Đề tài Thực trạng công tác kiểm tra xuất xứ hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam

MỤC LỤC

I. Khái quát về xuất xứ hàng hoá và công tác kiểm tra xuất xứ hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam 1

1. Khái niệm và đặc điểm của xuất xứ hàng hoá: 1

a.Quy tắc xuất xứ ưu đãi: 2

b.Quy tắc xuất xứ không ưu đãi: 6

2. Vai trò của xuất xứ hàng hóa: 8

a. Thuế quan ưu đãi: 8

b. Áp dụng thuế chống phá giá và trợ giá: 9

c. Thống kê thương mại và duy trì hệ thống hạn ngạch: 9

d. Xúc tiến thương mại: 9

e. Các nguyên nhân môi trường: 9

f. Lẩn tránh: 10

3. những quy tắc chung trong xác định xuuất xứ hàng hóa 10

a. Quy tắc xuất xứ phổ biến 10

b. Quy tắc xuất xứ sản phẩm cụ thể: 12

II. Thực trạng công tác kiểm tra xuất xứ hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam: 24

1.Cơ sở pháp lý kiểm tra xuất xứ hàng hóa nhập khẩu: 24

a.Cơ sở pháp lý quốc tế: 24

2. Thực trạng công tác kiểm tra, xác định xuất xứ hang hóa nhập khẩu tại Việt Nam: 25

a.Quy định về C/ O: 25

b.Một số vướng mắc: 29

III. Giải pháp tăng cường công tác kiểm tra hàng hóa nhập khẩu: 33

1.Giải pháp về cơ sở pháp lý: 33

2.Giải pháp về quy trình kiểm tra xuất xứ hàng hóa: 35

a.Nguyên tắc chung: 36

b. Kiểm tra xuất xứ trong thông quan: 38

c. Quy trình về kiểm tra sau thông quan 45

3. Các giải pháp phối hợp: 45

a. Hợp tác hải quan – hải quan 45

b. Hợp tác Hải quan – các Bộ, ngành 48

c. Hợp tác Hải quan – Doanh nghiệp 49

 

