Đề tài Thị trường chứng khoán Việt Nam 10 năm phát triển và kiến nghị

MỤC LỤC

 

Lời mở đầu

CHƯƠNG 1.Tổng quan về thị trường chứng khoán ( TTCK )

1.1 Các khái niệm

1.1.1 Chứng khoán: Trang 01

1.1.2 Thị trường chứng khoán Trang 01

1.2 Phân loại thị trường chứng khoán

1.2.1 Căn cứ tính chất pháp lý Trang 01

1.2.2 Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn Trang 02

1.2.3 Căn cứ vào phương thức giao dịch Trang 02

1.2.4 Căn cứ vào đặc điểm hàng hoá Trang 02

1.3 Vai trò của thị trường chứng khoán

1.3.1 Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế Trang 02

1.3.2 Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng Trang 02

1.3.3 Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách KT vĩ mô Trang 02

1.3.4 Tạo tính thanh khoản cho các CK Trang 03

1.3.5. Đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp Trang 03

1.4 Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán

1.4.1 Nhà phát hành Trang 03

1.4.2 Nhà đầu tư Trang 03

1.4.3 Các tổ chức kinh doanh trên TTCK Trang 03

1.4.4 Các tổ chức có liên quan trên TTCK Trang 03

1.5 Nguyên tắc về hoạt động của TTCK

1.4.2 Nguyên tắc trung gian Trang 04

1.5.2 Nguyên tắc định giá Trang 04

1.5.3 Nguyên tắc công khai Trang 04

 

CHƯƠNG 2. Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam

2.1 Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam Trang 05

2.2 Thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam Trang 05

2.2.1 Giai đoạn 2000-2005 Trang 05

2.2.2. Giai đoạn 2005-2010 Trang 06

2.3 Những bài học rút ra trên thị trường chứng khoán Việt Nam Trang 11

2.4 Tổng kết quá trình 10 năm phát triển của TTCK VN Trang 13

 

CHƯƠNG 3. Phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam ổn định và bền vững

