Đề tài Thực trạng công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT 2

I. Những vấn đề chung về thanh toán không dùng tiền mặt 2

1. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế 3

2. Yêu cầu và nguyên tắc trong việc áp dụng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt 4

II. Nội dung cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt 6

1. Thanh toán bằng Séc 6

2. Thanh toán bằng Uỷ nhiệm chi- Chuyển tiền 12

3. Thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu 15

4. Thanh toán bằng Thư tín dụng 17

5. Thanh toán bằng Thẻ thanh toán 21

III. Nhân tố tác động đến thanh toán không dùng tiền mặt 22

1. Nhân tố chủ quan 22

2. Nhân tố khách quan 24

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 25

I. Khái quát hoạt động của NHNTVN 25

1. Sự ra đời và phát triển của NHNTVN 25

2. Kết quả hoạt động kinh doanh một số năm qua 26

II. Thực trạng công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam 28

1. Tình hình chung 28

2. Thực trạng công tác thanh toán không dùng tiền mằt tại Ngân Hàng 29

 

doc51 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 688 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ai bên khách hàng mở tài khoản tại 2 ngân hàng cùng hệ thống hoặc khác hệ thống. Tuy nhiên hình thức thanh toán L/C chỉ được sử dụng trong thanh toán quốc tế đối với các đơn vị xuất nhập khẩu hàng hoá vì khi đó các bên mua bán hầu như không quen biết nhau và do đó không biết được tình hình tài chính của nhau. Quy trình thanh toán: + Thanh toán Thư tín dụng giữa hai khách hàng mở tài khoản tại hai ngân hàng cùng hệ thồng Giai đoạn mở Thư tín dụng Người mua muốn thanh toán bằng Thư tín dụng sẽ lập giấy xin mở Thư tín dụng gửi vào ngân hàng nơi mình mở tài khoản Nếu đồng ý ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng ký quỹ: Nợ TK 4311/ Người mua Có TK 4662/ Người mua Ngân hàng phát hành Thư tín dụng và gửi thông báo mở Thư tín dụng sang ngân hàng người bán . Khi nhận được thông báo mở Thư tín dụng ngân hàng người bán sẽ: - Nhập sổ theo dõi Thư tín dụng đến Thông báo mở Thư tín dụng cho người bán Người bán giao hàng hoá dịch vụ cho người mua Người bán lập bảng kê chứng từ hoá đơn phù hợp với điều kiện thanh toán của Thư tín dụng và gửi đến ngân hàng của mình để xin thanh toán Ngân hàng cung ứng DVTT của Người mua Người mua (chi trả) Ngân hàng cung ứng DVTT của Người bán Người bán (thụ hưởng) Giai đoạn thanh toán Thư tín dụng (4) (1) (2) (7) (3b) (5) (6b) (6a) (3a) Ngân hàng người bán kiểm tra sự phù hợp giữa bộ chứng từ hoá đơn với điều kiện thanh toán của Thư tín dụng. Nếu không có gì sai xót ngân hàng hạch toán: Nợ TK 5111 Có Tk 4311/ Người bán (6a) Gửi LCN sang ngân hàng người mua (6b) Báo có cho Người bán Suất sổ theo dõi Thư tín dụng đến Thu tền từ tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán (4662) Nợ TK 4662/ Người mua Có Tk 5112 Số tiền trên hoá đơn nhỏ hơn số tiền đã mở trên tài khoản 4662 ta sẽ tất toán tài khoản này: Nợ TK 4662 Có TK 4311/ Người mua Và báo nợ cho Người mua + Thanh toán Thư tín dụng giữa hai khách hàng mở tài khoản tại hai ngân hàng khác hệ thống nhưng trên địa bàn của ngân hàng người bán có một ngân hàng cùng hệ thống với ngân hàng của người mua và tham gia thanh toán với ngân hàng người bán Người mua (chi trả) Ngân hàng cung ứng DVTT của Người bán Ngân