doc51 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4766 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng công tác kiểm tra xuất xứ hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
̃ là ssản phẩm của nước đó. Quy tắc 2. Quá trình sản xuất tạo ra một sản phẩm có liên quan tới hai hay nhiều nước thì nước xuất xứ là nước diễn ra việc chuyển đổi cơ bản cuối cùng hoặc thực hiện quá trình đêt tạo nên một sản phẩm mới. Quy tắc 3. Một hàng dệt hay sản phẩm dệt sẽ được coi là đã trải qua việc chuyển đổi cơ bản nếu có được biến đổi qua một quá trình sản xuất hay các công đoạn sản xuất cơ bản để hình thành nên một vật phẩm thương mại khác hẳn và mới. Quy tắc 4. Một vật phẩm thương mại khác hẳn và môi trường sẽ là kết quả của quá trình sản xuất hhay các công đoạn chế biến nếu có sự thay đổi trong: Thiết kế mẫu hay định dạng sản phẩm Đặc tính cơ bản Mục điích sử dụng Quy tắc 5. Để xác định xem một hàng hóa cụ thêt đã trải qua các công đoạn chế biến hay sản xuất cơ bản hay không, cần xem xét đến các yếu tố sau: Sự thay đổi lý tính của vật liệu hoặc sản phẩm được sản xuất do quá trình sản xuất hay các công đoạn chế biến tạo nên; Thòi gian liên quan tới quá trình sản xuất hay các công đoạn chế biến tại nước sản xuất ra sản phẩm; Tính phức tạp của quá trình sản xuất hay các công đoạn chế biến ở nước sản xuất ra sản phẩm; Trình độ hay mức độ về tay nghề và/ hoặc công nghệ cầng thiết trong quá trình sản hay các công đoạn chế biến. Quy tắc 6. Vật liệu hay sản phẩm dệt sẽ được coi là sản phẩm của một nước ASEAN khi nó có trải qua một trong các quá trình như sau trước khi nhập vào nước ASEAN khác. Các chất hóa dầu trải qua quá trình polyme hóa hay đa tụ hay bất kỳ một quá trình hóa học hoặc vật lý nào để tạo nên một cao phân tử; Polyme(Cao phân tử) trải qua quá trình kéo sợi chỷ hay phun để tạo nên một xơ tổng hợp; Kéo xơ thành sợi; Dệt,dệt kim hay phương pháp tạo thành vải khác; Cắt vải thành các phần và lắp ráp các phần này thành một sản phẩm hoàn chỉnh; Nếu quy trình nhuộm vải được kèm thêm bất kỳ công đoạn hoàn tất nào thì có tác động tới việc hoàn chỉnh sản phẩm in trực tiếp. Nếu quy trình in vải được kèm thêm bâtts kỳ công đoạn hoàn tất nào thì có tác động tới việc hoàn chỉnh sản phẩm in trực tiếp. Quá trình sản xuất một sản phẩm mới có các xử lý như ngấm hay phủ một sản phẩm dẫn đến việc tạo thành một sản phẩm mới thuộc vào nhóm hàng tính thuế khác( 4 số – heading of customs tariff) so với ban đầu. Các điểm thêu chiếm ít nhất 5% tổng số diện tích của sản phẩm được thêu. Quy tắc 7. Một sản phẩm hay vật liệu sẽ không được coi là một sản phẩm có xuất xứ ASEAN nếu nó chỉ trải qua bất cứ một quá trình nào như sau Cắt theo chiều dài hay khổvải và viền, móc hay may đè vải nhằm mục đích sử dụng cho một hình thức thương mại đặc biệt; Cắt nhẹ và/ hay ghép với nhau bằng cách may, tạo vòng, ghép nối, đán các phụ kiện như nẹp áo,dải, thắt lưng, dây vòng hay khuyết. Một hay nhiều các công đoạn hoàn tất cho sợi, vải hay các sản phẩm khác như tẩy trắng, chống thấm,có kết, làm bóng hay các công đoạn tương tự; hay Nhuộm hoặc in hoa vải hoặc sợi. Lưu ý: Các sản phẩm( được liệt kê sau đây) được tạo ra từ vật liệu dệt do các nước người ASEAN sản xuất sẽ được coi có xuất xứ ASEAN nếu nó trải qua các quá trìn như ở quy tắc 6 chứ không chỉ như ở quy tắc 7. Khăn mùi soa; Khăn choàng, nơ, mạng và các sản phẩm tương tự; Túi ngủ và chăn; Khăn giường, áo gối, khăn bàn, khăn tắm và khăn ăn; Bao bì, các sản phẩm dùng để đựng hàng hóa; Giấy dầu, rèm cửa, vải