3.1 Kinh nghiệm quản lý thị trường chứng khoán của các nước Trang 15

3.1.1 TTCK Singapore - hệ thống quản lý chuẩn mực chặt chẽ Trang 15

3.1.2 Hệ thống thông tin của thị trường chứng khoán Mỹ Trang 15

3.2 Phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam ổn định và bền vững Trang 16

3.2.1 Định hướng phát triển TTCKVN Trang 16

3.2.2 Giải pháp phát triển TTCKVN Trang 16

3.2.2.1 Phương diện vĩ mô Trang 16

3.2.2.2 Đối với thị trường chứng khoán Trang 17

Kết Luận

Danh mục tham khảo

Phụ lục

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4530 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường chứng khoán Việt Nam 10 năm phát triển và kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyển nhượng tương đương với 980 tỷ đồng. TTGDCK Hà Nội thực hiện thành công 248 phiên giao dịch, với tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 616,3 triệu chứng khoán tương đương với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 63.859 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần về khối lượng và 15,8 lần về giá trị giao dịch so với năm 2006. Quy mô giao dịch tăng trưởng mạnh khi mức giao dịch bình quân năm 2007 đạt 255 tỷ đồng/phiên trong khi năm 2006 chỉ đạt 19 tỷ đồng/phiên. TTCKVN bùng nổ phát triển mạnh nhất vào đầu tháng 3/2007 Vn-Index đã đạt mức đỉnh là 1.170,67 điểm sau 7 năm hoạt động và HASTC-Index thiết lập mức đỉnh 459,36 điểm sau 2 năm hoạt động. Đây là giai đoạn thị trường đạt mức tăng trưởng với tốc độ lớn nhất khi đạt mức tăng 126% trong vòng 3 tháng giao dịch, tổng giá trị vốn hóa của thị trường lên đến con số 398.000 tỷ đồng. Tổng giá trị vốn hóa cả năm 2007 là 492.900 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 4/5. . Từ tháng 4/2007 đến đầu tháng 9/2007 có sự trầm lắng của cả 2 sàn HOSE và HASTC, tất cả các yếu tố của thị trường đều giảm sút nghiêm trọng. Vn-Index chỉ trong vòng 1 tháng giao dịch đã rơi xuống mức 905,53 điểm (24/04/2007), HASTC-Index trở về mốc 321,44 điểm đã tác động mạnh đến tâm lý của các nhà đầu tư, làm cho thị trường nhanh chóng trở lại trạng thái mất cân bằng và liên tục sụt giảm mạnh trong những tháng kế tiếp. Tính đến đầu tháng 8, thị trường xác lập mức đáy 883,9 điểm của Vn-Index (6/8/2007) và 247,37 điểm của HASTC-Index (23/08/2007). Giá trị giao dịch bình quân của khối NĐTNN chỉ đạt 170 tỷ đồng/phiên, giảm tới 52% so với giai đoạn đầu năm. Năm 2008 TTCK Việt Nam khép lại với sự sụt giảm mạnh Tổng kết năm 2008, TTCK có 3 giai đoạn thăng trầm chính: 2 quí đầu năm thị trường sụt giảm theo đà giảm điểm từ cuối 2007, thị trường hồi phục lại trong tháng 7, 8 rồi lại suy giảm trong 4 tháng cuối năm, Vn-Index mất gần 70% giá trị, Hastc-Index xuống dưới 100 điểm. Chúng ta có thể điểm qua một vài dấu mốc của thị trường chịu tác động rõ rệt của chính sách và nền kinh tế vĩ mô trong năm qua: + Vốn hóa thị trường sau một năm giảm tới hơn một nửa, mức vốn hoá chỉ còn hơn 234 nghìn tỷ đồng. Năm 2008 cũng chỉ còn duy nhất ACB là cổ phiếu có mức vốn hoá trên 1 tỷ đô la, trong khi con số này cuối năm 2007 là 6 công ty. Sự suy giảm của giá chứng khoán cũng đẩy PE trung bình của thị trường giảm từ mức 21 xuống chỉ còn 9. Rõ ràng 2008 là năm thử thách niềm tin, lòng kiên nhẫn của nhà đầu tư một cách ghê gớm, khi chứng khoán sa sút cũng là lúc các kênh đầu tư khác lên ngôi, đó là bất động sản vào đầu năm, USD vào giữa năm, vàng và trái phiếu vào cuối năm. + Tính thanh thanh khoản của thị trường cũng sụt giảm nghiêm trọng. Thanh khoản chỉ được cải thiện tốt hơn vào 3 tháng của quý 3 khi thị trường tăng điểm, còn trong giai đoạn siết chặt biên độ, khối lượng giao dịch cổ phiếu giảm mạnh, có những phiên giao dịch thậm chí chưa đến 1triệu cổ phiếu trên HOSE. Giá trị giao