Đề tài Thực tiễn hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi và bảo toàn tiền gửi ở Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 1

Chương I: Những lí luận chung về bảo hiểm và bảo toàn tiền gửi 2

I. Một số quan niệm về bảo hiểm và bảo toàn tiền gửi: 2

II. Đặc trưng của BHTG và BTTG: 3

1. Mục tiêu hoạt động: 3

2. Nguồn vốn hoạt động: 3

3. Phương thức bảo hộ: 4

III. Vai trò của hai loại hình BHTG và BTTG: 6

Chương II: Thực tiễn hoạt động của tổ chức BHTG và BTTG ở Việt Nam 8

I- Sự cần thiết thành lập tổ chức BH và BTTG ở Việt Nam: 8

II- Lựa chọn hình thức bảo hiểm hay bảo toàn: 8

III. Hoạt động của tổ chức BHTG ở Việt Nam: 9

1. Các rủi ro được bảo hiểm: 10

2. Các rủi ro loại trừ: 10

3. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm: 11

4. Công tác bồi thường: 13

IV- Ưu, nhược điểm của tổ chức BHTG: 13

1. Ưu điểm. 13

2. Nhược điểm: 14

Chương III: Kiến nghị và giải pháp 17

I- Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả của hoạt động BHTG ở nước ta: 17