hàng cung ứng DVTT của Người mua Người bán (hưởng thụ) Ngân hàng Thông báo (6) (1) (2) (11) (5) (7) (10) (9a) (8) (4) (3) (9b) a. Giai đoạn mở Thư tín dụng Người mua muốn thanh toán bằng Thư tín dụng sẽ lập giấy xin mở Thư tín dụng gửi vào ngân hàng nơi mình mở tài khoản Nếu đồng ý ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng ký quỹ: Nợ TK 4311/ Người mua Có TK 4662/ Người mua Ngân hàng phát hành Thư tín dụng và gửi thông báo mở TTD sang ngân hàng thông báo cùng hệ thống Ngân hàng thông báo ghi nhập sổ theo dõi TTD đến và chuyển cho người bán Ngân hàng người bán nhập sổ theo dõi TTD đến và thông báo cho người bán Người bán giao hang hoá dịch vụ cho người mua Người bán nộp chứng từ hoá đơn xin thanh toán vào ngân hàng của mình Ngân hàng người bán gửi chứng từ sang ngân hàng thông báo qua phiên thanh toán bù trừ Ngân hàng kiểm tra và hạch toán: Nợ TK 5111 Có TK 4012 (9a) Chuyển nợ sang ngân hàng người mua (9b) Chuyển có sang ngân hàng người bán, và xuất sổ theo dõi TTD đến Ngân hàng người bán nhận được chuyển có ngân hàng sẽ trả tiền cho người bán: Nợ TK 5012 Có TK 4311/ Người bán Và xuất sổ theo dõi TTD đến (11) Ngân hàng người mua khi nhận được LCN sẽ tất toán: Nợ TK 4662 Có TK 5112 Và báo nợ cho người mua 5. Thẻ thanh toán Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán hiện đại gắn liền với kỹ thuật ứng dụng trong ngân hàng do ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hay rút tiền tại các ngân hàng đại lý hoặc các điểm rút tiền tự động. Ngân hàng phát hành thẻ là ngân hàng bán thẻ cho khách hàng và chịu trách nhiệm thạnh toán số tiền do khách hàng là người sử dụng thẻ trả cho người thụ hưởng. Người sử dụng thẻ có thể dùng thẻ để rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý thanh toán hoặc quầy trả tiền mặt tự động, mức tối thiểu để khách hàng mở tài khoản qua ATM là 5 triệu đồng và mỗi ngày thẻ chỉ được rút một lần. Đối với nước ta, thẻ thanh toán là một phuơng thức thanh toán mới xuất hiện. Người đi tiên phong trong lĩnh vực này là NHNTVN. Đó là đơn vị đầu tiên và cũng là duy nhất phát hành thẻ tín dụng tiền đồng vào tháng 7 năm 1993. Đây là một ứng dụng kỹ thuật mới, hiện đại, dùng công nghệ từ trường và ứng dụng kỹ thuật tin học tiên tiến. hy vọng trong tương lai sẽ được sử dụng rộng rãi trong dân chúng. Quy trình thanh toán : Ngân hàng phát hành Ngân hàng đại lý Khách hàng Cơ sở chấp nhận thẻ (4) (3) (1) (2) (7) (5) (6) Giai đoạn phát hành thẻ Khách hàng muốn sử dụng thẻ phải làm các thủ tục đăng ký mua thẻ Sau một thời gian Ngân hàng sẽ trao thẻ cho khách hàng Giai đoạn thanh toán thẻ Cơ sở chấp nhận thẻ giao hàng hoá cho khách hàng Khách hàng giao thẻ cho cơ sở chấp nhận thẻ Cơ sở chấp nhận thẻ gửi hoá đơn đến Ngân hàng đại lý Ngân hàng đại lý lập LCN gửi Ngân hàng phát hành: Nợ TK Thanh toán Vốn (5112,5012) Có TK 4311/ Cơ sở chấp nhận thẻ Ngân hàng phát hành sẽ thanh toán với khách hàng Nợ T K 4311 Có TK Thanh toán Vốn (5112,5012) III. Nhân tố tác động đến thanh toán không dùng tiền mặt 1. Nhân tố chủ quan Trình độ phát triển của nền kinh tế Là nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất vì mỗi một hệ thống thanh toán ra đời phù hợp với nền kinh tế nhất định, khi nền kinh tế phát triển cao hơn thì nó yêu cầu hệ thống thanh toán phát triển tương ứng, trình độ phát triển của nền kinh tế quyết