dịch trung bình một tháng toàn thị trường chỉ có 16.658 tỷ đồng, tương đương giao dịch hơn 750 tỷ đồng một phiên. + Tổng kết các đợt IPOs năm 2008 cũng không thành công. Có 62 công ty tiến hành cổ phần hoá và đấu giá thông qua HOSE và HASTC, nhưng phần lớn không bán được hết số cổ phần. Một vài đợt đấu giá tiêu biểu như Sabeco, Habeco không bán được hết số cổ phần, cuối năm đợt đấu giá Vietinbank thì thành công với mức giá trúng thấp nhất là 20.000đ. Mức giá khởi điểm quá cao là nguyên nhân chính gây ra hiện tượng này, cùng với đó là sức thu hút của các đợt IPOs đã kém hơn trước rất nhiều. Cũng vì vậy mà kế hoạch cổ phần hóa các tổng công ty, tập đoàn mà Chính phủ đề ra trong quyết định số 1729/QĐ-TTg không thực hiện được. Theo thống kê thì chỉ có 73/272 doanh nghiệp đã cổ phần hoá trong năm 2008, đạt 28% kế hoạch đề ra. Giờ đây, những doanh nghiệp như Vinatex, BIDV, Vietnam Airlines sẽ phải chờ đợi đến 2009 để được cổ phần hóa. + Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài năm qua cũng là điều rất đáng quan sát. Nửa năm đầu tiên họ là bên mua ròng. Chênh lệch mua-bán rất lớn ngay cả khi thị trường kém thanh khoản nhất do thu hẹp biên độ. Tuy nhiên mọi chuyện thay đổi kể từ tháng 8 khi tình hình khủng hoảng kinh tế thế giới lan tới Việt Nam. Nhà đầu tư nước ngoài bán ròng với khối lượng rất lớn, làm giảm đáng kể tỷ lệ nắm giữ chứng khoán Việt Nam của khối này, giảm gần 4 tỷ USD so với đầu năm. + Về phương diện quản lý thị trường: năm 2008 cũng là năm nhiều thách thức đối với các cơ quan quản lý, 4 lần thay đổi biên độ trong một năm là quá nhiều và cũng chưa hề có tiền lệ. Việc SCIC tuyên bố bỏ tiền cứu thị trường cũng chỉ kích VN-Index lên một vài phiên, nhưng không thể kéo thị trường qua được cơn khủng hoảng. Rồi chuyện thị trường OTC mãi vẫn chưa được đưa vào quản lý, giao dịch không sàn cũng phải chờ đến đầu năm 2009 mới triển khai, các sản phẩm mới của thị trường như bán khống, giao dịch ký quỹ(margin)…vẫn chỉ đang được nghiên cứu, và còn rất nhiều kế hoạch đề ra đầu năm nhưng rồi đều không đạt được. 2008 cũng là năm nhiều vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán bị xử lý. Một mặt nó cho thấy sự ra đời của các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động chứng khoán đã đi vào thực tế, nhưng mặt khác nó cho thấy những tồn tại của thị trường mà trước đây chưa bị phát hiện. Sự cố Bông Bạch Tuyết là một ví dụ. Ngày 11/7 cổ phiếu Bông Bạch Tuyết bị tạm ngừng giao dịch do thua lỗ 2 năm liên tiếp và đứng trước nguy cơ phá sản. Tuy nhiên, đằng sau sự việc này đã cho thấy những vấn đề về kiểm toán báo cáo và chế độ báo cáo tài chính của công ty niêm yết. Rất may sau đó BBT đã được giao dịch trở lại, nhưng không biết còn bao nhiêu công ty nữa đang ở tình trạng của BBT nhưng chưa bị phát hiện. 2008 cũng là năm đầu tiên có xử phạt trường hợp công ty cổ phần không đăng ký là công ty đại chúng, cũng như xử phạt nhà đầu tư về giao dịch nội gián. Nhưng đây cũng mới chỉ là những trường hợp điển hình nhất, con số vi phạm nhưng chưa bị xử phạt chắc chắn còn lớn hơn rất nhiều. Năm 2009 TTCK phát triển thăng trầm cũng dựa trên tiến trình hồi phục phát triển của nền kinh tế, theo thống kê của công ty chứng khoán cổ phần phố Wall (WSS) TTCK trong năm 2009 có thể phân ra 4 giai đoạn lớn đáng chú ý. + Giai đoạn I: Suy thoái và tạo đáy (từ tháng 1- 2) Nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu thể hiện rõ nhất ở tiêu dùng suy giảm, sản xuất đình đốn, kim nghạch xuất khẩu bị thu hẹp, vốn đầu tư nước ngoài ít đi... tăng trưởng GDP quý I/2009 đạt 3.1%. TTCK vì thế tiếp tục đổ dốc theo xu hướng giảm dài hạn của năm 2008, tạo đáy ở 235 điểm vào cuối tháng 2/2009. + Giai đoạn II: tăng trưởng đợt 1 (tháng 3- 7) Bước