Đề tài Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước hiện nay

Trong điều kiện chuyển từ cơ chế quản lý tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường đã đặt ra những khó khăn thử thách cho doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhà nước việc thích ứng được với cơ chế thị trường là một vấn đề hết sức nan giải. Trong thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp nhà nước đều được nhà nước bao cấp từ đầu vào cho đến đầu ra, nên cơ chế quản lý không có tính năng động và sáng tạo, việc sử dụng đầu vào không cần phải tính toán đến hiệu quả sản xuất gây nên lãng phí ngân sách nhà nước mà sản phẩm đầu ra lại đạt chất lượng thấp.

Để thích ứng với cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp nhà nước phải chấp nhận sự cạnh tranh lành mạnh trong thị trường. Do đó, yêu cầu phải đổi mới phương thức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp này là một yêu cầu cấp thiết. Sau khi nghiên cứu tình hình các doanh nghiệp trong nước và học hỏi kinh nghiệm những nước có điều kiện kinh tế xã hội gần giống ta Đảng và Nhà nước ta đã mạnh dạn đưa ra giải pháp cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Đây là một phương thức đổi mới phương thức quản lý vốn, tạo ra hiệu quả cao cho đồng vốn đưa vào sản xuất, tạo sự chủ động sáng tạo cho đội ngũ cán bộ công nhân viên của các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong nền kinh tế thị trường, với định hướng đó, Chính phủ đã ra quyết định 202/CT. Ngày 08/06/1992 về việc thí điểm cổ phần hoá và các giải pháp đa dạng hoá các hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Cho đến nay đã có khoảng 774 doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện cổ phần hoá và các doanh nghiệp này đã phần nào đạt được kết quả tốt trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là một kết quả đáng khích lệ.

 Mặc dù có những thành tựu kể trên nhưng trên thực tế quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn vì nhiều nguyên nhân khác nhau như việc xác định giá trị doanh nghiệp, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá .Để điều chỉnh các vấn đề này đòi hỏi Nhà nước phải sửa đổi bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật mục đích dần hoàn thiện một khung pháp lý đầy đủ để điều chỉnh hoạt động chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần. Đặc biệt trong giai đoạn mới 2002- 2005 nhằm đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước

 

doc61 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1050 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thì có tới 50,6% thuộc lĩnh vực công nghiệp, xây dựng; 34,7% thuộc lĩnh vực thương mại dịch vụ; 9,9% thuộc lĩnh vực giao thông và 4,7% thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và thuỷ sản.. Nếu so với công cuộc cổ phần hoá ở Trung quốc thì ta thấy rõ chỉ sau 6 năm triển khai cổ phần hoá (tháng 2 năm 1993 Chính phủ Trung quốc ra sắc lệnh về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và đầu năm 1994 triển khia ở một số doanh nghiệp nhà nước) đến đầu năm 2000 Trung Quốc đã cổ phần hoá được 1,6 vạn doanh nghiệp chiếm khoảng 5% tổng số doanh nghiệp. Kế hoạch đặt ra đến năm 2003 Trung Quốc phấn đấu sẽ cổ phần hoá xong 2/3 tổng số doanh nghiệp thuộc đối tượng phải cổ phần hoá, thì chúng ta thấy tiến trình cổ phần hoá của nước bạn đạt được là hết sức khả quan đáng để cho chúng ta những bài học kinh nghiệm để học tập. Mà mục tiêu của chúng ta đề ra trong giai đoạn mới(2002-2005) sẽ cơ bản hoàn thành sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước vì vậy chúng ta cần đẩy nhanh hơn nữa tốc độ cổ phần hoá trong những năm tới. II.sự cần thiết phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 1.Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta Nghị định 44/CP ngày 29/06/1998 của Chính phủ về việc chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đã nêu rõ: Chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu: Huy động vốn của toàn xã hội bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Huy động vốn và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu để đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đó cũng là điều kiện tốt quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay vốn kinh doanh đang là một trong những vấn đề nan giải của các doanh nghiệp. Việc huy động thêm vốn từ cổ phần hoá là điều kiện xác lập người chủ ấy cùng với người đại diện nhà nước ở doanh nghiệp quản lý hoạt động kinh doanh một cách hữu hiệu nhất. Hơn nữa, việc huy động vốn là phương tiện thiết yếu để đạt tới mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế. Tạo điều kiện chủ động và độc lập cho doanh nghiệp cổ phần hoá trong các quan hệ tự nguyện về liên doanh, liên kết cả trong và ngoài nước, mở ra khả năng tự nguyện hợp tác hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh đấp ứng với yêu cầu sản xuất kinh doanh lớn trong nước và đảm bảo sức mạnh cạnh tranh với các đối tác trong nước và trên thị trường quốc tế. Đây cũng là tiền đề thuận lợi tiến đến công ty cổ phần đa quốc gia. Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả tăng cường phát triển đất nước nâng cao thu nhập của người lao động góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Việc chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đã tách biệt rõ ràng quyền sở hữu và quyền kinh doanh, hành vi của chính quyền và hành vi của doanh nghiệp được hợp lý hoá một cách rõ nét. Sự can thiệp trực tiếp của các chính quyền vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ giảm đến mức thấp nhất. Thông qua việc mua cổ phần, người lao động mới có điều kiện để thực hiện trên thực tế quyền làm chủ đích thực của mình, với tư cách là cổ đông họ tham gia cùng với các cổ đông khác quyết định chiến lược phát triển công ty, tham gia quản lý, phân chia lợi nhuận, sáp nhập, giải thể công ty, lựa chọn hội đồng quản trị. Tạo mọi điều kiện cho những người góp vốn và người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp bằng cổ phiếu của mình. Xét cho cùng đây chính là để thực hiện công bằng xã hội, là mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội và cũng là nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy mục tiêu hàng đầu của cổ phần hoá là nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở đảm bảo vai trò làm chủ thực sự của những người chủ sở hữu tài sản. Huy động thêm vốn bằng bán cổ phần và phát hành cổ phiếu là điều kiện cần thiết để tạo thành những người chủ đích thực của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào sử dụng vốn hiện có và vốn huy động thêm. 2.Sự cần thiết phải cổ phần hoá Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hình thành từ thời quản lý tập trung bao cấp, khi chuyển sang cơ chế thị trường lại thiếu sự kiểm soát chặt chẽ việc thành lập nên phát triển tràn lan. Một bộ phận quan trọng doanh nghiệp nhà nước không đầy đủ điều kiện tối thiểu để hoạt động như: thiếu vốn, trang thiết bị quá đơn sơ, trách nhiệm tài sản không được phân định rõ ràng, những đặc điểm trên đây đã chi phối