định nhu cầu của doanh nghiệp và cá nhân đối với TTKDTM và như thế quyết định tới sự phát triển của dịch vụ. Lịch sử tiến triển của hệ thống thanh toán cho thấy bởi vì nền kinh tế thanh toán phát triển nên nhu cầu thanh toán trở nên thường xuyên và trong một phạm vi rộng lớn, vì thế dẫn đến sự ra đời của TTKDTM để đáp ứng các yêu cầu này. Nhưng nếu nền kinh tế phát triển trì trệ thì việc sử dụng TTKDTM cũng không thể phát huy hết tác dụng. Do đó khi thực hiện phương thức TTKDTM không những phải dựa vào các biện pháp, giám sát thúc đẩy một cách trực tiếp mà còn đưa vào hệ thống thanh toán trong cả nước. Sự tác động qua lại lẫn nhau này sẽ đưa đến tới việc phát triển nền kinh tế- xã hội. Pháp luật Để sử dụng tôt TTKDTM cần có những quy tắc về quyền lợi nghĩa vụ của các bên nhằm đảm bảo công bằng hợp lý, tránh tranh chấp xảy ra, điều đó cần đến vai trò của pháp luật. Các nước phát triển trên thế giới sử dụng TTKDTM một cách phổ biến đều có luật quy định chặt chẽ. Lợi thế của TTKDTM là an toàn tiện lợi nó chỉ có thể phát triển khi đảm bảo các lợi thế đó. Các quy định của phương thức về TTKDTM cũng phải thể hiện các yếu tố sao cho chặt chẽ an toàn nhưng phải linh hoạt thuận tiện công bằng cho các bên tham gia. Một hệ thống pháp luật như thế sẽ giúp cho việc phát triển TTKDTM ngược lại nếu quy định của pháp luật không hợp lý thì sẽ cản trở nó. Công nghệ TTKDTM gắn liền với công nghệ Ngân hàng hiện đại, chính sự phát triển của các mạng thông tin đã làm thay đổi nhanh chóng các nghiệp vụ Ngân hàng nói chung và thanh toán qua ngân hàng nói riêng. Xử lý thanh toán qua ngân hàng và TTKDTM có được an toàn thuận tiện hơn so với thanh toán bằng tiền mặt là vì nó có hệ thống công nghệ riêng biệt trong thanh toán gữa các Ngân hàng. Nếu là hoạt động thanh toán giữa các tài khoản của các doanh nghệp và cá nhân, thì hệ thống thanh toán điện tử liên hàng sẽ cho phép thực hiện nhanh chóng và hiệu quả cao, nếu thanh toán bằng thẻ thì đó là hệ thống kiểm tra cấp phát thẻ tại các cơ sở chấp nhận thẻ đối với ngân hàng cấp phát và thanh toán. Những hệ thống này cho phép tiền có thể chuyển được từ tài khoản này sang tài khoản khác trên mọi khu vực địa lý mà trong thời gian ngắn, không phải di chuyển tiền mặt, chống rủi ro bị cướp, hay các rủi ro vận chuyển tiền khác, đồng thời không mất chi phí kiểm đếm. Vì thế để có thể phát triển TTKDTM hay thanh toán qua ngân hàng thì cần phải đầu tư cho hệ thống công nghệ hiện đại. Và mặt khác cần phải chú ý rằng sự thay đổi của công nghệ đã làm thay đổi hệ thống thanh toán trong ngành kế toán. Vào giữa thế kỷ XX những thành tựu của cách mạng thông tin được ứng dụng vào công nghệ Ngân hàng đã làm TTKDTM trở nên phổ biến, ngày nay công nghệ khoa học viễn thông đang làm cho hệ thống thanh toán trở thành hệ thống phi tiền tệ, tức là hệ thống tiền điện tử. Tuy nhiên đây mới chỉ định hướng phát triển lâu dài trong tương lai. 2. Nhân tố khách quan Ngoài những nhân tố chủ quan như kinh tế, pháp luật thì yếu tố xã hội hay tâm lý thói quen và trình độ văn hoá của người sử dụng cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của TTKDTM. Như ở nước ta phần đông dân còn ưa chuộng việc sử dụng tiền mặt thì việc thuyết phục họ về lợi ích của TTKDTM cũng gặp trở ngại nhất định. Mặt khác do trình độ đa phần người dân còn thấp nên những yêu cầu khi sử dụng