sang tháng 3, Chính phủ Việt Nam bắt đầu thực hiện gói kích thích kinh tế, chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng thông qua gói kích cầu, hỗ trợ lãi suất 4% cũng như chính sách giảm thuế đối với Doanh nghiệp. Kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi và chính thức thoát đáy từ quý II/2009 với tốc độ tăng trưởng GDP là 3.9%. TTCK tháng 3-4 tăng nhẹ và chậm, sau đó tăng tốc mạnh từ tháng 5 xác lập 525 điểm vào giữa tháng 6 sau đó thị trường điều chỉnh giảm dần trong tháng 7. + Giai đoạn III: tăng trưởng đợt 2 (tháng 8-10) Gói kích thích vẫn tiếp tục phát huy, các Doanh nghiệp̣ tận dụng được những cơ hội vốn thấp, nguyên liệu đầu vào giá rẻ cũng như chính sách thuế nên đạt được tốc độ tăng trưởng cao. GDP tính chung 3 quý đầu năm 2009 đạt 4.6%, đây là cơ sở khá vững để TTCK tiếp tục tăng trưởng đợt 2, giá lần 2 đẩy mạnh với những kỷ lục được thiết lập về giá trị và khối lượng giao dịch trên 100 triệu đơn vị tương ứng mỗi phiên đạt 5000 - 6000 tỷ đồng. + Giai đoạn phát triển thận trọng (2 tháng cuối năm) Chính sách kích thích phát huy được tác dụng nhưng cũng đã tạo ra các tác động lớn; trong nền kinh tế tiềm ẩn một số nguy cơ tác động đến sự tăng trưởng. Tín dụng của 10 tháng đầu năm 2009 trên 33%, tăng trưởng quá mức cần thiết, chỉ số ICOR năm 2009 bằng 8, đây cũng là mức cao nhất từ trước tới nay. Chính sách tài khoá đã khiến ngân sách Nhà nước lâm vào tình trạng thâm hụt có thể lên tới 6.5% GDP của năm, cụ thể Nhà nước đã bất ngờ nâng lãi suất cơ bản lên 7%- 8% trong năm 2009, hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại đều tăng lên tới 10 % đỉnh cao là 11%. Những yếu tố này cũng đã ảnh hưởng lớn đến luồng tiền đầu tư vào TTCK và yếu tố tâm lý của nhà đầu tư đã làm cho chỉ số chứng khoán giảm tính từ đỉnh cao Vn-Index đã mất khoảng 31% về số điểm. Năm 2010 có nhiều biến động không chỉ ở chỉ số + Nguồn cung ồ ạt lên thị trường : Năm 2010 là năm niêm yết ồ ạt của các DN mới. Xuất phát một phần là từ đà tăng của TTCK năm 2009 khiến cho nhiều DN xây dựng kế hoạch niêm yết trong năm 2010 nhằm huy động vốn. Bên cạnh đó, Luật chứng khoán sắp tới có những thay đổi theo hướng khắt khe hơn về quy định niêm yết, do vậy nhiều DN tranh thủ lúc các điều kiện còn đang dễ dàng niêm yết lên TTCK. Tính đến ngày 26/12/2010, số lượng DN niêm yết trên hai sàn là 622 với giá trị vốn hóa thị trường đạt 736,1 nghìn tỷ đồng. So với năm 2009, số DN niêm yết đã tăng 168 DN (37%), mức tăng kỷ lục của TTCK Việt Nam. Bên cạnh áp lực cung từ cổ phiếu mới niêm yết, còn là áp lực cung từ việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu, tăng cung từ việc thoái vốn của các Tập đoàn theo quy định tại Nghị định 09/2009/ND-CP ngày 5/2/2009, tăng cung từ việc đáp ứng yêu cầu về hệ số CAR theo qui định tại Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010. Tổng cung cổ phiếu tăng khoảng 20% cả do phát hành và niêm yết mới trong khi khối lượng giao dịch hầu như không đổi, phản ánh cầu không đáp ứng cung, giá cổ phiếu trung bình giảm 20% so với 2009. Huy động vốn qua thị trường chứng khoán năm 2010 ước đạt 46,8 nghìn tỷ, tăng 167,4% so với năm 2009. + Vấn đề tăng nóng của các penny và các hệ lụy Trong bối cảnh dòng tiền vào thị trường yếu, các cổ phiếu bluechip với vốn hóa lớn không được ưa chuộng, làn sóng đầu cơ vào các cổ phiếu vừa và nhỏ lên ngôi trong suốt 5 tháng đầu năm 2010. Từ đó đã xuất hiện những cổ phiếu có kết quả kinh doanh lỗ hoặc kém hiệu quả mà giá vẫn tăng mạnh (MTG, PVA, SRA, SRB,…). Thay vì các tổ chức chính quy, thị trường dường như bị dẫn dắt bởi các đội lái cá nhân, hùa theo đó là các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Từ tháng 5/2010, cùng với xu hướng giảm của thị trường, nhóm cổ phiếu nhỏ lao dốc không phanh, gây mất niềm tin, sự chán nản tột độ của các nhà đầu tư nhỏ. + HNX-Index phản ánh trung thực diễn biến của thị trường hơn chỉ số VN-Index Trong nhiều giai đoạn của năm 2010, chỉ số VN-Index đã không còn phản ánh chính xác tình hình chung trên sàn HOSE khi chỉ cần một vài bluechip tăng điểm là giữ được màu xanh của chỉ số, gây ra hiện tương ảo của VN-Index. Hiện tượng thị trường thiếu cổ phiếu đầu tàu cũng đã diễn ra. Các bluechip trước kia (ACB, STB, SAM, REE, HAG, SSI,…) thì hiện nay với mức vốn quá lớn dường như thiếu động lực và cơ hội phát triển. Trong bối cảnh chỉ số VN-Index bị chi phối bởi vài cổ phiếu lớn, nhà đầu tư đã quan tâm đến chỉ số HNX-Index nhiều hơn, diễn biến trên sàn Hà Nội phản ánh cung cầu thật của thị trường. Giá cổ phiếu cũng thường biến động cùng chiều với biến động của chỉ số chính. + Các quy định mới của ngành ngân hàng và ảnh hưởng tiêu cực đến TTCK Một trong những nguyên nhân gây ra sóng gió của TTCKVN năm 2010 không thể không nói đến Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn của Tổ chức tín dụng và Nghi định số 141 ngày 22/11/2006 qui định việc tăng vốn điều lệ tối thiểu lên 3.000 tỷ đồng của các NHTM nhỏ đến cuối năm 2010. Áp lực tăng vốn trong một thời gian ngắn đã làm biến động mạnh thị trường lãi suất, với lãi suất huy động và cho vay không ngừng tăng cao, vượt quá khả năng chịu đựng của các DN. Áp lực tăng vốn cũng buộc các ngân hàng/ cổ đông phải bán danh mục cổ phiếu có sẵn để có tiền mua cổ phiếu mới. Điều này làm cho cổ phiếu ngân hàng không ngừng sụt giảm, gây ảnh hưởng tiêu cực đến TTCK. + Chiến lược của NĐTNN và khối lượng mua ròng mạnh nhất trong thập kỷ Không thể không nói đến vai trò của nhà đầu tư nước ngoài (NTĐNN) trong năm 2010. Khối NĐTNN vẫn kiên định chiến lược mua ròng các mã bluechips khi TTCK sụt giảm, đồng thời bán ra cơ cấu lại trong các phiên tăng điểm. Tính từ đầu năm đến nay, khối này mua ròng trên HSX tới 230 triệu đơn vị về khối lượng và 14.400 tỷ đồng về giá trị. Đây là khối lượng mua ròng kỷ lục trong 10 năm hoạt động của khối này tại TTCK Việt Nam (năm 2007 khối lượng mua ròng là 159 triệu đơn vị nhưng giá trị mua ròng kỷ lục là 22.874 tỷ đồng). Sự bền bỉ mua ròng của khối NĐTNN khi thị trường sụt giảm mạnh đã giúp họ bình quân được giá vốn với mức giá cao vào cuối năm 2009 đầu năm 2010. Ngoài ra, cũng có thể thấy rằng, với một lượng tiền đầu tư thấp hơn các năm trước, khối NĐTNN đã sở hữu được một lượng cổ phiếu lớn hơn hẳn. Đây phải chăng là một trong những chiến lược của NĐTNN, tranh thủ khi thị trường sụt giảm, nâng cao tỷ lệ sở hữu các doanh nghiệp có thương hiệu tốt với giá rẻ. + Dòng tiền mạnh bất ngờ nâng VN-Index hồi phục vào cuối năm Sự xuất hiện khá bất ngờ của dòng tiền mạnh cuối tháng 11/2010 đã giúp TTCK Việt Nam thoát khỏi kênh xu hướng giảm trung hạn. Thống kê cho thấy, trong quá trình đi lên từ đáy 419,98 điểm xác lập ngày 22/11/2010 đến vùng 440 điểm ngày 26/11, khối lượng khớp lệnh trung bình trên HSX là khoảng 27 triệu đơn vị/phiên, cao hơn một chút so với khối lượng giao dịch trong xu hướng giảm trung hạn trước đó. Dòng tiền có sự chuyển dịch mạnh mẽ vào TTCKVN khi chỉ số VN-Index bứt phá khỏi vùng kháng cự mạnh 440-450 điểm. Khối lượng giao dịch trên HSX bắt đầu nhích dần lên 60,70 triệu đơn vị, thậm chí đã xuất hiện các phiên giao dịch sôi động lên tới trên 100 triệu đơn vị/phiên, những con số thường thấy trong một xu hướng tăng trưởng của thị trường. Dòng tiền mạnh được xác định trước tiên từ các tài khoản lớn trong nước, bên cạnh đó là dòng vốn chốt lời từ các thị trường vàng, ngoại tệ, dòng vốn nóng từ các thị trường như Thái Lan, Malaysia, Indonesia… đã quay trở lại thị trường Việt Nam. Trong bối cảnh vĩ mô