phương hướng bước đi và biện pháp trong quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Quá trình đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã đạt được kết quả hết sức khả quan, song cũng bộc lộ những mặt yếu kém cơ bản, khó có thể khắc phục được nếu không thực hiện các giải pháp cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, cổ phần hoá nhằm đạt được những mục đích sau: Thứ nhất: Cổ phần hoá nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Qua nghiên cứu tổng quan kinh tế quốc doanh của Việt Nam trong những năm qua, các nhà kinh tế đã có những nhận xét là hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước vẫn còn thấp chưa tương xứng với phần đầu tư của nhà nước. Có thể minh hoạ nhận xét này qua một vài chỉ tiêu cụ thể sau đây: Tính đến năm 2001 hầu hết các bộ, nghành, địa phương đã sắp xếp lại một loạt các doanh nghiệp nhà nước trong toàn quốc nhưng chỉ có 40/% doanh nghiệp nhà nước làm ăn có lãi, số doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ là 29%, còn lại tức là khoảng 31/% ở trạng thái không có lãi hoặc lãi không đáng kể trong điều kiện phần lớn các doanh nghiệp này vẫn được nhà nước bao cấp phần lớn vốn và tiêu thụ sản phẩm. Tuy số đầu doanh nghiệp nhà nước được thu gọn lại ( năm 1989 là 12.089 doanh nghiệp đến năm 2001 còn 5.500 doanh nghiệp) nhưng tổng số vốn do nhà nước cấp cho các doanh nghiệp nhà nước lại tăng gấp đôi, song sự đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước vào GDP vẫn ở mức thấp. Tỷ trọng hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội của khu vực kinh tế nhà nước cao gấp 1,5 lần và chi phí sáng tạo ra một phần thu nhập quốc dân thường cao gấp 2 lần so với kinh tế tư nhân. Mức tiêu hao vật chất của doanh nghiệp nhà nước trong sản xuất một đơn vị tổng sản phẩm xã hội ở nước ta thường gấp 1,3 lần so với mức trung bình trên thế giới. Ví dụ: Sản phẩm hoá chất là 1,88 lần, sản phẩm cơ khí là 1,5 lần. Mức tiêu hao năng lượng của các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng cao hơn mức trung bình trên thế giới. Ví dụ: Hoá chất là 1,44 lần, than là 1,75 lần. Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp thấp và không ổn định. Trung bình khu vực kinh tế chỉ có khoảng 15% đạt tiêu chuẩn xuất khẩu; 65% đạt tiêu chuẩn dưới trung bình để tiêu dùng nội địa; 20% sản phẩm kém chất lượng. Do đó, hiện tượng hàng hoá ứ đọng làm hơn 10% vốn lưu động toàn xã hội không luân chuyển thường xuyên. Hệ số tính lời của khu vực kinh tế nhà nước rất thấp. Một đồng vốn trong doanh nghiệp nhà nước chỉ làm ra lợi nhuận trước thuế chưa đến 0,1 đồng Hiệu qủa khai thác vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước rất thấp. Trong những năm gần đây, một năm nhà nước dùng hơn 70% vốn đầu tư ngân sách cho các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp này sử dụng lao động có trình độ đại học, công nhân kĩ thuật lành nghề, phần lớn tín dụng ngân hàng thương mại quốc doanh, song chỉ sáng tạo được khoảng 40% tổng sản phẩm xã hội. Thêm vào đó, nhà nước có hàng loạt chính sách bù giá, bù lương, bù chênh lệch ngoại thương và hàng loạt các khoản bao cấp khác cho doanh nghiệp nhà nước khiến gánh nặng tài chính và các khoản vay nợ của nhà nước ngày càng nặng nề và trầm trọng. Tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước đạt hiệu quả thấp xuất phát từ chỗ: Cơ chế quản lý doanh nghiệp đã có đổi mới nhưng đổi mới đó chưa thích ứng với điều kiện chuyển nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp nhà nước vẫn được hình thành và phát triển trên cơ sở nguồn vốn cấp phát của ngân sách nhà nước và do đó tất cả các hoạt động vẫn chịu kiểm soát và chi phối trực tiếp của nhà nước. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được xem là giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước và mang lại lợi ích cho nhà nước. Có thể thấy rõ lợi ích của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước qua các mặt sau đây: Cổ phần hoá sẽ tạo ra hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cao hơn doanh nghiệp nhà nước chưa cổ phần hoá, lợi nhuận thu được từ một đồng vốn cao hơn so với đầu tư của nhà nước. Ví dụ: Một đồng vốn do nhà nước đầu tư chỉ làm ra lợi nhuận trước thuế không đến 0,1 đồng. Nhưng một đồng vốn ở doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá thì thu được tới 0,2 đồng lãi Bằng việc bán một phần sở hữu của mình nhà nước có thể đầu tư vốn vào các ngành kinh tế khác cần thiết hoặc có lợi hơn. Nhờ việc tham gia vào quản lý công ty cổ phần mà nhà nước đào tạo được một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế của nhà nước ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường. -Thứ hai: Cổ phần hoá để tạo phương thức tạo vốn của các doanh nghiệp nhằm đáp ứng ngày càng lớn về vốn trong các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Thực tế chứng minh rằng khả năng huy động vốn của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường không đáp ứng đưọc nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế. Về vốn lưu động: Phần lớn doanh nghiệp nhà nước chỉ mới bảo đảm được 10% so với yêu cầu tối thiểu của nhà nước cần đầu tư là 30%, nhiều doanh nghiệp nhà nước không vay được vốn dài hạn để đầu tư chiều sâu, mở rộng mặt hàng và quy mô sản xuất họ phải vay vốn ngắn hạn với lãi suất cao để đầu tư vào sản xuất nên kém hiệu quả, khó hoàn lại vốn và không có khả năng trả nợ khi đến hạn, từ đó lầm vào tình trạng khó khăn về tài chính. Về vốn cố định: Nhiều nhà kinh tế đã chứng minh sự lạc hậu về máy móc thiết bị và dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay là trình độ của thế giới cách đây từ 15 đến 20 năm. Mức trang bị vốn cố định cho một người lao động của nước ta rất thấp, chỉ bằng 13% của các xí nghiệp vừa và nhỏ trong khu vực. Mức hao mòn hữu hình từ 30% đến 50% hàng năm, thậm chí có 30% đến 38% máy móc thiết bị đang ở dạng chờ thanh lý. Trừ một số dây chuyền hiện đại mới nhập còn phần lớn công nghệ vẫn ở trình độ thấp. Điều đáng quan tâm là số nợ hàng ngàn chục tỷ đồng vay trong và ngoài nước mà nghĩa vụ trả nợ lại chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước. Do tình trạng nợ nần khá phổ biến lại dây dưa khó đòi nên tài chính của các doanh nghiêp rất khó lành mạnh hoá, cản trở sự phát triển của doanh nghiệp. Thứ ba: Cổ phần hoá nhằm nâng cao khả năng quản lý và sử dụng vốn của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng hiệu quả hơn. Xuất phát từ nhược điểm cơ bản của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, cơ chế quản lý vốn chưa thích ứng với cơ chế thị trường, nguồn vốn trong khu vực quốc doanh còn bị thất thoát và lãng phí nghiêm trọng. Trong xây dựng cơ bản, huy động tài sản cố định chỉ đạt 40% đến 50%. Nguyên nhân của tình trạng này là việc đầu tư mất cân đối và sự sai lầm trong lựa chọn phương án kĩ thuật. điều này thể hiện rõ ở chỗ máy móc thiết bị, khâu quyết định tạo ra sản phẩm và năng suất chỉ chiếm 1/4 giá trị tài sản cố định. Tỷ trọng đồng bộ trong tổng số máy móc đưa vào sử dụng thấp: ở doanh nghiệp nhà nước trung ương