TTKDTM cũng có thể phức tạp đối với họ. Tuy nhiên cần phải thấy rằng yếu tố xã hội không phải là một cản trở lớn, bởi vì ngay cả khi có sức ỳ lớn về thói quen và trình độ văn hoá thấp thì nếu thấy được lợi ích rõ ràng của TTKDTM ta cũng sẵn sàng vứt bỏ thói quen cũ, chú ý học hỏi sử dụng phương tiện mới khi TTKDTM không phải là khó. Điều đó chứng minh qua nhiều phương tiện hiện đại đã được du nhập nhanh chóng vào nước ta gần đây như ô tô, xe máy, điện thoại di động Chương II Thực trạng công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam I. Khái quát hoạt động của NHNTVN 1. Sự ra đời và phát triển của NHNTVN Vào những năm đầu thập kỉ 60 của thế kỉ XX khi Miền Bắc bước vào xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, làm hậu thuẫn cho công cuộc Cách mạng giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước thì vấn đề thành lập một định chế tài chính chuyên về nghề nghiệp ngân hàng đối ngoại đã được dặt ra một cách khẩn trương. Việc hình thành các ngân hàng tại khu trung tâm, các vùng kinh tế và các khu vực nhằm huy động tối đa mọi nguồn vốn trong dân cư, đồng thời bám sát và đáp ứng nhu cầu về vốn trong mọi hoạt động dịch vụ về tài chính. Nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh có hiệu quả tạo ra lợi nhuận cao, thúc đẩy nền kinh tế phát triển là điều kiện đầu tiên quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển cho nghành ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Ngày 30/10/1962 theo đề nghị của NHNNVN hội đồng chính phủ đã ban hành nghị định 115/CP thành lập NHNTVN trên cơ sở bộ máy của Cục Ngoại hối trực thuộc NHNNVN. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 1/4/1963, NHNTVN chính thức đi vào hoạt động. Trụ sở chính của NHNTVN đặt tại 98 đường Trần Quang Khải Quận Hoàn Kiếm – Hà Nội. Với hệ thống NHNT đã được thiết lập ở nhiều tỉnh thành trong cả nước và cả ở nước ngoài với một sở giao dịch, 24 chi nhánh cấp I, 16 chi nhánh cấp II, 04 công ty trong đó công ty Tài chính hoạt động tại HongKong, văn phòng đại diện tại Moscow, Paris, Singapor, ngân hàng liên doanh ChoHung-Vina bank. NHNTVN có quan hệ đại lý với trên 1200 ngân hàng và tổ chức tài chính ở 85 nước trên thế giới. Ngay từ những buổi ban đầu NHNT đã tiếp cận với những nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. Ngoài nhiệm vụ cho vay nhằm khai thác các nguồn hàng xuất khẩu, cho vay mở rộng các dịch vụ đối ngoại như vận tải, bảo hiểm, du lịch, cung ứng tàu biển.các nhiệm vụ thanh toán quốc tế, quản lý vốn ngoạ tệ gửi tại ngân hàng nước ngoài, làm đại lí cho chính phủ trong quan hệ thanh toán vay nợ viện trợ với các nước bạn bè đều được tập trung toàn bộ vào NHNT. Chính từ vị thế đặc biệt kể trên, NHNTVN đã sớm là một NHTM duy nhất ở Việt Nam, sách vai với các NH quốc tế ở khắp các châu lục. Bên cạnh đó còn có những công lao đóng góp của đội ngũ cán bộ NHNT trong quá trình xây dựng và phát triển. Quá trình đổi mới của NHNTVN có cả thuận lợi và khó khăn đan xen, song thành công lớn nhất, bao trùm nhất là NHNT đã biết thay đổi tư duy kinh tế, lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm mục tiêu hoạt động. Cơ chế thị trường đặt ra một yêu cầu bức xúc là phải năng động, nhạy bén, sáng tạo mới thích nghi được với môi trường mới. Có thể khẳng định, với bề dày kinh nghiệm hoạt động ngân hàng đối ngoại và sau