vẫn chưa có sự cải thiện nhiều thì sự xuất hiện của dòng tiền nóng là một dấu hiệu quan trọng cho xu hướng tăng bền vững của thị trường trong thời gian tới. Nếu đây là dòng tiền cho đầu tư lâu dài thì rất tốt, còn nếu chỉ là đầu cơ trong ngắn hạn thì rất nguy hiểm, bởi dòng vốn đầu cơ là ngắn hạn và bất thường. Nó có thể giúp thị trường phát triển nhanh chóng trong một giai đoạn, nhưng khi nó rút ra thì khả năng thị trường giảm sâu là hoàn toàn có thể xảy ra. Do vậy, những kỳ vọng về bức tranh vĩ mô sẽ sáng sủa hơn, trong đó chính sách tỷ giá ổn định kèm chính sách tiền tệ linh hoạt sẽ hoán đổi dòng tiền đầu cơ thành đầu tư, hoặc thu hút thêm dòng vốn đầu tư giá trị, sẽ là động lực tốt cho thị trường vốn Việt Nam phát triển. Biểu đồ VN-Index qua từng năm trong giai đoạn 2000-2010 2006 2007 2008 2009 2010 HOSE Tổng khối lượng GD(cổ phiếu) 547.746.220 1.836.320.594 3.153.555.778 11.277.489.471 11.666.679.269 Tổng giá trị GD (tỷ đồng) 33.771 195.194 127.553 422.461 375.436 VN-Index 633 927 314 495 497 SLDN Niêm yết 86 123 155 203 280 Tổng vốn hóa (tỷ đồng) 157.967 364.425 169.346 494.072 582.523 HNX Tổng khối lượng GD(cổ phiếu) 31.021.750 354.000.255 1.500.927.170 5.509.202.867 8.585.875.704 Tổng giá trị GD (tỷ đồng) 1.070 32.192 55.510 222.380 236.932 HNX-Index 243 324 105 168 113 SLDN Niêm yết 101 128 184 259 342 Tổng vốn hóa (tỷ đồng) 73.189 129.000 50.428 125.450 143,578 Bảng thống kê thị trường 5 năm qua từ năm 2006 – 2010 2.3 Những bài học rút ra trên thị trường chứng khoán Việt Nam Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lại xuất hiện một trào lưu, một chiến thuật đầu tư mới, mỗi lần như vậy nhà đầu tư Việt Nam lại có những hành động để phù hợp với hoàn cảnh mới. Bắt đầu từ năm 2006, khi mà thị trường chứng khoán Việt Nam bùng nổ, nhà nhà chơi chứng khoán, từ chuyên gia chứng khoán tới bà “bán rau” cũng có thể chơi chứng khoán và đã chơi là thắng, khi đó người ta chỉ tính tới việc nên chọn mã chứng khoán nào để tăng giá nhanh nhất, luồng tiền từ các ngả đều đổ vào chứng khoán, từ các tập đoàn, tổng công ty, các doanh nghiệp,ngân hàng, các quỹ đầu tư, việt kiều, nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư trong nước. Với một số lượng không nhiều các công ty niêm yết trên sàn, lượng tiền đổ vào chứng khoán lại rất lớn, cùng với các tin tức vĩ mô tốt, đặc biệt là Việt Nam gia nhập WTO,  VN-Index đã tăng điểm ngoạn mục tới đính điểm hơn 1.000 điểm, các công ty tìm mọi cách để cổ phần hóa, phát hành thêm vốn nhanh chóng. Thời kỳ này, nhiều nhà đầu tư Việt Nam bắt đầu làm quen với các khái niệm về thị trường chứng khoán, cách đọc báo cáo tài chính, họp cổ đông… Năm 2007, các nhà đầu tư đã học được bài học thất bại đầu tiên khi thị trường giảm điểm mạnh bởi sự ra đời chỉ thị 03 của NHNN quy định hạn chế tỷ lệ ngân hàng cho vay và đầu tư trên thị trường chứng khoán. Việc này đã chấm dứt thời kỳ cứ đầu tư chứng khoán là thắng và chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn đầu tư theo chân nhà đầu tư nước ngoài. Thời kỳ mới này, nhà đầu tư nước ngoài thường làm mưa làm gió trên thị trường chứng khoán Việt Nam, các nhà đầu tư trong nước rất hay mua theo các khuyến nghị và phân tích của các chuyên gia, các tổ chức nước ngoài, đồng thời theo dõi chặt chẽ các động thái mua bán của họ. Số lượng các nhà đầu tư trong nước có khả năng tự đánh giá và phân tích độc lập để có cách chơi riêng của mình không nhiều, họ lắng nghe phân tích của các chuyên gia nước ngoài để đầu tư, trong giai đoạn này nhiều nhà đầu tư trong nước cũng mới bắt đầu tập nghe và hiểu dần cách phân tích, lập luận của các chuyên gia. Năm 2008, các nhà đầu tư đã hiểu thế nào là khủng hoảng tài chính và thế nào là sự sụp đổ của thị trường chứng khoán. Cũng giống như thị trường chứng khoán các nước trên thế giới, thị trường chưng khoán Việt Nam sụp giảm thảm hại, nhiều quan điểm của các chuyên gia và giới đầu tư kêu gọi bảo vệ, cứu nguy thị trường chứng khoán, nhưng cũng không thể cứu nổi, nhiều nhà đầu tư đã trắng tay và trở thành con nợ, nhiều công ty, tổng công ty bị thua lỗ nặng vì đầu tư tài chính. Các phân tich của mọi chuyên gia đều không có nhiều giá trị. Nhiều nhà đầu tư rời bỏ thị trường.  