Đề tài Thực trạng của lãi suất trên con đường tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

A- Lý luận chung về lãi suất 2

I- Khái niệm và vai trò của lãi suất: 2

1. Khái niệm: 2

2. Vai trò của lãi suất: 2

II- Đo lường lãi suất: 3

1. Lãi suất đơn: 3

2. Lãi suất tích họp: 3

3. Lãi suất hoàn vốn 4

III - Các lãi suất cơ bản của ngân hàng 4

1. Lãi suất tiền gửi. 4

2. Lãi suất cho vay. 4

3. Lãi suất của thị trường liên ngân hàng. 5

IV- Rủi ro và lãi suất. 5

V- Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất. 6

1. Ảnh hưởng cung - cầu của quỹ cho vay. 6

2. Tỷ xuất lợi nhuận bình quân trong nền kinh tế. 7

3. Ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng 7

4- Ảnh hưởng của bội chi ngân sách 7

5- Thị trường tài chính quốc tế. 7

VI- Các cách quản lý lãi suất 8

1. Cố định lãi suất.(lãi suất kiềm chế) 8

2. Lãi suất tự do hoá. 9

VII- Tự do hoá lãi suất, xu thế tất yếu của quá trình phát triển kinh tế thị trường. 9

 

B - Thực trạng của lãi suất trên con đường tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam. 12

I-Khái quát về việc chuyển đổi nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Việt Nam: 12

II- Quá trình nới lỏng việc điều chỉnh lãi suất ở Việt Nam 13

1. Giai đoạn lãi suất ngắn hạn được ấn định cao hơn lãi suất dài hạn 14

2. Lãi suất tín dụng dài hạn cao hơn lãi suất tín dụng ngắn hạn - sự đổi mới phù hợp với quy luật . 16

3. Năm 2000, bước thay đổi cơ bản trong cơ chế điều hành lãi suất. 20

III- Lãi suất cơ bản, bàn đạp của quá trình tự do hoá lãi suất. 21

1. Nền tảng thị trường đã được đưa vào cơ chế xác định lãi suất cơ bản. 22

2. Lãi suất cơ bản tạo ra môi trường cho việc ấn định lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng được mở rộng. 23

3- Lãi suất cơ bản chính thức liên hệ lãi suất USD trong nước và lãi suất USD trên thị trường quốc tế thông qua lãi suất USD trên thị trường Singapore. 24

IV- Những đổi mới trong NHVN góp phần đưa lãi suất tới tự do hoá hoàn toàn. 24

C - Những giải pháp cơ bản để thúc đẩy tình hình tự do hoá lãi suất. 26

I- Tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và khá vững chắc. 26

II- Xây dựng hành lang pháp lý tương đối đồng bộ và hoàn chỉnh 27

III- Hệ thống ngân hàng ổn định hoạt động hữu hiệu 27

 

