ra rất lớn, để đảm bảo kinh doanh có lợi và chấp hành được luật pháp của Nhà nước về quản lý và kinh doanh chứng khoán, ngân hàng muốn thực hiện được nghiệp vụ này cần phải có được điều kiện: Có đầy đủ số vốn cần thiết. Mức vốn tối thiểu để được cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước của mỗi nước quy định. Chẳng hạn, ở Nhật là 3 tỷ Yên, ở Đài Loan là 20 triệu đôla Đài Loan..., còn ở Việt Nam, số vốn tự doanh không được ít hơn 12 tỷ đồng. Ban giám đốc, nhân viên kinh doanh chứng khoán và công ty phải có kiến thức và kinh nghiệm về nghiệp vụ kinh doanh, có uy tín tốt. Ngoài hai điều kiện trên, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước có thể quy định những điều kiện cụ thể về các mặt, cũng như các thủ tục cần thiết để được cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng. Sự tách biệt giữa công nghiệp ngân hàng và công nghiệp chứng khoán Phải chăng sự tách biệt công nghiệp ngân hàng khỏi công nghiệp chứng khoán sẽ là hợp lý ? Trên đây, tôi đã trình bày các hoạt động kinh doanh của các NHTM trong TTCK. Thông qua các hoạt động này, các NHTM đã thể hiện được vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của TTCK. Tuy nhiên, trên thực tế, hiện các NHTM có nên đồng thời thực hiện tấ cả các hoạt động đó hay không? Theo một số chuyên gia về TTCK, bên cạnh các hoạt động mang tính chất dịch vụ để hưởng hoa hồng như môi giới, tư vấn đầu tư, lưu ký chứng khoán..., thì các hoạt động còn lại như bảo lãnh phát hành, tự doanh... đều có thể gây ra những rủi ro cho sự ổn định của các NHTM. Bởi lẽ, mặc dù đây là những hoạt động mang lại lợi nhuận cao cho các NHTM, nhưng những rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán là rất lớn và nó có thể là mối đe doạ không nhỏ đến sự ổn định trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy, cuộc tranh luận xoay quanh vấn đề có nên để cho các NHTM được thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán hay không vẫn chưa đi đến hồi kết thúc và là vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách tiền tệ, tài chính ở các nước đang còn băn khoăn. Để góp phần làm rõ một phần nào đó vấn đề này, tôi xin trình bày mối quan hệ giữa công nghiệp chứng khoán và công nghiệp ngân hàng. Kể từ khi ngành công nghiệp chứng khoán bắt đầu hình thành, trên thực tế đã không có sự tách biệt và phân chia rạch ròi giữa ngành công nghiệp chứng khoán và ngành công nghiệp ngân hàng. Nói một cách khác, hoạt động NHĐT và NHTM đã do cùng một tổ chức tài chính thực hiện. Sự kết hợp này đã dẫn đến các cuộc xung đột lợi ích tiềm ẩn, bởi vì chủ các NHĐT có thể bán các chứng khoán (loại không còn cách nào khác để bán được) cho các quỹ uỷ thác mà ngân hàng do họ sở hữu hay có thể đang quản lý cho một chương trình trợ cấp công ty hoặc cá nhân riêng lẻ. Do đó, các hoạt động có tính chất NHĐT của một ngân hàng có thể thu được lợi nhuận dựa vào những tổn thất của các quỹ ủy thác đó khi các quỹ này bán lại các chứng khoán sau đó. Và nếu các chứng khoán không thể bán được này lại được bản thân ngân hàng đó mua, những người gửi tiền có thể bị đặt trước một rủi ro lớn hơn về sự vỡ nợ của ngân hàng đó. Do đó, sau khi cuộc đại khủng hoảng tài chính xảy ra vào những năm 30, tình hình đã có sự đổi khác. Trong cơn lốc khủng hoảng tài chính, chỉ tính từ năm 1930 đến năm 1933, trung bình mỗi năm có trên 2200 ngân hàng trên thế giới bị phá sản. Sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng đã làm đình trệ cơ chế thanh toán, gia tăng nạn thất nghiệp và làm cho nền kinh tế các nước vốn đã suy thoái lại càng suy thoái trầm trọng thêm. Theo các chuyên gia, có ba yếu tố được tin là nguyên nhân đằng sau những vụ sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng là: (1) cạnh tranh quá mức giữa các ngân hàng trong việc cung cấp các dịch vụ giao dịch và trung gian; (2) những rủi ro không kiểm soát được phát sinh từ việc các NHTM tham gia vào việc kinh doanh chứng khoán; (3) chính sự sụp đổ của TTCK dẫn tới sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng. Dựa trên những luận cứ này, nhằm tránh các lạm dụng và các xung đột quyền lợi có thể có, Quốc hội Mỹ đã thông qua Đạo luật về hoạt động ngân hàng năm 1933, được gọi là Đạo luật Glass – Steagall. Đạo luật này nghiêm cấm các NHTM bao tiêu và kinh doanh chứng khoán công ty trên TTCK (luật không cấm các ngân hàng bao tiêu và kinh doanh các chứng khoán của Chính phủ). Đổi lại, đạo luật cũng nghiêm cấm các NHĐT (các hãng môi giới, kinh doanh chứng khoán) cũng không được phép tham gia vào hoạt động của các NHTM. Như vậy, trên thực tế, đạo luật Glass - Steagall đã tách rời hoạt động của các NHTM ra khỏi ngành công nghiệp chứng khoán. Cũng tương tự như ở Mỹ, luật Chứng khoán và Ngân hàng của mỗi quốc gia xác định rõ những tổ chức nào được phép bao tiêu và kinh doanh chứng khoán. Trong khi ở Nhật, luật Chứng khoán còn đặt ra những hạn chế nhiều hơn về hoạt động chứng khoán của các NHTM thì ở một số quốc gia Châu Âu, đặc biệt là ở Đức, không có sự tách rời giữa hoạt động của NHTM và hoạt động của NHĐT. ở những nước này, với tư cách là các ngân hàng kinh doanh đa ngành, các NHTM được phép kinh doanh cả trên lĩnh vực chứng khoán và bảo hiểm. Như vậy ta thấy rằng, trên thế giới hiện nay đã có những mâu thuẫn về quan điểm trong việc có nên tách rời hoạt động ngân hàng với hoạt động kinh doanh chứng khoán của các NHTM hay không. Những người chống đối việc xâm nhập các ngân hàng vào lĩnh vực kinh doanh chứng khoán phản bác rằng hoạt động trong lĩnh vực này, đặc biệt các hoạt động NHĐT, thường chứa đựng nhiều rủi ro hơn so với các hoạt động có tính chất ngân hàng truyền thống. Một NHĐT có thể gánh chịu các tổn thất quan trọng nếu nó không bán được các chứng khoán mà nó đã bảo đảm với giá mà nó đã thoả thuận thanh toán cho người phát hành chứng khoán đó. Như thế, việc cho phép các NHTM thực hiện các hoạt động NHĐT có thể gây ra thêm các vụ vỡ nợ và tạo ra một hệ thống tài chính kém ổn định hơn. Mặt khác, như đã nói trên, việc cho phép các ngân hàng thâm nhập vào các hoạt động kinh doanh chứng khoán có thể làm cho các NHTM phải đối mặt với một cuộc xung đột lợi ích tiềm ẩn nếu họ thực hiện đảm bảo cho các chứng khoán. Các ngân hàng (khi đang bảo đảm cho các chứng khoán mới phát hành) đã bán chúng cho các quỹ uỷ thác mà họ đang quản lý khi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100155.doc
Tài liệu liên quan