Nhà  đầu tư trong nước đã học được những bài học lớn nhất và cay đắng nhất trong đầu tư vào thị trường chứng khoán. Năm 2009, cùng với sự hồi sinh của kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam, giá cổ phiếu trở nên quá rẻ, mua cổ phiếu để hưởng cổ tức còn cao hơn cả tiền lãi gửi tiết kiệm, các nhà đầu tư bắt đầu chuyển từ trạng thái sợ hãi dần dần tự tin trở lại, sự tăng điểm của thị trường chứng khoán đã làm cho lòng tham tiếp tục gia tăng và lại bắt đầu một chu kỳ đầu tư là thắng, tuy nhiên lần này thì sự tham gia của ngân hàng, các tổng công ty đã bị hạn chế, chỉ còn chủ yếu các quỹ, các công ty chứng khoán, và nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào thị trường là chủ yếu. Năm 2009 là năm các nhà đầu tư học được bài học về sử dụng đòn bẩy tài chính, thị trường tăng điểm đã kiến các nhà đầu tư mờ mắt, liên tục yêu cầu mức đòn bẩy cao hơn và đổ tiền vào thị trường. Khi mức đòn bảy đã quá cao, thị trường chứng  khoán điều chỉnh trở lại thì nhiều nhà đầu tư đã nếm mùi “cháy”  tài khoản, đòn bẩy tài chính đã làm cho các nhà đầu tư thua lỗ nhanh hơn, mọi công sức kiếm tiền trong vài tháng chỉ cần một tuần giảm điểm là hết sạch. Năm 2010, các nhà đầu tư Việt Nam đã trở nên dè dặt hơn khi đầu tư vào thị trường chứng khoán, các nguồn tiền từ ngân hàng, các tổng công ty, Việt Kiều và cả nước ngoài đổ vào chứng khoán Việt Nam không còn mạnh mẽ như trước, số lượng các công ty niêm yết trên sàn và số lượng cổ phiếu phát hành cũng tương đối lớn. Với một sự hạn chế về dòng tiền và số lượng lớn cổ phiếu niêm yết như vậy, một chiến lược đầu tư mới ra đời, đầu tư vào các penny chip, giá trị vốn hóa nhỏ. Các nhà đầu tư Việt Nam lại đầu tư theo trào lưu mới, đầu tư theo “đội lái”, không cần phân tích  kỹ thuật, phân tích cơ bản, chủ yếu tìm kiếm động thái của các đội lái để đầu tư theo. Nhưng rồi, cái gì phải đến thì cũng đã tới, nếu coi đầu tư trên thị trường chứng theo quan điểm chơi bạc thì chắc chắn phải có người thua và kẻ thắng, những người đầu tư thiếu kinh nghiệm, không làm chủ được tình hình dễ bị thua, và phần thắng thuộc về các “đội lái”. Hiện nay, thị trường có không nhiều các nhà đầu tư mới, những người không chuyên nghiệp mà muốn giàu nhanh từ thị trường chứng khoán phần lớn bị thua lỗ và đã rời bỏ thị trường, những người còn bám trụ thị trường thì một là đầu tư theo trường phái giá trị, hoặc là những người khá chuyên nghiệp, nên việc đầu tư theo quan điểm cũ, không hiểu sâu sắc về doanh nghiệp có thể sẽ thay thế dần bằng quan điểm đầu tư giá trị. 2.4 Tổng kết quá trình 10 năm phát triển của thị trường chứng khoán VN : Thành tựu : Sau 10 năm được thành lập thị trường chứng khoán có những thành tựu sau: TTCK Việt Nam gồm có ba sàn giao dịch, trong đó có hai sàn giao dịch chính thức và một sàn giao dịch OTC. Cụ thể: Sàn giao dịch chứng khoán TP HCM – HOSE. Đây là nơi giao dịch cổ phiếu của các công ty niêm yết có mức vốn hóa từ 80 tỷ đồng trở lên. Sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội – HNX. Đây là nơi giao dịch cổ phiếu của các công ty niêm yết cỡ vừa và nhỏ. Sàn UPCOM (thị trường giao dịch chứng khoán chưa niêm yết) được chính thức đưa vào hoạt động ngày 24/06/2009. Đến ngày 19/7/2010, giao dịch khớp lệnh liên tục được áp dụng, giúp cho hoạt động