nhiều bước đi quá độ, đến nay NHNT đã chuyển hẳn sang kinh doanh cơ chế thị trường với một niềm tin vững vàng. Nhờ đó, NHNT đã giữ được vị thế của NHTM được nhà nước tin tuởng, được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Với nhận thức bước vào thế kỷ XXI công nghệ là một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của hoạt động Ngân hàng, NHNT luôn duy trì được thế mạnh là một ngân hàng đi đầu trong lĩnh vực hiện đại hoá công nghệ, đã đầu tư triển khai: mạng lưới thanh toán liên ngân hàng trực tuyến và ngân hàng bán lẻ Silverlake, hệ thống dịch vụ dịch vụ VCB-Online đáp ứng nhu cầu của khách hàng có cơ sở của NHNT, hệ thống giao dịch tự động Connect24 rút tiền tự động đa tiện ích, được khách hàng rất ca ngợi. 2. Kết quả hoạt động kinh doanh một số năm qua Thực hiện chủ trương mở rộng mạng lưới hoạt động của hệ thống NHNTVN và theo yêu cầu khách quan cần phải có ngân hàng phục vụ cho các hoạt động đối ngoại tại địa phương, NHNTVN đã cho ra đời các chi nhánh NHNT tại các nơi như: An Giang, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Thành Phố Hồ Chí Minh Hơn 40 năm xây dựng và trưởng thành của NHNTVN gắn liền với các thời kì cách mạng vẻ vang của đất nước của ngành ngân hàng. Với nhiện vụ đặt ra trong thời đại mới của Đảng của nhà nước, của ngành, NHNT đã sớm tiếp cận, thích nghi với kinh tế thị trường, tăng cường sức cạnh tranh, sẵn sàng hội nhập với bên ngoài. Đối với một ngân hàng vốn là yếu tố quyết định. Đổi mới chính sách huy động vốn và trở thành một trong những ngân hàng Thương Mại Quốc Doanh có nguồn vốn lớn nhất Việt Nam là thành công lớn của NHNT. Điều đó được thể hiện ở các nét chính: Từ những nỗ lực tích cực thực hiện chủ trương chuyển dich từng bước cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng tỷ trọng vốn VND từ dưới 30% trong các năm trước 2000 lên 30% năm 2002, NHNT đã có điều kiện mở rộng đầu tư. Trong 10 năm gần đây nhìn chung nguồn vốn huy động tăng từ 30%- 45% năm. Đến 31/12/2002 tổng nguồn vốn đạt gần 82.000942 tỷ quy VND trong khi năm 1991 chỉ dừng ở mức 13.122 tỷ đồng. Phấn đấu mở rộng đầu tư, góp phần phát triển kinh tế của đất nước. Vốn tín dụng của NHNT đã đến với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế năm sau cao hơn năm trước. Dư nợ Tín dụng cuối năm 1991 đạt 2.017 tỷ đồng thì vào cuối năm 1995 đạt 7.786 tỷ đồng, tăng 396% so với năm 1991. Dư nợ cuối năm 2002 đạt 15.634 tỷ đồng, tăng 775% so với cuối năm 1991. Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng ngoại thương Việt nam Đ ơn v ị: T ỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 +TG dân cư 13.530 12.930 +TG của tổ chức kinh tế 15.766 21.334 Tổng nguồn vốn 29.296 34.264 (Nguồn: Báo cáo phòng tổng hợp) Bước sang năm 2000, sự đổi mới toàn diện đã bước đầu cho kết quả đáng khích lệ Trong hoạt động Kinh doanh của nghành ngân hàng nói chung và NHNT nói riêng. Tỷ lệ dư nợ trung dài hạn tăng từ 31% năm 2001 lên 40% năm 2002, dư nợ khu vực ngoài quốc doanh tăng từ 17% lên 22%. Các chương trình cho vay đều vượt mục tiêu kế hoach đặt ra. Đặc biệt là cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng 85%. Điều hết sức quan trọng là trong khi dư nợ tín dụng tăng nhanh, nợ quá hạn liên tục giảm: năm 1999 là 4%, năm 2001 là 1,89% và đến năm 2002 là 2,41% ( nếu áp dụng theo tiêu chuẩn cũ là 1,51%).Có thể nói trong 