bạt che cửa. Vải tràn sàn, vải phủ bàn ghế và các sản phẩm tương tự. Giấy chứng nhận xuất xứ do cơ quan có thẩm quyền hay đại diện có thẩm quyền tại nước xuất khẩu cấp để chứng nhận xuất xứ ASEAN của sản phẩm dệt. Trong trường hợp sản phẩm dệt được sản xuất tại hai hay nhiều nước thì chỉ nước nào có quá trình này chuyển đổi cơ bản cuối cũng mới cần có giâý chứng nhận xuất xứ. Giấy chứng nhận xuất xứ sẽ được xuất trình cùng với các chứng cần thiết Khác cho hải quan nước ASEAN đối với một sản phẩm dệt, thì tranh chấp nay có thêt thực hiện được giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp của ASSEAN( DSM). Trong trường hợp như vậy, Hải quan có thể giải phóng các sản phẩm bị tranh chấp sau kkhi người nhập khẩu có những đảm bảo đáp ứng yêu cầu của cơ quan hải quan. + Quy tắc xuất xứ dùng cho Hiệp định CEFT áp dụng đối với mặt hàng gỗ và nhôm Nước xuất xứ là nơi quy trình chuyển đổi cơ bản cuối cùng được thực hiện để tạo nên một sản phẩm mới. Nguyên phụ liệu trải qua quá trình chuyển đổi cơ bản tại một nước được coi là sản phẩm của nước đó. Một sản phẩm có quy trình sản xuất diễn ra ở hai hoặc nhiều nước thì xuất xứ là nơi diễn ra quy trình chuyển đổi cơ bản hoặc chế biến để tạo ra một sản phẩm mới. Một sản phẩm được coi là đã trai qua quy trình chuyển đổi cơ bản nếu nó được chuyển biến chuyển qua sản xuất hoặc chế biến để tạo tra một sản phẩm thương mại mới. Một sản phẩm thương mại mới khi trải qua quá trình sản xuất hoặc gia công nếu có sự thay đổi sau; Đặc tính hay kiểu dáng thương mại Đặc điểm cơ bản Mục đích sử dụng về thương mại Trong trường hợp hai hoặc nhiều nước tham gia vào quy trình sản xuất để tạo ra các sản phẩm nêu trên thì nước diễn ra quy trình chuyển đổi cơ bản hoặc chế biến cuối cùng là nước cấp giâyý chứng nhận xuất xứ. 4. Nguyên tắc kiểm tra xuất xứ hàng hóa Việc kiểm tra xuất xứ hàng hóa phải căn cứ vào thực tế hàng hóa và hồ sơ hải quan. Trường hợp có khác biệt nhỏ giữa việc khai thác trên C/O và chứng từ thuộc hồ sơ hải quan nhưng cơ quan hải quan không nghi ngờ về tính xác thực của xuất xứ hàng háo và việc khai đó vẫn phù hợp với hàng háo thực tế nhập khẩu thì C/O đó vẫn được coi là hợp lệ. C/O đã nộp cho cơ quan hải quan thì không được thay thế hoặc sửa đổi nội dung, trừ trường hợp có nội dung chính đáng và do cơ quan hay tổ chức có thẩm quyền cấp C/O sửa đổi, thay thế trong thời hạn quy định của pháp luật + Nội dung kiểm tra xuất xứ hàng hóa Khi kiểm tra giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa ( C/O) cơ quamn hải quan kiểm tra các nội dung sau: Các tiêu chí cơ bản trên C/O, sự phù hợp về nội dung trên C/O và các chứng từ thuộc hồ sơ hải quan; Mẫu dấu, tên và mẫu chữ ký, tên cơ quan hoặc tổ chức có thẩm quyền cấp C/O thuộc chính phủ của nước hoặc vùng lãnh thổ đã có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt trong quan hệ thương mại với Việt Nam: Thời hạn hiệu lực của C/ O. Trong trường hợp có nghi ngờ tính xác thực của chứng từ hoặc mức độ chính xác của thông tin liên quan đến xuất xứ của hàng hóa, cơ quan hải quan có thể yêu cầu kiểm tra cùng với giấy chứng nhận xuất xứ có liên quan tới tổ chức cấp giấy chứng nhận xuất xứ. Yêu cầu kiểm tra cần phải nêu rõ lý do và các thông tin nghi ngờ về tính xác thực của giấy chứng nhận xuất xứ và xuất xứ của hàng hóa đang xem xét. Trong khi chờ kết quả kiểm tra, hàng hóa không được hưởng ưu đãi thuế quan nhưng vẫn được phép thoong quan theo các thủ tục hải quan thông thường. Việc kiểm tra phải được hoàn thành trong thời gian sớm nhất nhưng