II- Kiến nghị thành lập tổ chức BTTG ở Việt Nam: 19

1. Đối tượng tham gia: 20

2. Hình thức sở hữu: 20

3. Nguồn vốn của Qũy BTTG: 20

4. Phương tiện bảo toàn: 21

5. Tổ chức quản lý: 22

Kết luận 23

Tµi liÖu tham kh¶o 24

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1365 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực tiễn hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi và bảo toàn tiền gửi ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
muốn an toàn cả 100% gốc lẫn lãi. Trong khi đó, mục tiêu cuối cùng của Qũy BTTG là bảo vệ hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn và lợi ích của người gửi tiền. Để minh chứng cho điều này, ta xét giới hạn hoạt động của Qũy BTTG của Hiệp hội ngân hàng thương mại Đức: Khi ngân hàng thành viên mất khả năng trả nợ nhưng chưa đến mức phả sản: Được Qũy hỗ trợ bằng hình thức cho vay lãi suất thấp (bằng 50% lãi suất bình thường). Khi ngân hàng hàng có nguy cơ phá sản (chưa tuyên bố phá sản): trả 100% tiền gửi cho người gửi tiền (gần giống với cách bù đắp của tổ chức BHTG nhưng mức độ bù đắp cao hơn). Như vậy, về thời điểm cứu giúp, hệ thống BTTG không chỉ giải quyết chi trả tiền gửi cho người gửi tiền khi ngân hàng đã phá sản và đi vào thanh lý giải thể như cách làm của tổ chức BHTG, mà ngay khi ngân hàng gặp nguy cơ ban đầu, mới mất khả năng trả nợ, Quỹ BTTG đã phải ứng cứu kịp thời, nhằm giải toả cơn hoảng loạn của người gửi tiền, ngăn chặn sự lây lan sang các ngân hàng khác. Với cách xử lý như trên, các cuộc khủng hoảng cục bộ trong từng ngân hàng riêng lẻ được giải quyết êm nhẹ, nhanh chóng, tránh được sự đổ vỡ dây chuyền toàn hệ thống. Về giới hạn bảo hộ còn tính đến yếu tố chỉ nội tệ, hay cả ngoại tệ và nội tệ đều được bảo hiểm (bảo toàn). 3.2. Phương pháp trợ giúp: âTổ chức BHTG: với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước, NHNN theo dõi và giúp đỡ thường xuyên đối với các ngân hàng cho đến khi đặt họ vào tình trang kiểm soát đặc biệt. Điều này có nghĩa là, việc hỗ trợ, giám sát, xử lý được tiến hành với tư cách Nhà nước, có tính chất hành chính- kinh tế. Vì là tổ chức tài chính công nên trong hệ thống BHTG thủ tục bù đắp thiệt hại cho người gửi tiền hết sức chặt chẽ và phức tạp, nhiều khi có sự can thiệp của Nhà nước. â Qũy BTTG: thông qua tổ chức kiểm toán độc lập của Hiệp hội ngân hàng, tình hình khó khăn của các ngân hàng sớm được phát hiện. Qua đó, tổ chức kiểm toán có tiếng nói quan trọng về mức độ giúp đỡ, thời hạn phải trả nợ, nhất là giải pháp vượt qua khó khăn để hồi phục. Có thể nói rằng, đặc điểm nổi bật nhất của hệ thống BTTG là gắn kết với hệ thống kiểm toán độc lập của Hiệp hội ngân hàng. BTTG và kiểm toán là hai tổ chức đi đôi với nhau như hình với bóng. Nếu không có kiểm toán thì Hiệp hội ngân hàng không có cách nào tiếp cận và giúp đỡ có hiệu quả các ngân hàng hội viên. Tổ chức kiểm toán của Hiệp hội ngân hàng còn có quan hệ phối hợp với thanh tra ngân hàng Trung ương, Bộ tài chính và các tổ chức kiểm toán khác rất chặt chẽ. Nó còn có khả năng thay mặt cho hội viên đối tác với các cơ quan thanh tra, kiểm tra trong những trường hợp các cơ quan này đưa ra những kết luận chưa phù hợp. Với những việc như trên, một tổ chức BHTG hoạt động mang tính kinh doanh đơn thuần không thể làm được, vì họ không được phép kiểm tra các ngân hàng. Trái lại, đối với các Qũy BTTG thì đây là sự hỗ trợ và kiểm soát trong nội bộ Hiệp hội ngân hàng Vì Qũy BTTG là chủ sở hữu, hơn nữa lại vì mục đích tương hỗ, liên kết nghề nghiệp nên dễ dàng có các hình thức hỗ trợ, ứng cứu kịp thời, linh hoạt và thích hợp mà không sợ phải lệ thuộc vào các nguyên tắc hành chính. III. Vai trò của hai loại hình BHTG và BTTG: Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển thì việc bảo đảm cho số tiền gửi của nhân dân tại các ngân hàng có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt đối với các nước phát triển, nơi có lưu lượng tiền, của cải rất lớn. Người tham gia bảo hiểm (cá nhân hay tổ chức) được trợ cấp, bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm khi các ngân hàng, nơi mà họ gửi tiền thiếu hoặc mất khả năng chi trả. Mặt khác, nhờ có BHTG do những người tham gia đóng góp một số phí tạo thành nguồn qũy bảo hiểm lớn, ngoài chi trả hay bồi thường còn là nguồn vốn phục vụ cho các hoạt động ngân hàng. Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức, giúp họ yên tâm trong cuộc sống, trong sinh hoạt sản xuất kinh doanh. Bên cạnh vai trò to lớn của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, chúng ta cũng cần xem xét những tác dụng tích cực mà Qũy BTTG mang lại. Có Qũy BTTG trong Hiệp hội ngân hàng sẽ tạo thêm lòng tin của dân chúng đối với hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện giảm nhẹ rủi ro, đảm bảo an toàn trong hoạt động của các TCTD, từ đó đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền, tạo điều kiện để thu hút các nguồn vốn trong nhân dân phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Mặt khác, tổ chức BTTG còn góp phần chống độc quyền, đa dạng hoá các hình thức đảm bảo tiền gửi, nâng cao tính cạnh tranh và chủ động hội nhập với khu vực và quốc tế. Hơn nữa nó còn góp phần chống ỷ lại và dựa dẫm vào sự bao cấp của Nhà nước. Điều đó cũng góp phần nâng cao tính tự chiụtrách nhiệm trong kinh doanh. Chương II: Thực tiễn hoạt động của tổ chức BHTG và BTTG ở Việt Nam I- Sự cần thiết thành lập tổ chức BH và BTTG ở Việt Nam: Trong các hoạt động kinh tế, tín dụng là một trong những hoạt động phát triển khá mạnh mẽ. Mặc dù hoạt động tín dụng đem lại lợi nhuận cao nhưng những rủi ro tín dụng như: rủi ro mất khả năng thanh toán, rủi ro lãi suất, rủi ro tỉ giá hối đoái... có thể xảy ra bất cứ lúc nào gây tổn thất cho các qũy tín dụng và để lại những hậu quả khôn lường về nhiều mặt. Đối với kinh tế: hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng có liên quan trực tiếp đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, các tổ chức, các doanh nghiệp, người gửi tiền. Nếu có rủi ro gây thiệt hại lớn hoặc làm phá sản một vài tổ chức tín dụng sẽ tạo tâm lý không an tâm đối với nhân dân, họ đua nhau rút tiền làm phá sản hàng loạt ngân hàng và tổ chức tín dụng, làm cho nhiều doanh nghiệp mất vốn và ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung. Đối với ngân hàng và các TCTD: rủi ro tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của họ như: giảm lợi nhuận, thua lỗ hoặc mất khả năng chi trả. Đối với khách hàng: có thể mất vốn dẫn đến khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, trong cuộc sống hàng ngày... Để đối phó với những thiệt hại, tổn thất không lường trước được do các rủi ro gây ra, có rất nhiều biện pháp khác nhau nhưng biện pháp tốt nhất là lập ra các tổ chức BH và BTTG. Như vậy tổ chức BHTG và BTTG ra đời nhằm đảm bảo an toàn tiền gửi cho những người gửi tiền, duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng, đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng. II- Lựa chọn hình thức bảo hiểm hay bảo toàn: Điều 17 Luật các tổ chức tín dụng quy định: “Các TCTD có trách nhiệm tham gia tổ chức BH hoặc BTTG “. Điều này có thể hiểu như sau: â Bản thân các tổ chức BHTG và BTTG đều có thể hoạt động song song, tuy độc lập với nhau. â Các tổ chức tín dụng có huy động tiền gửi đều được lựa chọn và chủ động tham gia hoặc là Qũy BTTG của Hiệp hội ngân hàng hay công ty BHTG của Nhà nước. Không phải đã tham gia tổ chức này thì không được tham gia tổ chức kia. Nếu