Đề tài Thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam: thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG

XUẤT KHẨU NÓI CHUNG VÀ THI TRƯỜNG XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC NÓI RIÊNG 3

I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG VÀ THỊ TRƯỜNG

XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC 3

1. Bản chất của thị trường và thị trường xuất khẩu câc mặt hàng chủ lực 3

2. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá nói chung và các mặt hàng

chủ lực nói riêng. 4

II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA XUẤT KHẨU HÀNG HÓA NÓI CHUNG VÀ XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC NOÍ RIÊNG 6

1. Nhận biết về mặt hàng xuất khẩu 6

2. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng 6

3. Lựa chọn đối tượng buôn bán 8

III. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ NÓI CHUNG VÀ XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC NÓI RIÊNG 9

1. Các thuế quan và hạn ngạch(tariffs and quotas) 9

2. Các quy định liên quan đến sức khoẻ và an toàn 10

3. Các yếu tố kinh tế 10

4. Các yếu tố về văn hoá và xã hội 11

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU

CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM 12

I. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG

CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM 12

1. Về cơ hội 12

2. Về khó khăn và thách thức 14

3. Cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu chủ lực sang các thị trường 15

3.1. Nhóm hàng nguyên vật liệu 15

3.2. Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản 16

3.3. Sản phẩm chế biến và chế tạo 17

II. THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CÁC NMẶT HÀNG CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM 18

1. Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam 18

1.1. Thị trường Châu Á- Thái Bình Dương 18

1.2. Thị trường EU 24

1.3. Thi trường Mỹ 26

2. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 29

2.1. Dầu thô 29

2.2. Hàng dệt may 31

2.3. Giày dép 35

2.4. Thuỷ sản 37

2.5. Gạo 39

2.6. Cà phê 42

III. KẾT LUẬN RÚT RA QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU 46

CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỄN THỊ TRƯỜNG

XUẤT NHẬP KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC

CỦA VIỆT NAM 49

I. HOÀN THIỆN MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ VÀ ĐỔI MỚI,

HOÀN THIỆN CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH XUẤT KHẨU 49

II. CÁC GIẢI PHÁP CHÍNH ĐỂ PHÁT TRIỄN THỊ TRƯỜNG

XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM 50

1. Tạo khung pháp lý thuận lợi cho hàng xuất khẩu chủ lực

của Việt Nam vào thị trường nước ngoài 50

2. Tăng cường các biện pháp thâm nhập thị trường cho hàng xuất khẩu. 51

3. Nâng cao trách nhiệm và năng lực của cơ quan và tổ chức làm

công tác thị trường nước ngoài. 52

4. Hổ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại. 53

5. Xây dựng đội ngủ cán bộ và doanh nghiệp ngoại thương hùng mạnh. 53

6. Tổ chức tốt việc thu thập, xử lý và cung cấp thương mại

cho các doanh nghiệp 54

7. Sớm xây dựng và ban hành cơ chế công tác thị trường ngoài nước: 54

III. ĐIỀU KIÊN TIỀN ĐỀ ĐỂ THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP TRÊN 55

1. Để thâm nhập, tìm kiếm thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực

của Việt Nam cần làm rõ trách nhiệm của Nhà nước, Hiệp hội

và các doanh nghiệp 55

1.1. Về phía nhà nước 55

1.2. Về các hiệp hội ngành hàng 56

1.3. Về phía doanh nghiệp 56

2. Không ngừng hoàn thiện cơ chế, chính sách đẩy mạnh xuất khẩu: 57

KẾT LUẬN 58

TÀI LIỆU THAM KHẢO 59

 