3 năm qua, tín dụng NHNT đã có sự “lột xác” toàn diện, từ tư duy đến tổ chức quản lý và cả kết quả. II. Thực trạng công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam 1. Tình hình chung Thanh toán không dùng tiền mặt là một trong những chức năng quan trọng của NHTM. Cùng với sự phát triển của các nghiệp vụ khác, các ngân hàng thương mại luôn quan tâm đến việc đổi mới công nghệ thanh toán để công tác TTKDTM ngày càng được mở rộng, phát triển không chỉ trong các khách hàng vốn có trước đây của các Ngân hàng Thương mại là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế mà có cả các khách hàng là cá nhân (một thị trường tiềm năng rộng lớn của ngân hàng). Ta biết rằng việc cuốn hút các dòng vốn luân chuyển qua hệ thống ngân hàng không chỉ hàm nghĩa khơi thông, đẩy nhanh tốc độ thanh toán trong nền kinh tế mà còn tạo ra nguồn lớn để đầu tư cho tăng trưởng kinh tế, mặt khác lượng TTKDTM trong tổng phương tiện thanh toán càng lớn, lượng tiền mặt trong lưu thông càng ít sẽ tác động trực tiếp đến điều hoà lưu thông tìên tệ góp phần cũng cố sức mua đồng tiền. Trong những năm gần đây, khối lượng TTKDTM đã đươc gia tăng, cụ thể là khối lượng thanh toán của năm 2003 so với năm 2002 tăng nhanh hơn. Để đánh giá được những thành tựu trong công tác thanh toán tại NHNTVN đã đạt được trong thời gian qua ta có thể mô tả tình hình thanh toán của ngân hàng trong năm 2002-2003 qua bảng sau: Bảng 2: Tình hình thanh toán của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam Đ ơn v ị: Tr. đ ồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Doanh số Tỷ trọng % Doanh số Tỷ trọng % TT bằng TM 21.825.948 3% 21.118.279 2% TTKDTM 767.575.360 97.2% 1.113.867.363 97.7% Thanh toán chung 789.401.308 100% 1.160.985.642 100% (Nguồn: Báo cáo phòng tổng hợp) Trong năm 2002 TTKDTM đạt doanh số 767.575.360 triệu đồng chiếm 97.2% trong tổng khối lượng thanh toán chung, còn thanh toán bằng tiền mặt chỉ chiếm 3% với doanh số 21.118.279 triệu đồng. Sang năm 2003 TTKDTM đạt doanh số 1.113.867.363 triệu đồng chiếm 97.7% trong tổng khối lượng thanh toán chung, thanh toán bằng tiền mặt chỉ chiếm 2% trong tổng thanh toán chung với doanh số 21.118.279 triệu đồng. TTKDTM chiếm tỷ trọng cao nên làm cho tâm lý giữ tiền mặt giảm đi đáng kể. Đồng thời một điều kiện dễ nhận thấy là thanh toán bằng tiền mặt sẽ mất rất nhiều thời gian, kiểm đếm, chi phí vận chuyển cao lại không an toàn. Trong tương lai, TTKDTM sẽ phát triển hơn nữa và trở thành phương tiện thanh toán thiết yếu của mọi đối tượng, góp phần làm tăng nhanh vòng vốn của đơn vị, cá nhân. Thông qua việc thực hiện TTKDTM giữa các đơn vị mà ngân hàng kiểm soát được quá trình sử dụng vốn và tình hình tài chính của họ, trên cơ sở đó có quyết định đúng đắn cho công việc đầu tư. 2. Thực trạng công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Dựa vào tình hình thanh toán qua ngân hàng để đánh giá thực trạng thanh toán qua NHNTVN ( Bảng 3). Mặc dù đã áp dụng nhiều phương thức thanh toán, song khách hàng của NHNTVN đã sử dụng 4 hình thức thanh toán chủ yếu, trong đó cơ bản vẫn là: + Hình thức thanh toàn bằng Séc + Hình thức thanh toàn bằng Uỷ nhiệm chi- Chuyển tiền + Hình thức thanh toàn bằng Uỷ nhiệm Thu + Hình thức thanh toàn bằng Thẻ Ngoài ra còn các hình thức khác Điều này được thể hiện như sau: Năm 2002 thanh toán bằng Séc đạt 