có điều kiện, các TCTD vẫn có thể cùng lúc tham gia cả hai tổ chức BHTG và BTTG, bởi vì hai tổ chức này không phủ định nhau và có mặt mạnh riêng. Đối với tổ chức tín dụng, càng tham gia nhiều hình thức bảo hiểm hay bảo toàn càng có thêm điều kiện bảo vệ mình và bảo vệ khách hàng. Nó đề cao ý thức tự cứu mình, không ỷ lại vào Nhà nước, kể cả đối với Ngân hàng Thương mại quốc doanh. Các tổ chức này cũng phải hoạt động theo cơ chế cạnh tranh. Tuy nhiên không ít các ngân hàng tỏ ý muốn tham gia Qũy BTTG hơn. Thực tế đối với Việt Nam, việc lựa chọn hình thức nào bảo hiểm hay bảo toàn tiền gửi không phải là vấn đề quá khó. Điều quan trọng là tìm ra những ưu việt của mỗi loại hình để từ đó phát huy vai trò tích cực, hạn chế tiêu cực, nhằm đáp ứng ngày càng cao đòi hỏi của người gửi tiền và TCTD, hỗ trợ đắc lực cho các TCTD hoạt động ngày càng an toàn và hiệu quả, góp phần ổn định nền tài chính -tiền tệ quốc gia. Tuy nhiên ở Việt Nam mới chỉ có tổ chức BHTG ra đời và đang hoạt động mà chưa có sự góp mặt của tổ chức BTTG. Hiện nay và trong thời gian tới, mô hình tổ chức BTTG đã và đang được nghiên cứu, xây dựng để sớm đưa vào hoạt động. Vì vậy trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến hoạt động thực tiễn của tổ chức BHTG ở Việt Nam. III. Hoạt động của tổ chức BHTG ở Việt Nam: Tổ chức BHTG ở nước ta mới được hình thành và đi vào hoạt động tháng 7/ 2000. Quá trình nghiên cứu và cho ra đời tổ chức BHTG cũng là quá trình tiếp cận với những vấn đề mới trong điều kiện hệ thống ngân hàng ở nước ta đang thực hiện việc chấn chỉnh và sắp xếp lại (trước đó các qũy tín dụng nhân dân đã tham gia bảo hiểm trong hệ thống bảo hiểm Việt Nam). Với nỗ lực không ngừng của Nhà nước và các cơ quan chuyên môn, tổ chức BHTG cũng đã được thành lập dựa trên một số nội dung sau: 1. Các rủi ro được bảo hiểm: Trong BHTG, các rủi ro sau đây được bảo hiểm: 1.1. Sự phá sản của các tổ chức tín dụng: Phá sản là trường hợp các tổ chức tín dụng không thể trả nợ một cách đầy đủ hoặc không thể tiếp tục kinh doanh vì bị thiếu vốn. Trong trường hợp này, các công việc kinh doanh của qũy phải được giao cho ban thanh lý tài sản xử lý các tài sản còn lại theo đúng quy định pháp lý về phá sản của Nhà nước. 1.2. Sự giải thể bắt buộc của các tổ chức tín dụng: Giải thể bắt buộc do không tuân thủ các nguyên tắc, luật lệ của Nhà nước hoặc có thể do chủ nợ đề nghị toà án ra lệnh tuyên bố giải thể vì tổ chức tín dụng từ chối thanh toán và chỉ có cách này mới hi vọng thu hồi được tiền. 1.3. Phải chấp hành lệnh thanh lý vì một lý do khác với việc phá sản hay mất khả năng thanh toán của tổ chức tín dụng: Trường hợp này xảy ra khi cơ quan có thẩm quyền xét thấy qũy mặc dù vẫn có khả năng thanh toán nhưng không đúng mục đích đã đề ra, không muốn toà án can thiệp mà quyết định thanh lý qũy, không cho hoạt động tiếp. Trong trường hợp này, bảo hiểm sẽ giải quyết bồi thường cho những người gửi tiền nhưng sẽ được thế quyền để được hưởng số tiền thanh lý tài sản hay đòi nợ. 2. Các rủi ro loại trừ: Những rủi ro loại trừ (không thuộc phạm vi bảo hiểm) là những rủi ro gây ra sự phá sản, thanh lý hay giải thể một tổ chức tín dụng trong các trường hợp: 2.1. Vi phạm nghiêm trọng các quy định về tiền tệ, tín dụng, thanh toán đã nêu trong pháp lệnh ngân hàng của TCTD: Tổ chức tín dụng có điều lệ và quy chế hoạt động riêng nhưng cũng phải tuân theo các quy định hiện hành khác của Nhà nước. Nếu qũy tín dụng vi phạm nghiêm trọng các quy định về tiền tệ, tín dụng, thanh toán của ngân hàng dẫn đến phá sản thì bảo hiểm không bồi thường. 