trên sàn UPCoM trở nên sôi động hơn. Về chất lượng từ chỗ sử dụng công nghệ giao dịch bán tự động với hình thức đại diện giao dịch tại sàn, hiện nay cả 2 sàn đều thực hiện giao dịch điện tử hóa hoàn toàn dưới hình thức kết nối và giao dịch trực tuyến. Về số lượng công ty niêm yết cho thấy bước phát triển của thị trường chứng khoán theo Ủy ban chứng khoán Nhà nước, qua 10 năm phát triển thị trường chứng khoán, số lượng công ty niêm yết đã tăng từ 2 công ty lên 550 công ty với mức vốn hoá thị trường trên 700.000 tỉ đồng, chiếm trên 40% GDP Số lượng các tổ chức trung gian trên thị trường chứng khoán đã tăng từ 7 công ty chứng khoán và 1 công ty quản lý quỹ trong thời gian đầu lên 105 công ty chứng khoán và 46 công ty quản lý quỹ tính đến hôm nay. Nhìn chung qua 10 năm hoạt động, chỉ số VN-Index có nhiều biến động theo diễn biến thị trường và sự tác động của tình hình kinh tế. Nhưng nếu so với giai đoạn đầu hoạt động, TTCK không thu hút được nhiều sự chú ý của công chúng, bằng chứng là giá CK luôn ở mức rất thấp và ít biến động; thì 5 năm hoạt động về sau TTCK Việt Nam đã có nhiều diễn tiến theo sát với tình hình kinh tế đất nước. Công chúng cũng đã giành nhiều sự quan tâm hơn cho TTCK. Hiện nay, diễn biến giá cả trên các sàn giao dịch chứng khoán luôn được cập nhật hằng ngày trên các phương tiện thông tin. Đây rõ ràng là một sự tiến bộ vượt bậc của TTCK Việt Nam Hạn chế : Trong bối cảnh tăng nóng của thị trường và trong bối cảnh chất lượng kiểm soát báo cáo tài chính của nhiều công ty kiểm toán không được bảo đảm, việc nhiều công ty niêm yết tranh thủ phát hành đã làm cho chất lượng cổ phiếu niêm yết có chiều hướng giảm sút. Đồng thời có tình trạng một số công ty vừa mới niêm yết trên sàn Hà Nội đã báo lỗ đã đặt ra câu hỏi về chất lượng hàng hóa và công tác thẩm định hồ sơ của doanh nghiệp xin niêm yết, cũng như trách nhiệm của cơ quan tổ chức và quản lý thị trường trước tình trạng hàng hóa kém chất lượng được đưa vào sàn, làm giảm tính hấp dẫn của kênh đầu tư chứng khoán. Cổ phiếu kém chất lượng lên sàn, giá giảm, ít người mua. Việc giảm giá đó góp phần kéo chỉ số chung của thị trường đi xuống, làm các nhà đầu tư cũ nản lòng, còn nhà đầu tư mới e ngại.Song song bên cạnh đó là việc các doanh nghiệp có cổ phiếu niêm yết chậm nộp báo cáo tài chính lên sở giao dịch chứng khoán gần như trở thành thông lệ cho thấy rất nhiều DN vẫn chưa nhận thức được nghĩa vụ công bố thông tin cho cổ đông của mình. Trong khi nguồn cung chứng khoán có tốc độ phát triển mạnh, đôi khi đẩy thị trường đến tình trạng quá tải và số lượng các CTCK được cấp phép hoạt động cũng gia tăng nhanh quá mức cần thiết thì số lượng nhà đầu tư, đối tượng cần phát triển thì lại tăng quá chậm, không tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và quy mô dân số của Việt Nam. Cụ thể, trong số gần 900.000 tài khoản hiện có đến nay, nếu loại trừ số tài khoản được mở để tránh né các quy định, con số tài khoản thực sự giao dịch ước tính chỉ khoảng 300.000 - 500.000. So với mức dân số xấp xỉ 85 triệu của nước ta, cho dù có muốn thừa nhận hay không, tỷ lệ chưa tới 1% nhà đầu tư chứng khoán trong tổng dân số là mặt hạn chế nhất trong 10 năm hình thành và phát triển của TTCK Việt Nam. Tình trạng làm giá, thao túng giá với các kỹ thuật phao tin; các kỹ thuật xuất bản các báo cáo phân tích khẳng định một cách chắc chắn sự phát triển của VN-index đã tạo nhiều tiềm tàng đầu cơ trên thị trường chứng khoán gây lũng đoạn thị trường làm sai lệch xu hướng phát triển của thị trường và gây tâm trạng hoang mang cho nhà đầu tư vẫn còn tiếp diễn .Bên cạnh đó tình trạng tùy tiện trong công bố thông tin, cô

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCD4_ SuPhatTrienTTCK .doc
Tài liệu liên quan