doc60 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2320 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam: thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ã phát triễn khả quan hơn trước nhiều song vẫn chưa thực sự xứng với tiềm năng và nhu cầu phát triễn của mỗi nước. Cần phải có những giải pháp đồng bộ để phát huy lợi thế so sánh của nước ta. 1.2. Thị trường EU Chính sách thương mại Việt Nam-EU có nhiều chuyển biến tích cực. Bắt đầu từ tháng 11/1990 quan hệ Việt Nam và cộng đồng Châu Âu đã được bình thường hoá. Tháng 12/1993 Việt Nam đã ký hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU. Với hiệp định này hàg dệt may xuất sang EU tằng từ 130 triệu USD năm 1992 lên 294 triệu USD năm 1993. Ngày 17/7/1995, tại Brussel đã ký hiệp định hợp tác giữa cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và EU, trong đó EU dành cho Việt Nam quy chế tối huệ quốc(MFN) và quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập(GSP). Hiệp định này tạo cơ sở pháp lý quan tropng là nền tảng cho việc thcs đẩy quan hệ Việt Nam-EU trên nhiều lĩnh vực như: kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học kỹ thuật, giáo dục... Chính cơ sở pháp lý trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam khai tác các lới thế so sánh để xuất khẩu sang EU, nhất là hàng dệt may và dày dép. Từ chổ hầu như bị cấm vận, nhóm hàng này của Việt Nam xuất khẩu sang EU năm 2000 đạt gần 700 triệu USD.Riêng mặt hàng dày dép ,từ 1995 đến nat được xuất khẩu tự do sang EU . Đến năm 1991 tông kim nghạch xuất nhập khẩu giữa hai bên mới là 392 triệu USD (Trong đó Niệt Nam xuất 193 triệu USD , nhập 200 triệu USD)thi đến năm 1999 thi con số này là 3.9 tỹ USD tâng gâp 10 lần( trong đó Việt nam xuất gần 2,9 tỹ USD , nhập 1 tỷ USD )tỷ lệ hàng chế biến ngày càng tăng . Đến nay cả Việt nam và EU đều xem nhau là đối tác quan trọng. Trong các quốc gia EU, Đức là bạn hàng thứ 4 của Việt Nam, Anh là nước thức 9, Pháp và Hà Lan đứng thứ 12 và 13. Mới đây EU công nhận Việt Nam áp dụng cơ chế kinh tế thị trường. Nhờ đó mà hàng hoá Việt Nam không còn bị bất lợi so với hàng của các nước khác khi EU điều tra và thi hành các biện pháp chống phá giá. Những thuận lợi này càng tạo thêm các cơ hội mới cho hai bên mở rộng các quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư trong thời gian tới. Về những mặt hàng cụ thể, khả năng thâm nhập thị trường EU của các sản phẩm truyền thống của Việt Nam như: dày dép, quần áo, thuỷ sản... nên tăng thêm do đang được giảm miễn thuế GSP. Trong khi đó nhiều nhóm hàng của các nước có khả năng rất mạnh trên thị trường EU đã bị loại khỏi diện được hưởng GSP(do tỷ lệ tổng sản phẩm trong nước tính trên đầu người của các nước đó đã đạt tới mức không được hưởng GSP nữa, hoặc do nhóm hàng nào đó đã chiếm tới 25% thị phần hoặc bán phá giá tai thị trường EU). Với việc EU công nhận 40 doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam đã đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sang EU là điều kiện thuận lợi để đảm bảo xuất khẩu ổn định. Ngoài ra điều này còn giúp nâng cao uy tính về chất lượng hàng thuỷ sản Việt Nam trên các thị trường khác, tăng khả năng thâm nhập thị trường của nhóm hàng này. Đặc biệt là mấy năm gần đây hàng điện tử Việt Nam xuất sang EU đã tăng nhanh, đến năm 1999 kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 60 triệu USD. Sản phẩm tủ công mỹ nghệ cũng được người tiêu dùng EU ưu thích. Nếu sản phẩm được sản xuất theo đơn đặt hàng của mùa vụ(hàng lưu niệm phục vụ các sự kiện văn hoá xã hội chẳng hạn), đảm bảo chất lượng, mẩu mả và thời gian giao hàng, chắc chắn khả năng thâm nhập vào thị trường EU sẽ rất lớn. Đấy là điều các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý và nên hợp tác chặt chẻ với các doanh nghiệp để nắm bắt thông tin thị trường. EU thực sự là một thị trường đầy tiềm năng, với số dân 374,2 triệu người với GDP hơn 9000 tỷ USD, được xác định là khu vực thị trường rộng lớn phát triễn cao. Nhưng để hàng hoá của Việt Nam xâm nhập vào thị trường này ngày một rộng lớn thì vấn đề mấu chốt ở đây là Việt Nam phải đáp ứng được yêu cầu chất lượng cao của EU, việc Việt Nam có mở rộng được thương mại sang các thành viên EU chủ yếu là yêu cầu này. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, điều quan trọng là phải nghiên cứu xem họ có nhu cầu gì, nhu cầu đến đâu và bảo hoà chưa, đây chính là bí quyết trong cuộc cạnh tranh với các nước khác để mở rộng xuất khẩu sang thi trường EU. Bên canh những thuận lợi lớn thì xuất khẩu những mặt hàng chủ lực của Việt Nam vẫn còn những trở ngại khó khăn: Thứ nhất là những hạn chế bởi hạn ngạch nhập khẩu mà cụ thể là đối với hàng dệt may của Việt Nam. Mặc dù khối lượng hàng dệt may đã tăng lên nhiều so với trước nhưng còn thấp so với khả năng cung cấp của Việt Nam và nhu cầu mua hàng của các nhà nhập khẩu EU. Thứ hai là hàng rào thuế quan của EU đối với một số mặt hàng nông sản của Việt Nam có thể xuất sang EU lại rất cao. Chẳng hạn như thuế nhập khẩu gạo lên trên 100%, đường gần 200%(mặc dù đã được giảm thuế theo GSP), trong khi một số lượng lớn hàng của nhiều nước khác được giảm nhiều hơn hoặc được miễn thuế do được hưởng các ưu đãi thương mại riêng. Hàng hoá Việt Nam xuất sang EU khó cạnh tranh được với các hàng hoá của các vùng Châu Phi, Thái Bình Dương, Caribe, cũng như một số nước Đông Âu do các nước này được hưởng các ưu đãi thương mại theo công ước Lomé hoặc các hiệp định ký kết. Thứ ba là theo quy định của EU, nước xuất khẩu phải có kế hoạch và thiết bị đầy đủ để giám sát dự lượng độc tố trong nhóm hàng noong sản và thực phẩm. Do cơ quan chức năng của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu trên nên từ trước đến nay nhiều mặt hàng nông sản thực phẩm, như thịt chẳng hạn, chưa xuất được sang EU. Ngoài ra, một trở ngại rất quan trọng là các doanh nghiệp Việt Nam chưâ lập được quan hệ đối tác trực tiếp với nhà nhập khẩu mà phần lớn hàng Việt Nam phải xuất qua trung gian và dưới dạng gia công(theo ước tính, hiện nay từ 10-45% tổng giá trị giày dép và quần áo của Việt Nam xuất khẩu sng EU là qua trung gian). 1.3. Thi trường Mỹ Đây là nước nhập khẩu hàng lớn nhất thế giới, mỗi năm nhập khẩu 1000 tỷ USD hàng hoá, với nhu cầu đa dạng, nắm bắt những đỉnh cao về công nghệ nguồn. Sau khi quan hệ ngoại giao được bình thường hoá, quan hệ buôn bán giữa Việt Nam vẫn còn gặp những trở ngại lớn do hai nước chưa ký được Hiệp định thương mại song phương và do Hoa Kỳ chưa dành quy chế tối huệ quốc(MFN) hay quy chế quan hệ buôn bán bình thường(NTR) cho Việt Nam. Khi chưa được cấp quy chế, hầu hết hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ phải chịu mức thuế rất cao, ví dụ như 3 laọi hàng hoá cụ thể sau: Có tối huệ quốc Không có tối huệ quốc Một số sản phẩm dày dép Một số loại đồng hồ đeo tay Một số loại quần áo bằng vải bông 6% 6,25% 10% 35% 80% 90% Nguồn: Desiderio, tr 26, 27 Tổng mức thuế quan đánh vào hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ khi đã được quy chế tối huệ quốc sẽ giảm từ 3,5% xuống 4,9% trong những laọi mặt hàng Việt Nam có khả năng xuất khẩu được nhiều như hàng may mặc có thể giảm mức thuế quan từ 68,9% xuống 13,4%, hay dệt may từ 55,1% xuống 10,3%. Mặc dù còn phải chịu mức thuế quan cao như vậy, nhưng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng lên nhanh chóng, tăng lên 10 lần trong vòng 5 năm từ 50 triệu USD năm 1994, năm Hoa Kỳ từ bỏ cấm vận thương mại chống Việt Nam, lên 500 triệu USD năm 1998, 3 năm sau khi tổng thống Bill Clinton tuyên bố bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Theo bộ thương mại Việt Nam, mức tiêu dùng của người Mỹ cao gấp hai lần của người Nhật và bằng 1,6 lần của người Châu Âu. Do đó, thị trường Mỹ là thị trường tiêu thụ rộng lớn và có yêu cầu về chất lượng đa dạng hơn thị trường Châu Âu và Nhật. Các mặt hàng nông sản, hải sản, nguyên vật liệu nhập vào Hoa Kỳ không bị đánh thuế hoặc chịu thuế thấp. Đây cũng là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Tuy nhiên trừ cà phê, tiêu, điều, các mặt hàng chưa chế biến như bắp, đậu nành, hoa quả xuất sang Mỹ cũng bị hạn chế vì Mỹ cũng là nước sản xuất nông sản lón của thế giới. Hoa Kỳ là một thị trường quan trọng đối với hàng hải xuất khẩu, hiện chiếm khoảng 10% tổng giá trị hải sản xuất khẩu của Việt Nam. Dự kiến đến năm 2005, thị trường Hoa Kỳ có thể tiêu thụ tới 20% tổng giá trị hải sản xuất khẩu của Việt Nam. Hiện nay phần lớn hàng xuất khẩu sang Mỹ là hàng nông-hải sản nhưng chỉ mới đạt được vài trăm triệu/năm, con số đó quả là nhỏ bé so với tổng giá trị nhập khẩu hàng nông-hải sản của Hoa Kỳ khoảng 50 tỷ USD mỗi năm. Trong quan hệ buôn bán với Hoa Kỳ, Việt Nam là một trong số ít nước mà Hoa Kỳ thường xuyên có số dư thương mại, tuy số lượng không lớn. Chỉ riêng năm 1998 bị thiếu hụt vì số nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ sụt xuống do mức tăng trưởng của Việt Nam giảm so với các năm trước do cuộc khủng hoảng ở khu vực Châu á, Việt Nam phải hạn chế nhập khẩu. So với các nước ASEAN khác, mức độ buôn bán của Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn còn nhỏ bé. Năm 1997 mặc dù Việt Nam đã cố găng nâng được tổng giá trị ngoại thương với Hoa Kỳ lên tới 1,2 tỷ USD, nhưng so với tổng giá trị buôn bán giữa ASEAN và Hoa Kỳ lên trên 119 tỷ USD cũng trong năm đó. So với từng nước ASEAN riêng rẻ cũng vậy, vị trí của Việt Nam trong thị trường Mỹ là tương đối nhỏ bé. Năm 1997, tổng giá trị buôn bán giữa Hoa Kỳ và Indonesia là 13 tỷ USD, so với Malayxia là 29 tỷ USD, với Philippin là 18 tỷ USD, Singapore 38 tỷ USD và Thái Lan 20 tỷ USD, vị trí Việt Nam càng nhỏ bé. Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ đã được ký kết và được hạ viện và thượng viện Mỹ thông qua hiện nay đang chờ tổng thống ký. Khi hiệp định này được thực hiện sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Với những mặt hàng chủ yếu như dệt may, dày dép, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí-điện, sản phẩm gỗ, tủ công mỹ nghệ, hải sản, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, chè, gia vị, rau quả và thực phẩm chế biến. Các mặt hàng cần bắt tay ngay vào việc nghiên cứu thị trường Mỹ từ trước khi ký hiệp định nên hâù như đã có thể sẵn sàng xuất phát. Dự kiến đến năm 2010 xuất khẩu của Việt Nam và thị trường Mỹ cần phải đạt tỷ trọng khoảng 15-20% so với 5-6% hiện nay. Hoa Kỳ sẽ là khâu đột phá về thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam trong 10 năm tới đây. Tóm lại, trong thời gian tới, bên cạnh tiếp tục cũng cố và tăng cường chổ đứng tại các thị trường đã có thì khâu đột phá trong thời gian tới là sự gia tăng sự có mặt tại các thị trường Trung Quốc, Nga, mở ra thị trường Mỹ, Châu Phi và trong chừng mực nào đó là thị trường Mỹ La Tinh. Nhìn chung lại, tới năm 2010, tỷ trọng các thị trường xuất khẩu được dự kiến như sau: Thị trường Tỷ trọng 2000 (%) Tỷ trọng 2010 (%) Châu á 57-60 46-50 Nhật Bản 15-16 17-18 ASEAN 23-25 15-16 Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông 16-18 14-16 Châu Âu 16-18 27-30 EU 26-27 25-27 SNG và Đông Âu 21-22 3-5 Bắc Mỹ(chủ yếu là Mỹ) 1,5-2 15-20 Australia và New Zealand 3-5 5-7 Các khu vực khác 2 2-3 Nguồn chiến lược XNK Việt Nam 2000-2010 2. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 2.1. Dầu thô Trong những năm gần đây mặt hàng dầu thô luôn luôn dẫn đầu trong kim ngạch hàng hóa của Việt Nam thường đóng góp 15-20% kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay ở vùng biển phía nam của Việt Nam có 3 mỏ lớn đang được khai thác: mỏ Rồng, Bạch Hổ, Đại Hùng với công suất gần 200.000 thùng/ngày. Ngoài ra còn khoảng 10 mỏ khác vùng lân cận phát hiện ra đã gặp dầu. Năm 1999 và năm 2000 vừa qua được đánh giá là rất thuận lợi cho xuất khẩu dầu thô vì giá tăng cao. Tổng khối lượng dầu thô xuất khẩu trong năm 1999 đạt 14,7 triệu tấn tăng 2,597 triệu tấn hay 21,4% so với năm 1998. Nhưng điều quan trọng hơn là giá dầu thô xuất khẩu năm 1999 tăng vọt so với năm 1998 lần đầu tiên nước ta có mặt hàng xuất khẩu đạt kỷ lục về kim ngạch 2 tỷ USD/năm. So với dự kiến đầu năm chỉ có 1,5 tỷ USD, thì việc đạt mức 2 tỷ USD rõ ràng là điều bất ngờ. Năm 2000 vừa qua giá dầu thô của thế giới vẫn tiếp tục ở mức cao nên chúng ta đã tập trung khai thác và đạt sản lượng 16,3 triệu tấn đạt giá trị 2,5 tỷ USD tiếp tục đạt kỷ lục về xuất khẩu. Và dự kiến đến năm 2001 xuất khẩu dầu thô có thể lên tới 2,8 tỷ USD. Những bạn hàng xuất khẩu dầu thô chủ yếu của Việt Nam gồm Nhật Bản, Singapore và Trung Quốc. Trong đó Nhật Bản là bạn hàng lớn chiếm khoảng 70%. Sau Nhật Bản là Singapore giữ tỷ trọng nhập từ 17-20%. Đứng thứ ba là Trung Quốc chiếm khoảng 5-10%. Trong những năm tới thị trường xuất khẩu vẫn là 3 thị trường trên, ngoài ra còn có thị trường Hoa Kỳ và Ô- xtrây-lia. Một thực tế là trong những năm gần đây mặc dù chúng ta đạt khối lượng và giá trị cả về xuất khẩu dầu thô hàng năm rất cao. Nhưng do chưa có máy lọc dầu nên hàng Việt Nam phải nhập một khối lượng xăng dầu rất lớn khoảng 8-9 tỷ tấn, nên nhập khẩu xăng dầu cũng chịu giá nhập khẩu rất cao và đạt kỷ lục về giá trị hàng nhập khẩu. Do vậy mặc dù trong vài năm trở lại đây giá dầu thô tăng cao nhưng do giá nhập khẩu cũng cao nên thực chất nếu xét chung thì chúng ta không được lợi nhiều. Hiện nay Việt Nam đang khẩn trương xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất. Sau khi nhà máy đi vào hoạt động lượng xuất khẩu dầu thô sẽ giảm dần. Dự kiến đến năm 2005 lượng dầu thô xuất khẩu chỉ còn khoảng 12 triệu tấn/năm( hiện nay là 16 triệu tấn/năm). Tới năm 2010 có hai phương án tuỳ thuộc vào lượng khai thác: - Nếu khai thác 14-16 triệu tấn/năm thì sẽ sữ dụng trong nước khoảng 12 triệu tấn, xuất khẩu 2-4 triệu tấn. - Nếu khai thác 20 triệu tấn/năm thì có khả năng xuất khẩu 8 triệu tấn. Dù theo phương án nào thì kim ngạch xuất khẩu dầu thô cũng sẽ giảm đáng kể vào năm 2010. Việc giảm xuất khẩu dầu thô sẽ đi đôi với việc giảm nhập khẩu sản phẩm xăng dầu từ nước ngoài. Dự kiến đến năm 2010 sản xuất trong nước đáp ứng được gần 80% nhu cầu về sản phẩm dầu khí, tức là khoảng 13 triệu tấn sản phẩm/ năm, giá trị trên 3 tỷ USD. Nhập khẩu xăng dầu vào năm 2010 chỉ còn khoảng 4 triệu tấn, giảm 50% so với 8 triệu tấn hiện nay. 2.2. Hàng dệt may Hàng dệt may trong những năm gần đây chiếm một vị trí rất quan trọng góp vào giá trị xuất khẩu và nâng cao sản lượng của ngành công nghiệp. Bắt đầu từ năm 1995, hàng dệt may đã đướng thứ hai chỉ sau ngành dầu khí trong xuất khẩu, trong khi trước đó chỉ đướng thứ 4 sau cả thuỷ sản và gạo. Năm 1991 tổng giá trị hàng dệt may chỉ đạt 117 triệu USD thì đến năm 2000 đạt 1.815 triệu USD tức là tăng gấp 15,5 lần so với năm 1991. Với kinh nghiệm của các nước đã phát triễn và các nước công nghiệp mới ở Châu á, ngành dệt may xuất khẩu được coi là ngành mũi nhọn trong chiến lược kinh tế- xã hội của Việt Nam từ nay đến 2000. Bên cạnh đóng góp rất lớn vào kim ngạch xuất khẩu thì hàng dệt may còn có một đóng góp rất lớn nữa là giải quyết công ăn việc làm cho một đất nước gần 80 triệu dân với mức sống còn thấp, trình độ dân trí chưa cao nhưng cần cù, chăm