2.2. Giải thể tự nguyện vì nguyên nhân: Đ Do cổ đông nhận thức thấy mục tiêu khi thành lập TCTD không đạt được. Đ Do cổ đông muốn thu hồi lại vốn hoặc có nhu cầu cải tổ lại cơ cấu của TCTD. 2.3. Ngừng hoạt động do những nguyên nhân: TCTD ngừng hoạt động vì chiến tranh, đình công, bạo loạn dân sự, nội chiến. Đây là những rủi ro loại trừ không thông thường, không liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ. Khi các TCTD bị phá sản, thanh lý, giải thể do các rủi ro này, bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm bồi thường cho những người gửi tiền. 3. Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm: 3.1. Số tiền bảo hiểm: Số tiền bảo hiểm là số dư tiền gửi có kì hạn trong báo cáo số dư tiền gửi mỗi quý của TCTD. Tổ chức BHTG quy định nếu tổng số tiền gửi (cả gốc lẫn lãi) của một cá nhân tại TCTD tham gia BHTG nhỏ hơn hoặc bằng 30 triệu đồng thì trường hợp rủi ro sẽ được tổ chức BHTG trả đủ 100%. Nếu khoản tiền gửi cả gốc lẫn lãi lớn hơn 30 triệu đồng thì phần vượt 30 triệu đồng sẽ được hoàn trả trong quá trình thanh lý tài sản của TCTD khi bị phá sản. Như vậy mức bảo hiểm tối đa là 30 triệu đồng. Điều 3 của Nghị định 89/ 1999 NĐ-CP quy định: “Tiền gửi được bảo hiểm là đồng Việt Nam của các cá nhân tại tổ chức tham gia BHTG“. Như vậy theo quy định của Nghị định này, đối tượng được điều chỉnh là các cá nhân. Do đó, đồng Việt Nam của các pháp nhân không được bảo hiểm. Thêm vào đó, chỉ có tiền Việt Nam được bảo hiểm,còn tiền gửi ngoại tệ không được bảo hiểm. Đây cũng là vấn đề gây tranh cãi hiện nay. 3.2. Phí bảo hiểm: Phí bảo hiểm là số tiền TCTD phải trả cho người bảo hiểm để bảo hiểm có số dư tiền gửi có kì hạn của quý tại thời điểm cuối mỗi qúy. Phí bảo hiểm mà TCTD trả cho người bảo hiểm theo từng qúy được tính theo công thức: R P = m x-------- x 90 365 Trong đó: P: phí bảo hiểm theo qúy m: số dư tiền gửi có kì hạn 90: số ngày của một qúy 365: số ngày trong năm R: tỷ lệ phí bảo hiểm Nghị định số 89/ 1999 NĐ quy định tỷ lệ phí bảo hiểm là 0,15% / năm tính trên tổng số dư bình quân của các cá nhân gửi tại TCTD tham gia BHTG. Đây là mức phí “ khoán chung cho tất cả các đối tượng tổ chức nhận tiền gửi dân cư, mà chưa có tiêu chí phân loại, đánh giá các tổ chức tín dụng đã đề ra mức phí thích hợp. Đây, bảo hiểm chỉ bảo hiểm các khoản tiền gửi có kì hạn. Do đó, khi báo cáo số dư tiền gửi, các TCTD phải phân loại: những tài khoản tiền gửi không kì hạn và có kì hạn. Trên cơ sở phân loại đó, cuối mỗi qúy, các TCTD có thể tính phí bảo hiểm và trả cho người bảo hiểm. Phương pháp tính phí bảo hiểm được tính 4 kì trong một năm theo các qúy và được nạp vào ngày cuối của ngày đầu tháng quý tiếp theo. Như vậy có nghĩa theo phương pháp tính phí này thì số dư bình quân của các tháng trong qúy trước chỉ sử dụng để bảo hiểm cho khách hàng, còn số dư qúy sau tại TCTD tham gia BHTG. Đối với các TCTD Nhà nước hiện nay thì phí đóng BHTG là lớn nhất, nhưng việc BHTG phải can thiệp thì hầu như ít xảy ra do có những đặc thù riêng (năng lực huy động vốn thường xuyên dồi dào, do là ngân hàng của Nhà nước...). 4. Công tác bồi thường: Khi xảy ra rủi ro được bảo hiểm, TCTD phải thông báo cho tổ chức bảo hiểm biết kèm theo các giấy tờ: + Giấy yêu cầu bồi thường. + Giấy chứng nhận tham gia bảo hiểm. + Báo cáo thực trạng đến ngày xảy ra rủi ro. + Lệnh của toà án, tuyên bố phá sản, quy định giải thể hay thanh lý... + Bản kê danh sách những người gửi tiền có kì hạn chưa được thanh toán đến ngày xảy ra rủi ro. + Bản kê khai chi tiết dư nợ cho vay tính đến ngày xảy ra rủi ro. Sau khi xem xét các chứng từ có liên quan tới việc trả tiền bồi thường cho TCTD và người gửi tiền đến nếu thuộc phạm vi bảo hiểm thì bảo hiểm sẽ trả tiền bồi thường cho người gửi tiền đến. Số tiền bồi thường cao nhất của bảo hiểm là số dư tiền gửi có kỳ hạn thực tế (chỉ tính gốc không tính lãi)vào thời điểm TCTD xảy ra rủi