12.784 món chiếm 1,8% so với tổng số món TTKDTM với doanh số đạt được là 939.508 triệu đồng, chiếm 3,9% trong tổng doanh số TTKDTM. Còn trong năm 2003 thanh toán Séc đạt 11.158 món, chiếm 0,8% tổng số món TTKDTM nhưng chỉ chiếm 0,1% trong tổng doanh số với doanh số đạt được là 653.227 triệu đồng. Với kết quả trên, thực tế cho thấy Séc còn được sử dụng rất ít so với các hình thức thanh toán khác. Để lý giải được điều này ngân hàng cần phải quan tâm đến những ưu điểm và khuyết điểm của loại hình thức thanh toán này và cần có những biện pháp phát huy và tháo gỡ những vấn đề đó. Bảng 3 2.1. Thanh toán bằng Séc Đối với Séc bảo chi là một thể thức TTKDTM nhưng thanh toán bằng séc bảo chi tại NHNTVN được sử dụng với khối lượng nhỏ và thanh toán trong một phạm vi hẹp. Chính vì vậy hình thức thanhtoán này vẫn chưa chiếm được vị trí cao trong toàn bộ hình thức TTKDTM, nó chỉ mới đạt được tỷ lệ từ 0%-1% so với tổng số TTKDM. Trong năm 2002 số món thanh toán đạt 4.049 món, đạt tỷ trọng 0,6% so với tổng số TTKDTM và đạt tỷ trọng 31,7% so với tổng số món thanh toán bằng Séc. Năm 2003 đạt 2.734 món, chiếm 0,2% so với tổng số TTKDTM và đạt tỷ trọng 24,5% so với tổng số món thanh toán bằng Séc. Còn về doanh số thanh oán đạt 613.126 triệu đồng trong năm 2002 chiếm tỷ trọng 0,1% trong tổng doanh số TTKDTM, năm 2003 với con số tương ứng là 352.026 triệu đồng chiếm 0,03% so với tổng doanh số TTKDTM. 2.2. Thanh toán bằng Uỷ nhiệm chi - Chuyển tiền Là một hình thức đơn giản, phạm vi thanh toán rộng được dùng trong thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ và thanh toán khác trong cùng hệ thống hoặc khác hệ thống nhưng có tham gia thanh toán bù trừ nên hình thức này chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng TTKDTM . Uỷ nhiệm chi không hạn chế về số lượng tiền chuyển, thường áp dụng khi hai bên mua bán có tín nhiệm nhau. Hơn nữa khi khách hàng sử dụng hình thức này họ được đảm bảo quyền lợi đặc biệt đối với người mua, vì người mua được kiểm soát hàng hoá về số lượng và chất lượng trước khi trả tiền cho người bán. Chính vì ưu điểm đó mà khách hàng rất ưu chuộng, thực tế đã được chứng minh tạiNHNTVN trong hai năm 2002-2003. Cuối năm 2003 NHNTVN đã thực hiện 862.261 món, đạt doanh số 1.094.342.475 triệu đồng chiếm 96,4% trong tổng số TTKDTM. So với năm 2002 hình thức này đạt tỷ trọng cao hơn, số món đạt được là 562.709, doanh số chỉ đạt 741.316.023 triệu đồng chiếm 96,5%. 2.3. Thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu Uỷ nhiệm thu được áp dụng rộng rãi trong thanh toán, thanh toán cung tỉnh hay khác tỉnh, cùng hệ thống hay khác hệ thống. Việc thanh toán được tiến hành một cách nhanh chóng khi khách hàng nộp giấy uỷ nhiệm thu vào Ngân hàng, trong vòng một ngày làm việc ngân hàng bên mua phải trích tài khoản để trả tiền cho bên bán hoàn tất việc thanh toán. Năm 2002 thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu đạt 8.035 món chiếm tỷ trọng 1,1% tổng số món TTKDTM, nhưng doanh số đạt được chỉ chiếm 0,08% so với tổng doanh số TTKDTM với số tiền là 32.645 triệu đồng. Sang năm 2003 tuy đạt doanh số cao hơn năm 2002 nhưng tỷ trọng vẫn thấp với 8.736 món chiếm 0,6% tổng số món TTKDYM và doanh số là 30.740 triệu đồng chiếm 0,01% tổng doanh số TTKDTM. 