chỉ. Hiện nay phần lớn hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường có hạn ngạch như: EU, Thổ Nhĩ Kỳ, Canađa, trong đó EU là thị trường trọng điểm. Với một thị trường 360 triệu dân có mức vải tiêu dùng hàng đầu thế giới(17 kg/người/năm), đây là một thị trường tốt để Việt Nam đầu tư và khai thác. Tuy nhiên thị trường EU là một thị trường khó tính, người tiêu dùng đòi hỏi về chất lượng và mẩu mả rất cao. Trong tổng số 63 tỷ USD áo quần nhập khẩu vào EU hàng năm chỉ 9 tỷ USD áo quần tiêu dùng bình thường, số còn lại khoảng 87% là sử dụng theo mốt. Vì vậy, giá trị hàm lượng chất xám tỏng sản phẩm cao hơn rất nhiều so với giá trị vật liệu cấu thành nó. Điều này giải thích tại sao giá xuất khẩu giữa hai loại sản phẩm tương đồng của Việt Nam và Thái Lan lại có sự chênh lệch khá cao.. Đây là một thiệt thòi lớn do việc tạo mốt của chúng ta còn non kém. nhờ một số thay đổi trong hiệp định buôn bán hàng dệt may EU-Việt Nam giai đoạn 1998-2000 hàng may mặc nước ta có nhiều cơ hội mở rộng thị trường sang EU. Theo hiệp định này, từ năm 1998, Việt Nam được phép tự do chuyển đổi quota giữa các hàng một cách rộng rãi hơn(17% so với trước kia là 12%). Hơn nữa Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc và quy chế phổ cập của EU. Vì thế một số mặt hàng dệt may của Việt Nam được hưởng thuế quan nhập khẩu 0% làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm nước ta. Tuy nhiên, hàng dệt may của Việt Nam đến nay vẫn phải thông qua nước thứ 3 như Đài Loan và Đức... để vào thị trường nước ngoài. Bên cạnh những thị trường có hạn ngạch, Việt Nam đã thâm nhập vào một số thị trường không có hạn ngạch khổng lồ như: Nhật Bản, Mỹ, Singapore và Đông Âu... để tiêu thụ hàng dệt may xuất khẩu. Trong đó thị trường Nhật Bản là thị trường lớn nhất không chỉ số dân hơn 125 triệu người mà còn là nước có nức tiêu thụ sản phẩm may mặc lớn. Tuy nhiên Việt Nam mới chỉ đáp ứng được nhu cầu may mặc bình dân của người Nhật Bản với các mặt hàng chủ yếu là áo gió nam, quần áo lao động, một số loại sơ mi, quần âu đơn giản. Mỹ cũng là một thị trường nhập khẩu hàng dệt may không hạn ngạch có tiềm năng đứng thứ 2 của Việt Nam. Mỹ cũng là một nước nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới trên 60 tỷ USD/năm. Trong đó Châu á là khu vực xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất sang thị trường Mỹ với tổng giá trị xuất khẩu năm 1999 là 30,8 tỷ USD. Đây là một thị trường hấp dẫn và đầy triễn vọng đối với hàng dệt may của Việt Nam. Hiện nay, Mỹ chưa cho Việt Nam hưởng quy chế tối huệ quốc và chế độ ưu đãi phổ cập nên hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ phải chịu nhiều loại thuế cao làm cho khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam vốn đã yếu lại càng yếu hơn. Thực tế trong nhiều năm qua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ là rất nhỏ bé, chỉ chiếm 0,06% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ. Trong những năm tới Mỹ được coi là thị trường đầy tiềm năng của Việt Nam đặc biệt là sau khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ được tổng thống Mỹ sẽ mở ra một cơ hội to lớn cho hàng dệt may thâm nhập vào thị trường nhập khẩu hàng may mặc rộng lớn của Mỹ. Thị trường Tỷ lệ(%) EU 45 Đông và Tây á 42 ASEAN 4 Bắc Mỹ 3 Đông Âu 5 Thị trường khác 1 - Cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn như hiện nay để đạt mục tiêu phát triển toàn ngành đéen năm 2020, ngành dệt may cần phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, cụ thể như: - Củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu: Để thực hiên được điều này thì nhà nước cần hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp trong công tác nghiên cứu thị trường. Ngoài phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, cần