ro nhưng không vượt quá số tiền ghi trong hợp đồng bảo hiểm. IV- Ưu, nhược điểm của tổ chức BHTG: 1. Ưu điểm. Sự ra đời và hoạt động của BHTG Việt Nam đem lại không chỉ lợi ích cho công chúng, doanh nghiệp và ngân hàng mà còn cho cả cơ quan quản lý Nhà nước. Đối với doanh nghiệp và cá nhân, đặc biệt là đối với những người gom góp số tiền thu nhập ít ỏi của mình để gửi tại các TCTD (theo đánh giá của một quan chức của tổ chức BHTG, khoảng 70% số lượng khách hàng gửi tiền của các TCTD là các cá nhân có số tiền gửi nhỏ) đã có thể yên tâm về số tiền mình gửi tại các TCTD. Bởi vì theo quy định tổ chức BHTG sẽ bồi hoàn 100% số tiền gửi tại các TCTD đối với các khách hàng số tiền gửi đến 30 triệu đồng trong trường hợp TCTD đó (có tham gia BHTG)mất khả năng thanh toán. Đối với các tổ chức tín dụng, việc tham gia BHTG sẽ làm tăng thêm lòng tin của khách hàng và công chúng đối với các tổ chức mình, và từ đó sẽ tạo đà cho các TCTD phát triển, mở rộng quy mô. Khi đó số lượng khách hàng tham gia gửi tiền vào TCTD đó sẽ tăng, đồng thời với việc lượng tiền gửi tăng lên, các TCTD có điều kiện ngày càng mở rộng các nghiệp vụ của mình. Nhờ đó TCTD sẽ phát triển lớn mạnh, tăng cả về quy mô và hoạt động . Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ, tài chính và pháp luật, gánh nặng của công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các TCTD sẽ được chia sẻ do tổ chức BHTG có chức năng và phải tham gia vào công tác kiểm tra hoạt động tài chính của các TCTD (nhằm đảm bảo chi trả đúng cũng như giảm thiệt hại cho tổ chức BHTG) 2. Nhược điểm: Bên cạnh những ưu điểm không thể phủ nhận của tổ chức BHTG vẫn còn một số tồn tại cần phải giải quyết: ĐTổ chức BHTG Việt Nam là một tổ chức tài chính có tư cách pháp nhân nhưng hiện nay chỉ có trụ sở chính tại Hà Nội, không có mạng lưới tại các tỉnh. Trong khi đó, tổ chức tham gia BHTG lại có khắp trong cả nước.. Với mô hình tổ chức đó đã trở ngại lớn cho mối quan hệ giữa tổ chức BHTG Việt Nam và các TCTD. Trong thời gian đầu, NHNN tỉnh có thể giúp đỡ BHTG Việt Nam hướng dẫn các TCTD triển khai việc lập hồ sơ đăng ký tham gia BHTG, kiểm tra tính hợp pháp và hợp lệ của hồ sơ, hướng dẫn tính phí BHTG. nhưng về lâu dài thì những việc đó NHNN tỉnh không thể làm thay vì không thuộc chức năng của NHNN BHTG là loại hình bảo hiểm, bảo hiểm bắt buộc.Tổ chức BHTG là tổ chức duy nhất, điều này sẽ nảy sinh sự bất bình đẳng trong cơ chế thị trường và sự độc quyền Đ Nghị định 89/1999 NĐ-CP quy định:”tiền gửi được bảo hiểm là đồng Việt Nam của các cá nhân gửi tại tổ chức tham gia BHTG “.Như vậy theo quy định này thì tiền gửi của các pháp nhân không được bảo hiểm. Trong khi đó ngân hàng thương mại có quan hệ với rất nhiều các pháp nhân và họ có một khối lượng tiền gửi khổng lồ. Điều đó sẽ hạn chế các pháp nhân gửi vốn vào các TCTD. Thêm vào đó, chỉ bảo hiểm tiền gửi là Việt Nam đồng mà tiền gửi ngoại tệ không được bảo hiểm. Trong lúc đó Nghi định 63 /1998 NĐ_CP về quản lý ngoại hối hiện hành thì cho phép tổ chức, cá nhân có ngoại tệ tiền mặt hợp pháp được đảm bảo quyền sử dụng ngoại tệ của mình. Rõ ràng, giữa nghị định 89 /1999 NĐ_CP và nghị định 63 /1998 NĐ-CP có một nghịch lý. Ngoại tệ không được bảo hiểm sẽ có tác động ngược lại, không những không khuyến khích tổ chức, cá nhân có ngoại tệ hợp pháp gửi, bán cho TCTD được phép kinh doanh ngoại hối hoặc cá nhân có ngoại tệ gửi tiết kiệm vào ngân hàng, mà còn tạo sơ hở, điều kiện để họ mua bán ngoại tệ ở thi trường tự do, trái với mục đích, chủ trương quản lý ngoại hối ở nước ta hiện nay. Hơn nữa, ngày 21/9/2000 thống đốc NHNN đã có quyết định 418 /2000 QĐNHNN mở rộng đối tượng cho vay ngoại tê. Do đó, nhu cầu ngoại tệ đòi hỏi càng lớn gấp bội, cho nên việc