là 24,3%; quốc doanh địa phương là14,3%. Hệ số sinh lời trên một đồng vốn cố định để tạo ra GDP chỉ đạt 0,6 đến 0,7 so với các nước tiên tiến trên thế giới. đa số các doanh nghiệp đều tìm cách giảm vốn hệ số bảo toàn vốn cố định vì lý do máy móc thiết bị quá lạc hậu, hệ số hao mòn vô hình cao, khấu hao cơ bản hàng năm để lại cho doanh nghiệp không có đủ khả năng đổi mới trang thiết bị, do ảnh hưởng của lạm phát cho nên thực chất chỉ sử dụng để đầu tư vào các công trình nhỏ hoặc phi sản xuất cho nên không phát huy được hiệu quả của đồng vốn. Việc quản lý và sử dụng vốn lưu động kém hiệu quả 2/3 tổng số vốn lưu động hầu như đứng im chỉ có 1/3 tổng số vốn tham gia luân chuyển, mà cũng chỉ quay vòng được 2 đến 3 vòng trong một năm. Đặc biệt, tình trạng chiếm dụng vốn của nhau giữa các đơn vị kinh tế quốc doanh là vấn đề hết sức nghiêm trọng. Việc tiến hành xử lý công nợ giai đoạn một đã kết thúc, giai đoạn hai được tiến hành từ năm 1994 đến nay nhưng số nợ phải thu, phải trả còn chiếm nhiều tỷ đồng. Tài sản lưu động kém và mất phẩm chất, ứ đọng, chậm luân chuyển chiếm 10% tổng giá trị vật tư hàng hoá. Tình trạng phổ biến ở hầu hết các doanh nghiệp nhà nước là cơ chế quản lý vốn kém hiệu quả. Tình trạng này có nguyên nhân ở khâu tổ chức bộ máy các doanh nghiệp nhà nước. Với trình độ quản lý chung của các giám đốc còn thấp, lại được quy định quyền hạn quá rộng rãi, bản thân các quy định đó còn nhiều chỗ chưa chặt chẽ, chưa rõ ràng dễ bị lợi dụng làm cho việc sử dụng vốn không cao. Ngược lại, còn thiếu những công cụ kiểm tra, kiểm soát đầy đủ, toàn diện nên đã dẫn đến việc chuyển quyền tuỳ tiện của các giám đốc doanh nghiệp nhà nước lợi dụng tài sản chung để làm giàu cho cá nhân. Từ những phân tích trên đây chúng ta thấy để quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả cao thì việc đổi mới cơ chế quản lý theo quyết định 271/HĐBT chưa đủ mà phải có mô hình doanh nghiệp theo hình thức công ty cổ phần mới nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp nhà nước. Thứ tư:Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước để nâng cao vai trò làm chủ của người lao động trong doanh nghiệp. Thực tế chứng minh rằng: Vai trò làm chủ của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa được đặt vấn đề đúng mức. Trên thực tế dân chủ vẫn còn mang tính chung chung. Sở hữu toàn dân trong doanh nghiệp nhà nước về cơ bản vẫn còn mang tính gián tiếp, biểu hiện ở các mặt: -Chế độ sở hữu toàn dân được thực hiện thông qua nhà nước như là chủ sở hữu đại diện -Nhà nước chỉ đạo các doanh nghiệp nhà nước nhằm đạt hiệu quả kinh tế và giải quyết các quan hệ kinh tế một cách gián tiếp thông qua cơ chế thị trường. -Giám đốc xí nghiệp là người thay mặt nhà nước quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước. -Người lao động được coi là” đồng chủ sở hữu” nhưng vì họ là người lao động nên họ bị tách biệt với chủ sở hữu. Với tính chất gián tiếp cao như vậy nên thực tế sở hữu toàn dân trong các doanh nghiệp nhà nước đã tạo nên một cơ cấu phức tạp có tính chất thứ bậc thấp nhất, không có vai trò gì trong tổ chức quản lý và điều hành doanh nghiệp hoặc có thì không đáng kể, biểu hiện mất dân chủ trong các doanh nghiệp nhà nước thể hiện ở các khía cạnh sau: Trước hết: Với vai trò và quyền hạn lớn của giám đốc như quy định hiện nay thì đại hội công nhân viên chức chỉ được triệu tập khi cần thiết nhầm hợp pháp hoá những quyết định của giám đốc. Người lao động vì không quan hệ trực tiếp về lợi ích kinh tế với hoạt động của doanh nghiệp nên có thái