2.4. Thanh toán bằng thẻ Đây là hình thức mới được phổ biến ở nước ta gần đây nên đối với khách hàng nó vẫn còn mới mẽ. Trong hai năm qua NHNTVN đã có một bước chuyển biến tích cực trong việc triển khai chương trình cải cách: NHNTVN là ngân hàng đi tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại, và là đơn vị đầu tiên cũng là duy nhất phát hành thẻ tín dụng; Đặc biệt ngân hàng đã cho ra đời hệ thống rút tiền tự động (ATM) đã mang lại tầm vóc mới về công nghệ ngân hàng được áp dụng tại NHNT. Tuy nhiên với tình hình hiện nay, hình thức thanh toán bằng thẻ vẫn chưa thực sự phổ biến và chưa bộc lộ hết những tính năng của nó, mặc dù có kết quả song vẫn chưa cao. Năm 2002 thanh toán bằng thẻ đạt 102.045 món với doanh số là 189.261 triệu đồng chiếm 0,02% so với tổng doanh số TTKDTM. Năm 2003 đạt được 441.202 món tương ứng với 643.909 triệu đồng chiếm 0,09% so với tổng doanh số TTKDTM. Năm 2003 khách hàng sử dụng thanh toán bằng thẻ nhiều hơn năm 2002. Đó là một dấu hiệu tốt để tạo điều kiện cho hình thức thanh toán bằng thẻ phát triển và trong tương lai nó sẽ là một trong những hình thức thanh toán thông dụng nhất. Ngoài ra NHNTVN còn sử dụng một số hình thức thanh toán khác như: Dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế, dịch vụ Ngân hàng điện tửVà tháng 3 năm 1995 Ngân hàng đã áp dụng hệ thống thanh toán viễn thông toàn cầu (SWIFT). Đặc biệt tháng 5 năm 2002 ngân hàng đã khai trương hệ thống Ngân hàng trực tuyến (VCB- Online). Ngày nay có rất nhiều loại thẻ được sử dụng trong thanh toán nhưng đối với NHNT được sử dụng phổ biến 3 loại thẻ: + Thẻ ghi nợ: khi sử dụng thẻ này không phải lưu ký trước số tiền vào một tài khoản nhằm đảm bảo thanh toán cho thẻ mà dư trên số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng và hạn mức thanh toán theo quy định đã được ngân hàng ghi vào bộ nhớ của thẻ nếu là thẻ điện tử, và ghi vào dải băng từ. + Thẻ ký gửi thanh toán: muốn sử dụng được loại thẻ này khách hàng lưu ký tiền mặt vào tài khoản riêng tại ngân hàng và được sử dụng thẻ có giá trị thanh toán bằng đúng số tiền ghi trong thẻ được lưu ký, loại thẻ này được áp dụng rổng rãi cho mọi khách hàng. + Thẻ tín dụng: là công cụ thanh toán không dùng tiền mặt đồng thời là nghiệp vụ tín dụng tuần hoàn, qua đó ngân hàng có thể cấp tín dụng cho khách hàng bởi tính tiện ích của nó. Thẻ tín dụng được mọi đối tượng khách hàng trên toàn cầu tiêu dùng với nhiều loại khác nhau mà không phải lưu ký tiền. Nếu trả đúng hạn đúng số kỳ thì không phải trả lãi, do đó rất phù hợp trong phạm vi lớn. Về phía Ngân hàng : Thu hút ngoại tệ từ khách hàng công tác tại Việt Nam Phần trăm để lại từ các cơ sở bán hàng và tiếp nhận thẻ là nhiều Là loại thẻ không phải ký quỹ, được áp dụng cho những khách hàng được phép vay vốn của Ngân hàng với mức cho vay được coi là hạn mức tín dụng đã được ghi vào bộ nhớ của thẻ Người sử dụng thẻ có thể dùng thẻ để rút tiền mặt tại các quầy trả tiền tự động hay các Ngân hàng đại lý thanh toán. Mỗi lần rút tiền không quá 5 Triệu đồng, mỗi ngày thẻ được rút một lần. Nếu mất thẻ người sử dụng phải thông báo ngay bằng văn bản để Ngân hàng biết. Ngân hàng phát hành thẻ có trách nhiệm thanh toán ngay số tiền trên biên lai do ngân hàng đại lý chuyển đến. Trong phạm vi 10 ngày kể từ ngày viết hoá đơn cung ứng dịch vụ thanh toán. Người tiếp nhận thanh toán

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH393.doc
Tài liệu liên quan