thu hút nhiều tiền gửi bằng ngoại tệ càng cần thiết và nóng bỏng. Đ Mức bảo hiểm tối đa 30 triệu đồng cả gốc lẫn lãi là thấp. Điều này có thể làm hạn chế lượng tiền gửi tiết kiệm vào các tổ chức tín dụng. Như vậy, các TCTD không có thêm cơ may để gia tăng được đối tượng khách hàng cá nhân thường xuyên có số dư tiền gửi lớn. Thậm chí nếu các khách hàng thuộc đối tượng này mà đồng loạt vận dụng cách đối phó theo kiểu đánh “du kích” (nghĩa là chia tách số tiền lớn ra làm nhiều món, đứng tên nhiều người gửi khác nhau hoặc chia ra gửi ở nhiều nơi, nhằm tối đa hoá số tiền được bồi thường nếu có bất trắc xảy ra), thì tất yếu sẽ làm tăng thêm chi phí ấn chỉ, chứng từ và phí quản lý của các TCTD. Đó là sự lãng phí, làm giảm hiệu quả kinh tế của các TCTD và của cả nền kinh tế của một quốc gia. Đ Phí bảo hiểm quy định là 0,15%/ năm trên tổng số dư tiền gửi bình quân của các cá nhân gửi tại TCTD là quá lớn và chưa phù hợp với tình hình thực tế. Hiện nay, hoạt động của các Ngân hàng đang gặp nhiều khó khăn, chênh lệch giữa lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào rất thấp. Với tỷ lệ phí 0,15 % sẽ làm cho chi phí đầu vào cao và cơ hội giảm lãi suất cho vay sẽ khó có thể thực hiện được dẫn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng gặp nhiều khó khăn hơn. Tỷ lệ này là không phù hợp vì mức độ rủi ro của mỗi loại hình TCTD là khác nhau, do mục đích và tính chất hoạt động khác nhau, do trình độ quản lý, điều hành, kinh nghiệm khác nhau... Chẳng hạn Ngân hàng Thương mại quốc doanh Trung ương với quy mô huy động vốn của cá nhân có thể lên đến hàng chục nghìn tỷ, do đó phí bảo hiểm có thể lên tới con số rất lớn, trong khi đó mức độ rủi ro không đáng kể (do là Ngân hàng Nhà nước, được Nhà nước bảo trợ...). Ngược lại ở Ngân hàng cổ phần thì mức độ rủi ro cao hơn nhiều do mới ra đời. Qua việc phân tích cụ thể những hạn chế trong tổ chức và hoạt động của BHTG cho thấy vấn đề đặt ra là các cơ quan quản lý Nhà nước, đặc biệt là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần phải quan tâm theo dõi, nghiên cứu và đưa ra một số giải pháp thích hợp nhằm giảm thiểu những tác hại có thể xảy ra, đồng thời phát huy trọn vẹn mặt tích cực của loại hình BHTG còn rất mới mẻ ở nước ta. Chương III: Kiến nghị và giải pháp I- Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả của hoạt động BHTG ở nước ta: Để khắc phục những hạn chế và phát huy mặt tích cực của BHTG, kinh nghiệm thực tiễn của các nước tiên tiến trên thế giới đã chỉ ra một số biện pháp mà chúng ta có thể học hỏi, tham khảo. Cụ thể là: Đ Tổ chức BHTG cần có mạng lưới ở các địa phương. Trước mắt, nên có ở từng khu vực và lâu dài phải có ở tất cả các tỉnh (đủ số lượng và mạnh về chất lượng) để có thể thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình với các tổ chức tham gia bảo hiểm tại địa phương. Đ Cải tiến và tăng cường hoạt động thanh tra ngân hàng: Nội dung thanh tra cần phải tập trung vào các vấn đề: chất lượng tài sản Có, cụ thể là chất lượng các khoản cho vay, các yêu cầu về vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, chất lượng quản lý kinh doanh và nhân sự, lợi nhuận và khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và tính thanh khoản. Tuy nhiên, hoạt động thanh tra truyền thống này vẫn chưa đáp ứng được với sự phát triển ngày càng cao và phức tạp của ngành Ngân hàng cũng như yêu cầu hội nhập quốc tế. Do vậy, xu hướng hoạt động của thanh tra ngân hàng của nhiều nước trên thế giới đang chuyển hướng tập trung vào việc đánh giá khả năng quản lý và xử lý rủi ro của các TCTD. Đ Bổ sung và thực hiện nghiêm các quy định về vốn, xét cấp tín dụng, hạn chế việc cho vay tập trung quá mức. Tuy nhiên, những quy định này chưa được thực hiện