không quá 150 ngày, kể từ thời điểm người nhập khẩu nộp bộ hồ sơ đầy đủ và hợp lệ. II. Thực trạng công tác kiểm tra xuất xứ hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam: 1.Cơ sở pháp lý kiểm tra xuất xứ hàng hóa nhập khẩu: a.Cơ sở pháp lý quốc tế: Với tư cách là thành viên của WTO, của ASEAN, APEC... Việt Nam đã tham gia thực hiện các quy định của Hiệp định Quy tắc xuất xứ, Chương trình hài hòa quy tắc xuất xứ, chương trình ưu đãi phổ cập chung của EU, các quy tắc xuất xứ ASEAN và nhiều Hiệp định quốc tế khác làm căn cứ để phục vụ công tác xác định, xác minh và kiểm tra xuất xứ hàng hóa. b.Cơ sở pháp lý trong nước: Cùng với tiến trình phát triển của hiện đại hóa Hải quan và các quy trình thủ tục hải quan, về cơ bản hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam đã cụ thể hóa các quy định quốc tế về xuát xứ hàng hóa của Hiệp định Quy tắc xuất xứ và Phụ lục K của Công ước Kyoto sửa đổi phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam. Để từ đó, ban hành các hệ thống văn bản luật pháp nhằm đảm bảo công tác kiểm tra xuất xứ hàng hóa xuất khẩu tại hải quan Việt Nam như Luật hải quan 2001, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan Việt Nam 2005, Nghị định 154/ 2005/ NĐ- CP, Thông tư 45/ 2005/ TT- BTC, Thông tư 112/ 2005/ TT- BTC, Thông tư 07/ 2006/ TT- BTC, Thông tư 14/ 2006/ TT- BTC, Thông tư 45/ 2007/ TT- BTC, Quyết định 865/ 2004/ QĐ- BTM, Quyết định 12/ 2007/ QĐ- BTM, Quyết định 02/ 2007/ QĐ- BTM, Quyết định 19/ 2008/ QĐ- BTC, Quyết định 2006/ QĐ- BTC... 2. Thực trạng công tác kiểm tra, xác định xuất xứ hang hóa nhập khẩu tại Việt Nam: Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới, chính thức tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ thương mại với nhiều quốc gia Châu Á, Châu Phị và Châu Mỹ. Việt Nam đã ký kết và tham gia nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do AFTA, học tập được kinh nghiệm các nước phát triển trong công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, quy tắc xuất xứ, các biện pháp kiểm tra xuất xứ hàng hóa nhập khẩu phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế và Việt Nam. Công tác xác định, kiểm tra xuất xứ hàng hóa đã có những thuận lợi và khó khăn nhất định. a.Quy định về C/ O: Hoạt động xây dựng pháp luật về C/ O: Trước khi gia nhập WTO, các Bộ, ngành quan tâm đến các quy định quốc tế về xuất xứ hàng hóa nhưng chỉ dừng lại ở mức nghiên cứu. Các quy định liên quan đến xác định, kiểm tra xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu được xây dựng ở các văn bản pháp quy cấp thấp. Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO thì công tác xây dựng các văn bản pháp luật đã được chú trọng. Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, Ngành phối hợp rà soát, so sánh các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam liên quan đến xuất xứ hàng hóa với các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam liên quan đến xuất xứ hàng hóa với các quy định của Hiệp định về Quy tắc xuất xứ. Bộ Thương mại ban hành Quyết định 492/2000/QĐ-BTM ngày 20/03/2000 thay thế Quyết định 416/TM-ĐB ngày 13/05/1996 về quy chế cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa ASEAN của Việt Nam để hưởng các ưu đãi theo Hiệp định CEPT. Thông tin liên tịch số 09/2000/TTLT-BTM-TCHQ ngày 17/4/2000 quy định về việc cấp chứng chỉ hàng hóa trong nước để xuất ra nước ngoài và kiểm tra xuất xứ hàng hóa có xuất xứ từ nước được Việt Nam cho hưởng các ưu đãi về thuế nhập khẩu hay các chế độ quản lý khác theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc theo các Hiệp định, thỏa thuận quốc tế ký kết giữa Việt Nam với các nước, nhóm nước hoặc các tổ chức kinh tế quốc tế. Các thông tư và quyết định chưa đủ mạnh để đảm bảo xác định xuất xứ hàng hóa chính xác, rõ ràng. Vì vậy, cần phải xây dựng Luật, Nghị định quy định quy định về việc xác định xuất xứ hàng hóa trên cơ sở không phân biệt đối xử. Hệ thống pháp luật của Việt Nam như Luật Hải quan năm 2001, Luật sửa đổi, bổ sun một số điều của Luật hải quan năm 2005, các văn bản quy phạm pháp luật như Thông tư 45/2005/TT-BTC ngày 06/6/2005; Nghị định 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005; Thông tư 112/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005; Thông tư 07/2006/TT-BTM ngày 17/4/2006 và một số Quyết định đã được ban hành. Đây là cơ sở pháp lý cơ bản phục vụ công tác xác định, kiểm tra xuất xứ hàng hóa. Hệ thống văn bane quy phạn pháp luật này quy định về vai rò, trách nhiệm của các Bộ ngành trong công tác xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến xuất xứ hàng hóa; vai trò, trách nhiệm của Hải quan trong công tác kiểm tra xuất xứ hàng hóa nhập khẩu; vai trò của Doanh nghiệp trong công tác khai báo, xác định xuất xứ hàng hóa nhập khẩu. Đồng thời cũng quy định về công tác quản lý và thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận xuất xứ, điều kiện để khu vực được ưu đãi đặc biệt về thuế quan… Về cơ bản hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam đã cụ thể hóa các quy định quốc tế về xuất xứ hàng hóa của Hiệp định Quy tắc xuất xứ và Phụ lục K của Công ước Kyoto sửa đổi phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. Sau khi gia nhập WTO, các Bộ, Ngành tích cực tham gia xây dựng, sửa đổi các Nghị định, Thông tư hướng dẫn về xuất xứ hàng hóa cho phù hợp với những quy định mới về xuất xứ. Các thông tư quyết định mới được ban hành như quyết định 02/2007/QĐ-BTM ngày 08/01/2007; Quyết định 12/2007/QĐ- BTM ngày 31/5/2007; Thông tư 45/2007/TT- BTC ngày 24/09/2007; Quyêt định 19/2008/QĐ-BCT ngày 24/7/2008; Quyết định 44/2008/QĐ-BCT ngày 08/12/2008 đã tạo nhiều thuận lợi cho thương mại. Soạn thảo và góp ý xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về C/ O điện tử, các văn bản khác liên quan đến thủ tục Hải quan, đơn giản hóa thủ tục cấp C/ O, quy định rõ rang các trường hợp nộp chứng từ, lập danh sách các doanh nghiệp được ưu tiên kiểm tra hồ sơ C/ O của doanh, thực hiện tốt công tác kê khai C/ O. Để đánh giá cụ thể hơn công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, Nhóm nghiên cứu đã điều tra trong cán bộ công chức hải quan và doanh nghiệp về hiệu quả của các văn bản quy phạm pháp luật kết quả cho thấy: Trong cán bộ hải quan được hỏi, có 21.45% số người đánh giá các văn bản không rõ ràng, 27.96% số người đánh giá các văn bản không thống nhất, 48.27% số người cho rằng các văn bản là quá nhiều,15.32% số người cho rằng các văn bản rõ ràng dễ thực hiện. Đối với văn bản hướng dẫn kiểm tra xuất xứ tỷ lệ như sau: 21.83% số người đánh giá các văn bản hướng dẫn kiểm tra xuất xứ không rõ ràng, 17.24% số người đánh giá các văn bản không có sự thống nhất, 45.21% cho rằng các văn bản hướng dẫn kiểm tra xuất xứ đã có là quá nhiều, và chỉ có 14.94% số người cho rằng các văn bản hướng dẫn kiểm tra xuất xứ rõ ràng dễ thực hiện. Qua số liệu trên ta thấy sự quan tâm của những người thực hiện các văn bản hướng dẫn xác định xuất xứ hàng hóa là chưa cao. Số người nhất trí với các văn bản đã ban hành về hướng dẫn kiểm tra