độ bàng quang thậm chí bảo sao nghe vậy. Hai là: Vai trò chủ sở hữu của người lao động không được biểu hiện đầy đủ ở lợi ích kinh tế. Mọi chủ trương của giám đốc tăng giảm thu nhập trực tiếp của người lao động có thể dẫn tới tăng giảm chi phí sản xuất đều không được tổ chức cho người lao động tham gia, ở đây có hai vấn đề: người lao động một mặt không được biết, mặt khác do cơ chế thấy không cần thiết phải tham gia. Ba là: Tình trạng tuỳ tiện quy định tuyển dụng hoặc cho thôi việc phần lớn vẫn nằm trong tay giám đốc. Hiện nay khi tuyển dụng thường lấy tiêu thức”con ông cháu cha” hoặc sa thải vì không “ ăn cánh “ với giám đốc là hiện tượng không phải hiếm ở các doanh nghiệp nhà nước. Hiện tượng này trải qua nhiều năm tháng dần dần hình thành đội ngũ người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước rất thụ động, kém năng lực, không phát huy được vai trò đích thực của mình. Với mô hình công ty cổ phần mỗi người lao động đồng thời là người chủ sở hữu vốn của mình trong doanh nghiệp cổ phần thì vai trò của người lao động được khẳng định. Người lao động không những được pháp luật thừa nhận vai trò tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp, mà họ còn thấy sự tất yếu phải tham gia vào quá trình ấy để bảo vệ quyền lợi của chính mình Chương III. Một số khuyến nghị nhằm đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước i. Một số nguyên nhân làm cản trở việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay. Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta hiện nay nhằm phát huy các nguồn lực của toàn xã hội. Tiến trình cổ phần hoá tuy đã đạt được những kết quả nhất định nhưng đã diễn ra rất chậm, trải qua nhiều thăng trầm, xen kẽ các bước tiến và lùi. Ngay từ năm 1992 Chủ tịch hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng chính phủ) đã ra Quyết định 202/CT ngày 8\6\1992 về cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Nhưng đến cuối năm1993 mới có hai doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá . Đó là công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển và công ty cổ phần cơ điện lạnh. Cho mãi hết năm 1997, tức là sau 5 năm mới chuyển được 18 doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần. Dưới tác động của nghị định số28/CP và nghị định 25/ CP (sửa đổi bổ sung nghị định 28/CP) đã có 100 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá trong năm 1998. Việc ban hành Nghị định 44/CP ngày19/6/1998 đã có tác động thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá tiến thêm một bước mới năm 1999 cổ phần hoá được 250 doanh nghiệp. Nhưng bước sang năm 2000 tiến trình cổ phần hoá chậm lại cả năm chỉ có 212 đơn vị được cổ phần hoá bằng 84,8/% năm 1999 sang năm 2001 rút xuống còn 149 đơn vị bằng 70,3% năm 2000 và bằng 59,6% năm 1999. Hà Nội trong 2 năm 1998-1999 đã chuyển được 70 doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo luật doanh nghiệp nhưng năm 2000 mới chỉ có 9 đơn vị và năm 2001 là 4 đơn vị cổ phần hoá. Thành phố Hồ Chí Minh những năm trước đây đi đầu trong tiến trình cổ phần hoá nhưng nay cũng đã chững lại. Đến hết năm 1999 có 45 đơn vị chuyển thành công ty cổ phần, sang năm 2000 chỉ có 22 đơn vị và năm 2001 có 21 đơn vị chuyển thành công ty cổ phần. Tỉnh Nam Định đến hết năm 1999 thực hiện chuyển 22 doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần, năm 2000 thực hiện chuyển 15 doanh nghiệp, nhưng năm 2001 chưa có đơn vị nào được chuyển thành công ty cổ phần. Cho đến nay vẫn còn 10 trên 61 địa phương, 12 trong số 21 