nghiêm túc và công tác thanh tra, xử lý các vấn đề này còn nhẹ tay, mặc dù những quy định này là những biện pháp tốt nhất để hạn chế các rủi ro cũng như sự liều lĩnh của các TCTD. Do vậy, Ngân hàng Nhà nước cần bổ sung và yêu cầu các TCTD thực hiện nghiêm ngặt các quy định về vốn và cấp tín dụng như: vốn điều lệ tối thiểu, tỷ lệ huy động vốn, hạn mức cho vay một cá nhân hay một pháp nhân, hạn mức cho vay một ngành nghề... Ngoài ra, NHNN phải chú ý và bổ sung thêm các quy định về các khoản mục, các hoạt động ngoại bảng (off- balance sheet items). Bởi vì, các khoản mục ngoại bảng (cam kết, bảo lãnh, kinh doanh các công cụ tài chính) tuy không thể hiện trong bảng cân đối nhưng cũng dễ dẫn các TCTD đến các rủi ro, thua lỗ lớn. Đ Tách biệt hoạt động ngân hàng và hoạt động chứng khoán, bảo hiểm: Các TCTD không được tham gia các hoạt động chứng khoán rủi ro (như bảo lãnh phát hành, kinh doanh chứng khoán) và bảo hiểm, nhưng có thể thực hiện các nghiệp vụ khác như: môi giới, tư vấn...Ngược lại, các công ty chứng khoán, bảo hiểm và các tổ chức phi ngân hàng cũng không được tham gia các hoạt động ngân hàng truyền thống. Mục đích là ngăn ngừa rủi ro và giữ mức cạnh tranh vừa phải cho các hệ thống ngân hàng. Đ Duy trì môi trường cạnh tranhlành mạnh, thích hợp. Sự cạnh tranh buộc các TCTD hoạt động có hiệu quả hơn và phục vụ khách hàng tốt hơn. Tuy nhiên, sự cạnh tranh quá mức sẽ dẫn đến nhiều nguy cơ và làm tăng sự liêu lĩnh của các TCTD. Khi mức lợi nhuận giảm mạnh do cạnh tranh khốc lịêt sẽ dễ hướng các TCTD lao vào các hoạt động có rủi ro cao. Do vậy, cần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh bằng cách duy trì thích hợp số lượng cácTCTD, kiểm soát việc cho ra đời các TCTD mới cũng như việc mở thêm các chi nhánh, phòng giao dịch và một số biện pháp ngăn ngừa như đã nêu trên. Đ NHNN cần quy định cụ thể các thông tin, số liệu về hoạt động mà các TCTD bắt buộc phải công khai cho công chúng biết.Thực hiện tốt điều này sẽ đem lại nhiều lợi ích cho bản thân TCTD và cho cả xã hội. Đối với cổ đông, người gửi tiền, khách hàng có được nhiều thông tin chính xác về chất lượng và hoạt động của TCTD sẽ giúp cho họ có được quyết định đúng đắn trong việc đầu tư,giao dịch với ngân hàng. Đối với các TCTD, việc công khai chất lượng hoạt động của mình sẽ làm giảm bớt sự liều lĩnh, bất hợp pháp (nếu có) trong tổ chức mình. Đối với cơ quan quản lý và pháp luật sẽ giảm được khối lượng công việc giám sát, theo dõi, đồng thời phát hiện nhanh và ngăn chặn kịp thời các hành vi, nguy cơ có thể xảy ra. Hiện nay, thực hiện công tác này vẫn còn khá yếu kém ở Việt Nam và cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến vụ đổ bể kinh tế lớn và thua lỗ nặng của một vài ngân hàng. Đ Nghị định 89/1999 NĐ-CP và thông tư 03/2000 TTNHNN nên bổ sung, sửa đổi một số nội dung sau: Đối tượng bảo hiểm ngoài cá nhân phải có pháp nhân. Không chỉ bảo hiểm tiền gửi là VNĐ mà cả ngoại tệ. Mức phí bảo hiểm không dàn đều mà tuỳ vào mức độ rủi ro của các TCTD theo hướng phí bảo hiểm thấp thì rủi ro thấp và ngược lại.Như vậy, một TCTD có nhiều hoạt động rủi ro sẽ phải gánh chịu phí bảo hiểm cao và tỷ lệ bồi hoàn thấp. Đây cũng là hình thức thưởng phạt và khuyến khích các TCTD hoạt động thận trọng, lành mạnh. Đồng thời căn cứ vào mức phí và tỷ lệ bồi hoàn,công chúng sẽ có ý thức hơn và thân trọng hơn trong việc giao dịch với các TCTD. Ngoài những giải pháp trên, cũng cần nói thêm là để phát huy trọn vẹn tính tích cực và hiệu quả của loại hình BHTG và hạn chế các mặt tiêu cực, điều cần có trước tiên là bộ máy của tổ chức BHTG phải thực sự vững mạnh, hoạt động có hiệu quả.Kế đến, cán bộ, nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35133.doc
Tài liệu liên quan