phù hợp là ít ( dưới 20%) trong đó rất nhiều ý kiến cho rằng lượng văn bản ban hành là quá nhiều và càn phải thu gọn lại (gần 50%). Như vậy, có thể thấy các văn bản đã bộc lộ nhiều điểm yếu, cần phải tinh giản, chỉnh lý tạo thuận lợi áp dụng dễ dàng. Công tác xác định, cấp C/ O: Thực chất việc xác định xuất xứ của các Bộ, ngành chỉ dừng lại ở công tác cấp C/ O và việc xác định xuất xứ là chấp nhận khai báo của doanh nghiệp. Số lượng bộ C/ O được cấp năm 2008 tăng khoảng 3% so với năm 2007, riêng ở Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam ( VCCI) tăng 2.94%, tốc độ tăng chậm hơn so với các năm trước ( như TP. HCM, Hà Nội các năm trước đều tăng trên 10%). VCCI thường xuyên gửi đăng ký mẫu con dấu và chữ ký mới cho đại sứ quán các nước tại Việt Nam và cơ quan hải quna các nước mà các doanh nghiệp có hoạt động nhập khẩu và cập nhật số liệu cấp C/ O hàng ngày cho Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin – Bộ Công thương, Văn phòng kinh tế và Văn hóa Đài Bắc, Hải quan Czech, Hải quan Slovakia. Cung cấp số liệu cho các cơ quan chức năng khi được yêu cầu ( Bộ Công an, Cục điều tra chống buôn lậu, Cục Kiểm tra sau thông quan của Tổng cục hải quan…) Từ năm 2006 đến nay lượng C/ O giả tăng qua các năm là 69.5% ( năm 2007), 80% ( năm 2008) (theo số liệu của VCCI) trong đó các gian lận chủ yếu gồm: Áp sai mã số HS cho nguyên liệu nhập khẩu để sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ theo quy tắc chuyển đổi mã số HS hoặc giảm tỷ lệ % trị giá nguyên liệu không có xuất xứ Việt Nam để xin cấp C/ O form A. Tẩy sửa nội dung trên C/ O đã cấp, cắt dán thay đổi nội dung trên các chứng từ như trên tờ khai hải quan, vận tải đơn sao y để xin C/ O. Cải cách hoạt động cấp C/ O: Bộ Công thương và VCCI đã tiến hành thử hành thử nghiệm và hướng dẫn doanh nghiệp khai phần mềm cấp C/ O online tại Tổ cấp C/ O Hà Nội và TP. HCM. Việc khai C/ O qua mạng đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhằm rút ngắn được thời gian cũng như chi phí được nhiều doanh nghiệp đánh giá cao. Trong năm 2008, riêng VCCI đã cấp C/ O online cho khoảng 5000 doanh nghiệp ( Hà Nội khoảng 1300 doanh nghiệp, TP.HCM khoảng 3700 doanh nghiệp). Để giúp cho các doanh nghiệp vùng sâu, vùng xa và các doanh nghiệp không kết nối mạng Internet khai C/ O qua mạng, một số Tổ cấp C/ O đã đặt máy tính tại phòng chờ của doanh nghiệp để doanh nghiệp tự khai như: Hà Nội, TP.HCM, Cần Thơ. Như vậy, bước đầu các Bộ, ngành đã thực hiện việc giảm bớt chứng từ ( tờ khai hải quan nhập khẩu và các định mức đi kèm) tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. b.Một số vướng mắc: Thực tế, khi kiểm tra xuất xứ hàng hoá và giải quyết những vướng mắc về XXHH, Hải quan Việt Nam rất nhiều khó khăn. Tính đến thời điểm 01/4/2009, Tổng cục Hải quan chưa ban hành quy trình kiểm tra, xác minh xuất xứ hướng dẫn cụ thể cán bộ công chức HQ kiểm tra xuất xứ. Cán bộ HQ chủ yếu “soi so” chữ ký, tên người ký, mẫu dấu ....theo kinh nghiệm hay do người trước hướng dẫn người sau .... Việc kiểm tra này là cần thiết nhưng không phải là cơ bản vì cán bộ công chức HQ chưa có các cơ sở để kiểm tra các tiêu chí khác. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc kiểm soát xuất xứ hàng hoá xuất nhập khẩu. Qua tổng kết 337 các vướng mắc về xuất xứ được thông báo trên mạng nội bộ của TCHQ, nhóm nghiên cứu nhận thấy có nhiều vấn đề chưa có quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật và quy tắc xác định xuất xứ, văn bản hướng dẫn kiểm tra xuất xứ chưa được chặt chẽ (Ví dụ, hàng nhập khẩu từ Hồng Kông được cấp C/O form E có cho phép hưởng ưu đãi ASEAN - Trung Quốc trong khi hoá đơn thương mại do Hồng Kông cấp. Hiện nay, Quyết định 12/2007/QĐ-BCT ngày 31/5/2007 của Bộ Công thương không có quy định cho phép chấp nhận C/O có ghi số hóa đơn thương mại do bên thứ ba phát hành. Do vậy, mặc dù hàng hóa đáp ứng quy tắc vận tải trực tiếp nhưng trên C/O form E có ghi số hóa đơn thương mại do đối tác Hồng Kông lập thì sẽ không phù hợp với Quyết định 12 nêu trên và không được chấp nhận hưởng ưu đãi ACFTA. Tuy nhiên đối với C/O mẫu D ban hành theo Quyết định số 19/2008/QĐ-BCT ngày 24/7/2008 lại không quy định điều này nên hàng hoá có C/O mẫu D nhưng hoá đơn thương mại do một nước thứ ba phát hành (không phải thành viên ASEAN) vẫn được chấp thuận. Do việc hướng dẫn kiểm tra các tiêu chí trên C/O của TCHQ chưa thật rõ ràng đã dẫn đến một số trường hợp công chức HQ chấp nhận các C/O chưa đầy đủ các tiêu chí (như thiếu giá FOB trên C/O mẫu D ô số 9, C/O mẫu S ô số 8...) tức là các C/O không hợp lệ trong một thời gian khá dài nên đã đến tình trạng phải truy thu nhiều chục tỷ dồng tiền thuế do chấp nhận C/O không hợp lệ.        Ví dụ xác định xuất xứ năng lượng điện nhập khẩu, hàng lỏng, hàng rời chỉ căn cứ vào bộ hồ sơ nhập khẩu, đường dây cung cấp điện thực tế xuất phát từ nước xuất khẩu điện. Đối với các loại hàng lỏng, hàng rời không đóng trong bao bì, thùng phuy,.. mà được rót hoặc đổ trực tiếp vào hầm tàu như mặt hàng than, quặng,..., sẽ khó xác định xuất xứ hơn và không thể ghi nhãn trên bao bì như hàng hóa thông thường khác.   Tình trạng gian lận xuất xứ hàng hoá kể cả hàng nhập lẫn hàng xuất khá  phổ biến làm cho việc kiểm tra xuất xứ của công chức hải quan rất khó khăn. Một số mặt hàng xuất khẩu tại Việt Nam là hàng do Trung Quốc sản xuất, bị Châu Âu, Hoa kỳ...đánh thuế chống bán phá giá, kiểm soát bằng hạn ngạch hoặc muốn hưởng mức thuế ưư đãi GSP mà châu Âu dành cho các nước như kém phát triển như Việt Nam nên tìm mọi cách để có giấy chứng nhận xuất xứ VN:        Như tôm Trung Quốc năm 2002-2003 do có tồn dư lượng chất kháng sinh quá mức quy định nên bị Hoa kỳ cấm nhập khẩu, giá tôm Trung Quốc xuống giá rất thấp nên một số doanh nghiệp đã tìm cách nhập khẩu tôm Trung Quốc rồi xuất khẩu sang Hoa Kỳ với danh nghĩa tôm Việt Nam.        Hoặc mặt hàng mật ong Trung Quốc và các sản phẩm mật ong Trung Quốc do bị cấm nhập vào châu Âu và do bị Hoa kỳ đánh thuế chống bán phá giá là 2,5USD/Kg nên các doanh nghiệp Trung Quốc tìm  cách để đưa mật ong vào Việt Nam sau đó làm giả giấy chứng nhận xuất xứ để xuất khẩu sang EU và Mỹ .Các cơ quan chức năng của VN đã phát hiện và xử lý một doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nhập khẩu nước đường Trung Quốc để sản xuất sau đó xuất khẩu mật ong nhân tạo có xuất xứ Việt Nam, nhưng qua giám định đó là lô hàng mật ong có xuất xứ từ Trung Quốc. Việc này đã làm ảnh hưởng rất lớn đến người nuôi ong và ngành nuôi ong của Viêt Nam như EU đã tạm ngưng nhập khẩu mật ong Viêt Nam đã làm giảm giá bán mật ong xuất khẩu  từ 10% đến 15%, ảnh hưởng đến khoảng 15.000 người nuôi ong ở Viêt Nam (Công văn 2286-TB/A11(A17) ngày 2/8/2007 của Tổng cục An ninh -Bộ Công An, Công văn số 01/HNO ngày 6/1/2009 của Hội nuôi ong)    Ngoài ra còn một mặt hàng xuất khẩu của Việt nam thường bị làm giả xuất xứ như hàng may mặc, da giày. Trong năm 2006 và quý 1 năm 2007 thì Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam nhận được nhiều thông báo của hải quan các nước về C/O VN giả: HQ Sec 135 bộ, HQ Balan 79 bộ; HQ Slovakia 41 bộ.....    