bộ, ngành có doanh nghiệp nhà nước và 6 trong số tổng công ty 91 chưa có đơn vị nào thực hiện cổ phần hoá. Hiện nay trên cả nước ngoài các công ty cổ phần được thành lập theo luật công ty cũ và luật doanh nghiệp mới thì có khoảng 774 doanh nghiệp nhà nước hoặc bộ phận doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá. Qua khảo sát các doanh nghiệp được cổ phần hoá cho thấy việc cổ phần hoá đạt được những kết quả khả quan. Chuyển sang công ty cổ phần các doanh nghiệp này đã huy động đủ vốn để mở rộng sản xuất và áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, thay đổi công nghệ sản xuất đem đến tỷ lệ lợi nhuận của doanh nghiệp cao và bảo đảm đời sống của người lao động. Bên cạnh đó việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước bước đầu còn có nhiều khó khăn trở ngại đó là: 1.Nguyên nhân về nhận thức. Nhận thức của đối tượng tham gia cổ phần hoá chưa đầy đủ là trở ngại cơ bản của tiến trình cổ phần hoá . Về tư tưởng tâm lý của đa số mọi mgười trong xã hội còn chưa quen với vấn đề mới mẻ này. Nhiều người làm công tác lãnh đạo Bộ, ngành trung ương, các địa phương và ngay bản thân các doanh nghiệp nhà nước chưa nhận thức được mục đích, ý nghĩa của chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Không ít nơi lại sợ mất quyền quản lý (thực chất là để gây phiền hà, sách nhiễu, hưởng lợi can thiệp vào công việc sản xuất kinh doanh) Đối với giám đốc doanh nghiệp: Không ít giám đốc hiện nay chưa thích nghi với cơ chế thị trường, chưa độc lập đứng vững trong cạnh tranh. Vì vậy khi chuyển sang công ty cổ phần có thể giám đốc không giữ được vị trí cho nên họ ngần ngại hoặc thậm chí phản đối vì làm giám đốc doanh nghiệp nhà nước vừa được bao cấp của nhà nước lại không phải chịu rủi ro như làm giám đốc ở các công ty cổ phần. Không công bằng trong việc đối xử đối với lao động (nhất là đối với cán bộ quản lý) làm việc trong doanh nghiệp nhà nước khi mua cổ phần ưu đãi, sự chênh lệch số lượng cổ phiếu ưu đãi được mua giữa các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá; sự hạn chế số lượng mua cổ phiếu lần đầu đang không khuyến khích các nhà đầu tư có tiềm năng Đối với người lao động trong doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư mua cổ phần trong khi còn nhiều nhu cầu chi tiêu khác của gia đình thúc bách hơn và sức ỳ của nếp sống trong doanh nghiệp nhà nước cũng là những khó khăn không nhỏ như luyến tiếc độ an toàn cao của việc làm, biên chế bảo đảm, việc làm suốt đời không lo sợ mất việc, còn công ty cổ phần khi gặp rủi ro thua lỗ thì phải chịu trách nhiệm. Các tổng công ty 90 không muốn cổ phần hoá các doanh nghiệp thành viên vì vừa mất doanh nghiệp thành viên(doanh nghiệp cổ phần hoá hoạt động theo luật doanh nghiệp, không còn là thành viên của tổng công ty nữa), vừa mất vốn(vốn của doanh nghiệp thu về được khi cổ phần hoá phải nộp vào quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá của trung ương hoặc của tỉnh chứ không đưa lại cho công ty Đối với công chúng nói chung, họ chưa quen với việc đầu tư vốn bằng cổ phiếu đầy mới mẻ có nhiều rủi ro, trong khi đó các hình thức đầu tư vốn đã có như: bằng tiết kiệm, mua trái phiếu... vừa đảm bảo an toàn , vừa có lãi suất xác định trước. Một vấn đề về nhận thức liên quan đến việc làm chậm tiến trình cổ phần hoá là nhận thức về vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân. Nhiều người nghĩ rằng: từ chỗ mất vị trí chủ đạo đến chỗ quay lại con đường tư bản chủ nghĩa. Do đó họ hoài nghi mục tiêu thực hiện cổ phần hoá