có một trung tâm giao dịch xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may và đảm nhiệm chức năng tìm kiếm thị trường, môi giới, giới thiệu sản phẩm dệt may Việt Nam với khách hàng quốc tế, thu thập xử lý thông tin về thị trường, về khách hàng một cách kịp thời, khảo sát thực tế thị trường. Các doanh nghiệp cần xâm nhập vào thị trường mới và cũng cố thị trường hiện có. Cần nhanh chống tham gia hệ thống “thông tin ngành dệt may khu vực Châu á- Thái Bình Dương” của 7 nước trong khu vực Châu á để tiết kiệm tối đa chi phí về thời gian, tiền của trong công tác nghiên cứu thị trường. - Sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư: Để đạt được mục tiêu đến 2010 ngành dệt may sản xuất 2 tỷ mét vải các loại và xuất khẩu 4 tỷ USD, cần đầu tư mạnh mẻ để huy động, sử dụng hiệu quả nguồn vốn trong nước.. Công ty tài chính dệt may cần phát huy vài trò bằng cách thay mặt cho tập đoàn các doanh nghiệp dệt may trong nước để huy động vốn, sau đó hỗ trợ cho các doanh nghiệp đơn lẻ. Về phía các ngành dệt may, phải đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá để huy động vốn trong nước và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đồng thời đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may như đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp(qua chứng khoán), liên doanh liên kết. Nhà nước cần cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư nước ngoài, đơn giản hoá thủ tục hành chính, đầu tư vào những mặt hàng trọng điểm, ổn định và bền vững về chất lượng cũng như thị trường. - Nâng cao hiệu quả gia công sản xuất, từng bước tạo tiền đề chuyển sang xuất khẩu trực tiếp, giảm tỷ trọng gia công và xuất khẩu qua nước thứ 3. Trong thời gian tới thì Việt Nam vẫn tiếp tục gia công hàng dệt may sắp xuất khẩu. Để nâng cao hiêuk quả hoạt động gia công, các doanh nghiệp dệt may cần mở rộng gia công xuất khẩu các mặt hàng mới, sang thị trường mới. Tránh tập trung gia công cho một mặt hàng, cho một thị trường, dẫn đến bị ép giá, lệ thuộc. Trong hoạt động gia công, phía Việt Nam cần dành quyền tự cung cấp nguyên liệu, quyền được gắn nhãn mác và địa điểm gia công trên sản phẩm để từng bước khách hàng làm quen với sản phẩm của doanh nghiệp. Trong quá trình gia công xuất khẩu, các doanh nghiệp đồng thời phải chuẩn bị cho xuất khẩu trực tiếp học hỏi kinh nghiệm quản lý, sản xuất kinh doanh của phía đối tác. Giảm tỷ trọng xuất khẩu sang nước thứ 3 là một biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng dệt may. Muốn vậy, các doanh nghiệp trong nước phải tự mình nâng cao uy tín, chất lượng sản phẩm. Đồng thời thực hiện tốt công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu thương mại của hàng hoá. Nhà nước cần có chính sách phát triễn ngành tạo một ở Việt Nam bằng cách hỗ trợ cho các nhân tài trong ngành ra nước ngoài du học. - Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm: chúng ta thấy rằng khả năng cạnh tranh của ngành còn khá khiêm tốn. Yêu càu đầu tiên cơ bản nhất để nâng cao khả nâng cạnh tranh của sản phẩm là không ngừng nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Cụ thể như là: không ngừng ứng dụng những thiết bị khoa học kỹ thuật, hiện đại trang bị cho các doanh nghiệp dệt may từng bước nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao uy tín với khách hàng. Kiểm tra chặt chẻ nguên liệu đầu vào, tạo bạn hàng cung cấp nguyên liệu phụ ổn định, đúng thời hạn, đảm bảo chất lượng. Đảm bảo yêu cầu giao hàng trước khi xuất khẩu qua hệ tống kiểm tra chất lượng bắt buộc. Đảm bảo giao hàng bằng cách đơn giản hoá thủ tục xuất nhập khẩu, chủ động trong vận chuyển và bóc xếp hàng hoá. Nhà nước có thể hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp bằng cách kéo dài thời gian hoàn vốn để giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh. - Hoàn thiện cơ chế xuất nhập khẩu: Trước hết cần đơn giản hoá thủ tục nhập nguyên vật liệu, hàng mẩu, bản vẻ. Ngành dệt may cần được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan hợp lý. Cơ chế phân bổ hạn ngạch phải được thay đổi căn bản theo hướng sử dụng hạn ngạch làm công cụ thúc đẩy các doanh nghiệp tiến ra các thị trường không hạn ngạch. Trong bối cảnh thị trường tiêu thụ truyền thống gặp nhiều khó khăn, nhà nước cần sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp tăng tỷ lệ hàng xuất khẩu. Hơn nữa, nhà nước cần hỗ trợ cụ thể cho các doanh nghiệp tìm kiếm và khai thác thị trường hoàn toàn mới như thị trường Trung Đông, như cấp tín dụng dài hạn, lãi suất thấp. 2.3. Giày dép Nhu cầu thế giới về mặt hàng giày dép ngày càng tăng, mặt hàng này rất được thế giới ưu chuộng. Bước vào tiên niên kỷ mới, ngoài các khu vực phát triễn như Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật… có nhu cầu đáng kể về mặt hàng giày da, các nước đang phát triễn cũng có biến động theo hướng tăng lên của mức sống. Hàng năm các nước Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật… tiêu thụ 100 triệu tấn sản phẩm da hàng năm và khoảng 14 tỷ đôi giày, chiếm 60-70% tổng sản lượng tiêu thụ của toàn thế giới. Riêng khu vực Đông Nam á, cuộc khủng hoảng kinh tế trong 2 năm 1997-1998 không nhưng làm giảm lượng cầu của sản phẩm giày dép mà còn làm chững lại các nguồn đầu tư nước ngoài trong nhiều lĩnh vực trong đó có cả giày dép. Tuy nhiên sang năm 1999, nền kinh tế của các nước ASEAN, Hàn Quốc, Nhật đã phục hồi. Mặt hàng giày dép của Việt Nam trong những năm gần đây đã có một bước phát triễn dài và mạnh. Năm 1995 kim ngạch xuất khẩu hàng giày dép của ta đạt 296 triệu USD thì chỉ sau một năm 1997 đạt xấp xỉ gần 1 tỷ USD(978 triệu USD, tăng 84,53%). Tiếp theo vào năm 1998 tuy xuất khẩu giày dép chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ khu vực, nhưng kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng 5,46% và vượt qua ngưởng cữa 1 tỷ USD. Đặc biệt vào năm 1999 kim ngạch xuất khẩu đạt 1,4 tỷ USD, tăng tới 36,2% so với năm 1998, xuất khẩu giày dép đã vượt xa mặt hàng gạo. Có thể nói ngành giày dép trong những năm gần đây đã có một bước phát triễn vượt bậc từ không có tên trong danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam thì đến năm 1999 đứng vào vị trí thứ 3 sau dầu khí và dệt may. Theo đánh giá của Bộ Thương Mại sở dĩ xuất khẩu giày dép đạt được tốc độ tăng trưởng cao là do 3 nguyên nhân: xuất khẩu vào thị trường EU là xuất khẩu tự do số lượng không hạn chế và không cần hạn ngạch; các doanh nghiệp đã ký được nhiều hợp đồng xuất khẩu với giá trị lớn; giày dép của nước ta phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của thị trường EU. Với đà tăng trưởng mau lẹ đó, có cơ sở để hy vọng rằng trong một vài năm tới sẽ là mặt hàng thứ 3 đạt kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD. Để thực hiện được điều này thì bên cạnh mở rộng và duy trì thị trường truyền thống thì phải tiếp tục phát triễn thị trường mới. Sản phẩm giày dép cần hướng tới thị trường nước ngoài trên cơ sở để sử dụng những lợi thế của nước ta. Hàn Quốc, Đài Loan sẽ tiếp tục xuống ngôi và danh sách 10 nước xuất khẩu giày dép hàng đầu sẽ có sự xáo trộn thứ tự, thay thế lẫn nhau, các nước Đông Nam á sẽ chiếm vị trí cao trong bảng. Trong tình hình đó ta cần phấn đấu từng bước giành thị phần thế giới, với ưu thế giá rẻ. Trước hết là sự lựa chọn các sản phẩm phù hợp với xu thế phát triễn thị trường, với các sản phẩm có tiềm lực nguyên liệu nội địa hoặc có khả năng sử dụng các nguồn nguyên liệu thô nhập khẩu để chế biến. Ba th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc61566.doc
Tài liệu liên quan