Đối với hàng nhập khẩu, qua việc kiểm tra C/O và trên cơ sở phối hợp với các cơ quan chức năng khác cơ quan Hải quan đã phát hiện nhiều trường hợp sai phạm trong việc sử dụng C/O như giấy C/O mẫu D của Thái Lan tại Nọng khai không đúng quy định với mặt hàng Tivi Sony, tủ lạnh Mitsubishi; gần đây, cuối năm 2006 Hải quan Philippin cấp giấy chứng nhận C/O mẫu D cho mặt hàng thép lá cán nguội (CRC) không đảm bảo hàm lượng ASEAN và việc cấp C/O mẫu D không đúng quy tắc xuất xứ và quy định của Quy chế cấp giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D (Quy chế CEPT/AFTA). Vì vậy, các lô hàng này phải nộp thuế nhập khẩu với thuế suất MFN là 7% chứ không  được hưởng mức thuế suất ưu đãi CEPT là 0% và Cục Kiểm tra sau thông quan –TCHQ đã tiến hành truy thu các lô hàng thép nhập khẩu từ Philippin. Đã thu được tại HQ Thành phố Hồ Chí Minh là 31 tỷ Việt Nam Đồng, HQ Hải Phòng 4,6 tỷ đồng (Hải quan Malaysia trong thời điểm này cũng đã từ chối các C/O mẫu D thép CRC nhập khẩu từ Philippin)    Một số doanh nghiệp đã tạm nhập khẩu mặt hàng của Trung Quốc, thay bao bì, bỏ bao bì hoặc gia công tái chế chưa đủ hàm lượng Việt Nam rồi xuất đi Đài Loan nhằm gian lận về xuất xứ như gạch men, phân bón... Nhiều trường hợp vướng mắc (phụ lục tổng kết các vướng mắc về C/O năm 2008) đòi hỏi công chức hải quan phải có trình độ nhất định mới kiểm tra phát hiện được gian lận về xuất xứ hàng hoá xuất nhập khẩu.       Việc thẩm tra, xác minh, kiểm tra xuất xứ cho hàng hóa được sản xuất ở nước khác là vấn đề rất khó khăn và mang tính nhạy cảm cao. Cơ quan có thẩm quyền xác định trước xuất xứ có thể ra văn bản chấp nhận (chủ yếu dựa trên cơ sở bộ hồ sơ, cơ sở dữ liệu sẵn có và kinh nghiệm đúc kết được), nhưng hàng hóa thực tế nhập khẩu chưa chắc chắn có xuất xứ phù hợp. Việc xác định tiêu chuẩn xuất xứ thực của hàng hoá có nghi ngờ là khó khăn, phần lớn phải thông qua điều tra xác minh. Theo quy định của luật pháp quốc tế, các hiệp định thương mại song phương hoặc đa phương mà Việt Nam tham gia ký kết, trong trường hợp có nghi ngờ về tính hợp lệ của  giấy chứng nhận xuất xứ và xuất xứ hàng hóa, cơ quan Hải quan có thể yêu cầu điều tra xác minh tới cơ quan cấp C/O của nước xuất khẩu.  Đối với hàng hóa hưởng ưu đãi trong khuôn khổ các Hiệp định thương mại tự do, nếu sự giải trình, chứng minh của cơ quan cấp không rõ ràng, không thỏa mãn yêu cầu điều tra của nước nhập khẩu thì nước này có thể cử đoàn kiểm tra tới nước xuất khẩu để tiến hành điều tra, xác minh theo quy định của Hiệp định quy tắc xuất xứ. Nhưng thực tế, việc này không phải lúc nào cũng thực hiện được. Khi kiểm tra giấy chứng nhận xuất xứ, thấy chữ ký của người có thẩm quyền ký cấp C/O không ký đúng hoàn toàn theo mẫu, thậm chí còn khác biệt, nhất là chữ ký của người có thẩm quyền là công dân nước sử dụng chữ viết tượng hình như Trung Quốc. Trong trường hợp này, Hải quan phải đề nghị cơ quan cấp xác nhận tính xác thực của chữ ký trên C/O đó. Qua số liệu điều tra trong công chức hải quan và cán bộ doanh nghiệp, nhóm nghiên cứu nhận thấy: - Mức độ hiểu biết về xuất xứ của cán bộ còn nhiều hạn chế; các văn bản hướng dẫn kiểm tra, xác minh xuất xứ có những bất cập (Biểu đồ 7). Biểu đồ 7. Đánh gía các văn bản hướng dẫn kiểm tra , xác minh xuất xứ Biểu đồ 8. Đánh giá việc kiểm tra xuất xứ hàng hoá dựa theo các tiêu chí - Quan niệm về việc kiểm tra xuất xứ hàng hoá xuất nhập khẩu của cán b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 50.DOC