của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó còn có quan điểm chưa đúng đắn cho rằng “chuyển sang cơ chế thị trường là phải tư nhân hoá tư liệu sản xuất “(như nghị quyết 10 Bộ chính trị đã phê phán) còn rất nhiều quan điểm khác nhau: cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là mất đi quyền sở hữu tư liệu sản xuất của nhà nước, có nguy cơ đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó có thái độ chần chừ, e ngại, thiếu dứt khoát, thậm chí còn cản trở chủ trương chuyển một bộ phận doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần . 2.Nguyên nhân liên quan đến công tác xây dựng cơ chế, chính sách cổ phần hoá Trong nhiều năm qua đặc biệt là từ năm 1998 đến nay công tác xây dựng chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước có nhiều tiến triển tích cực, cho thấy sự nỗ lực cũng như quyết tâm của Chính phủ trong công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù vậy nhưng công tác xây dựng cơ chế, chính sách cổ phần hoá vẫn còn yếu đó là: Tốc độ chính sách chưa đi kịp với thực tế. Nghị định 28/CP (ban hành ngày 7/5/1996) sau một thời gian đi vào thực tiễn đã bộ lộ nhiều nội dung không theo kịp, hơn nữa còn quá cứng nhắc trong xử lý những vấn đề phát sinh làm chậm trễ tốc độ cổ phần hoá tại nhiều doanh nghiệp. Yêu cầu sửa đổi bổ sung Nghị định 28/CP là rất cần thiết, song tiến hành rất chậm. Nghị định 25/CP(ban hành ngày 26/3/1997) và đến ngày 19/6/1998 mới có sự thay đổi hoàn toàn bằng Nghị định 44/CP. Một số nội dung cơ chế, chính sách đưa ra chưa thật bám sát đời sống của doanh nghiệp. Việc triển khai Nghị định 44/CP cho ta thấy một số nội dung chưa phù hợp với thực tiễn. Chẳng hạn quy định tiêu chuẩn người lao động nghèo (thông tư 11) sẽ chỉ là hình thức với đại bộ phận người lao động thành thị. Mặc dù thời gian qua Chính phủ đã có những cơ chế tạo điều kiện cho phép các doanh nghiệp nhà nước xử lý các khoản nợ và tài sản tồn đọng trước khi chuyển đổi. Tuy nhiên việc xử lý các khoản nợ tồn đọng chỉ mới giới hạn ở mức các khoản nợ đã được xác định được là không có khả năng thu hồi. Những khoản nợ tồn đọng nhiều năm do cơ chế cũ để lại cũng khó có khả năng thu hồi, doanh nghiệp sau khi chuyển đổi vẫn phải kế thừa những khoản nợ này và không xử lý được. Đây là một gánh nặng của các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá. Công tác tuyên truyền, phổ biến các chính sách cho người lao động chưa được đẩy mạnh. Qua khảo sát thăm dò một số doanh nghiệp nhận thấy việc tiếp cận và hiểu rõ tinh thần và nội dung mới trong chính sách cổ phần hoá còn rất chậm, có trường hợp chưa hiểu rõ nội dung mới. Thiếu một hệ thống hỗ trợ, tư vấn cho các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Chuyển doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần, hình thái doanh nghiệp hiện đại và quản lý phức tạp nhất, với chính sách ưu đãi tại Nghị định 44/CP sẽ mang tính chất đơn nhất chưa thể tạo ra sự an tâm cho doanh nghiệp, khi chuyển sang hoạt động ở một môi trường mới. Đã đến lúc chúng ta phải thiết lập một hệ thống hỗ trợ, tư vấn cho doanh nghiệp thực hiện việc cổ phần hoá dưới mô hình quỹ hỗ trợ hay công ty tư vấn với chức năng trợ giúp doanh nghiệp trước, trong và sau quá trình cổ phần hoá . Thiếu một hệ thống văn bản pháp luật có tính pháp lý cao như luật, pháp lệnh về cổ phần hoá . Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một giải pháp cải cách mang tính chất triệt để nhất, cương quyết nhất. Do đó rất cần có văn bản pháp luậ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0204.doc