Kết luận 29

Tài liệu tham khảo 30

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1290 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng của lãi suất trên con đường tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong hoạt động kinh tế -xã hội. Đó là vấn đề mở cửa thông thương đối với các quốc gia trên thế giới, dần đần tháo dỡ những rào chắn ngăn cách của từng quốc gia đối với phàn còn lại của thế giới. Cung với sự phát triển của toàn cầu hoá, tự do hoá tài chính cũng dần được hình thành và đang lá mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tự do hoá lãi suất lại là một bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính. Do đó, mục tiêu tiến tới mức lãi suất thị trường được Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng trong định hường phát triển kinh tế. Tự do hoá lãi suất là việc mang lại cho các định chế tài chính quyền tự do quyết định các mức lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay, tự do ấn định các mức phí đối với hoạt động dịch vụ tài chính. Thực chất đó là việc chấm dứt các quy định về mức trần lãi suất và giới hạn giao động chi phí giao dịch. Tự do hoá lãi suất sẽ góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Lãi suất biến động và phản ảnh chân thực cung - cầu về vốn trên thị trường cùng với xu hướng biến động lãi suất quốc tế kích hoạt các nguồn vốn tiềm năng trong nước khơi thông các kênh chuyển vốn từ nước ngoài vào thị trường Việt Nam, tạo điều khiện phân bổ các nguồn vốn có hiệu quả nhất, góp phần xây dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh. Từ đó khuyến kích các doanh nghịêp tăng cường đầu tư và phát triển, đẩy mạnh việc tăng thu nhập quốc dân và nâng cao đời sống của nhân dân. Mặt khác, nó cũng tạo điều kiện cho các NHTM và các tập đoàn kinh tế trong nước có cơ hội đầu tư ra nước ngoài. Bên cạnh tự do hoá lãi suất tạo điều kiện hoàn thiện hệ thống tài chính quốc gia, xay dựng nền tài chính vững mạnh, nó buộc các ngân hàng phải thay đổi cách làm việc, tư duy,đặc biệt là đổi mới công cụ điều hành chính sách tiền tệ, chủ yếu là dựa vào công cụ gián tiếp khống chế lãi suất co bản, giúp chi việc kiểm soát việc phân bổ nguồn vốn một cách hiệu quả,nó giúp các tổ chức tài chính chủ động trong kinh doanh, góp phần phát triển các loại hình dịch vụ tài chính,nâng cao hiệu quả hoạt động tăng cường sức mạnh của hệ thống ngân hàng. Từ đó giúp cán bộ ngân hàng có điều kiện học hỏi khinh nghiệm hoàn thiên trình độ chuyên môn, quản lý... thái độ với khách hàng... đáp ứng đầy đủ yêu cầu của nền kinh tế thị trường.Đồng thời tạo điều khiện hoàn thiện và nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật tài chính tiền tệ, đảm bảo an toàn và thành công cho quá trình hội nhập tài chính quốc tế. Tuy nhiên, tự do hoá lãi suất cũng đặt ra những cơ hội và thách thức mới làm xói mòn và giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ bằng các công cụ trực tiếp. Do đó, nguy cơ xảy ra các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ quy mô lớn,gây ảnh hưởng nghiêm trọng trên diện rộng, ó thường rất khó kiểm soát, tháo gỡ và để lại hậu quả trong thời gian rất dài. Không những thế, hệ thống tài chính nói riêng và hệ thống kinh tế quốc gianói chung chụi sự chi phối khá lớn bởi các yếu tố bên ngoài, vì vậy mà thường phải chịu những ảnh hưởng mang tính chất dây chuyền giữa các quốc gia mà hậu quả của nó rất khó khác phục. Chấp nhận mở cửa là chấp nhận cơ chế cạnh tranh khốc liệt “một mất một còn “ giữa các công ty tài chính trong nước và nước ngoài làm một số ngân hàng đi đến đóng cửa, phá sản... gây áp lực cho nền kinh tế. Đồng thời nó cũng đặt ra những thách thức lớn cho công tác chỉ đạo, quản lý và giám sát nền tài chính quốc gia. Như vậy, sự toàn cầu hoá hội nhập kinh tế, việc tự do hoá lãi suất đã và đang tạo nên mối quan hệ mới giữa các quốc gia, giữa các nền kinh tế và giữa các dân tộc trên thế giới. Nó tăng cường mối quan hệ giữa con người với con người vượt ra phạm vi một quốc gia trên thế giới trên nhiều lĩnh vực. Nhưng mặt khác nó cũng phá vỡ các quan hệ kinh tế -xã hội truyền thống. Vì vậy, có thể thấy rằng,một mặt tự do hoá kinh tế tạo ra độnh lực để phát triển nhưng cũng có thể tạo ra những mất ổn định, gia tăng khoảng cách giàu nghèo... Tuy nhiên từ những phân tích trên ta thấy, vấn đề tự do hoá lãi suất trong nền kinh tế thị trường là một yêu cầu cấp thiết, đặc biệt là đối với những nước đang trong công cuộc CNH - HĐH. Nhưng để ước đi một cách vững chắc trong tương lai chúng ta cần phải hoàn thiện cơ sở hạ tầng và kién trúc thượng tầng trong nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng tạo cơ sở vững chắc cho quá trình phát triển. B - Thực trạng của lãi suất TRÊN CON ĐƯờng tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam. I- khái quát về việc chuyển đổi nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Việt Nam: Từ sau Đại hội VI của Đảng, nước ta thực hiện đôỉo mới nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Sau hơn 15 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng góp phần đẩy mạnh sự phát triển của nước nhà. Từ một nền kinh tế chỉ có hai thành phần là tập thể và quốc doanh, chúng ta đã xây dựng nên một hệ thống kinh tế nhiều thành phần có sự tham gia của tư nhân và các tổ chức nước ngoài. Hoạt động trên thị trường một cách sôi động, từng bước bắt nhịp với xu thế phát triển của các vước trong khu vực cũng như trên thế giới. Chúng ta từ một nước nhập khẩu gạo giờ đây đã vươn lên hang thứ ba các nước xuất khẩu gạo trên thế giới (sau Mỹ và Thái Lan). Một nước với nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế. Chúng ta không chỉ thoát khỏi tình trạng siêu lạm phát mà những năm gần đây, tỷ lệ tăng trưởng nền kinh tế tăng lên trê dưới 7%/ năm. Bên cạnh đó cũng đã tránh được ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, đặc biệt là ở Châu á năm 1997. Không những thế, Việt Nam đã mở cửa hội nhập với tất cả các nước trên thế giới trong quan hệ thương mại dôi bên cùng có lợi. Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế có uy tín trên thế giới như ASIAN, APEC... và sắp tới đề nghị được tham gia vaò WTO,AFTA. Đặc biệt mới đây, chúng ta đã ký hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ - bước phát triển mới quan trọng trong quan hệ hai nước. Từng bước tiến hanhg tự do hoá kinh tế theo xu hướng hội nhập quốc tế của thế giới hiện nay. Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế, hệ thồng ngân hàng cũng từng bước được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu của sự phát triển ngân hàng Việt Nam từ một cấp chuyển lên hoạt động hai cấp đáp ứng được nhu cầu của người dân cũng như sự đổi mới của nền kinh tế. Để đồng bộ với nền kinh tế thị trường,Việt Nam đã mở cửa lĩnh vực ngân hàng: Cho phép các ngân hàng nước ngoài được phép mở chi nhánh tại Việt Nam, hay thành lập liên doanh với ngân hàng Việt Nam. Cụ thể, Chính phủ đã ban hành quy chế về hoạt động ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh tại Việt Nam (15/6/1991). Đây là văn bản pháp lý đầu tiên thể hiện sự mở cửa,hội nhập quốc tế trong lĩnh vực này. Hện nay Việt Nam có 4 ngân hàng liên doanh, 26 chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhưng hoạt động với thị phần còn khá khiêm tốn chiếm khoảng 20% trong nước. Tiếp dó vào năm 1997, hai luật ngân hàng đã được thông qua thay cho hai pháp lệnh ngân hàng năm 1990. Không chỉ thay đổi về mặt pháp lý, mà hệ thống ngân hàng còn đang thay đổi cả về cơ cấu tổ chức các ngân hàng, đang dần dần chuyển dịch hệ thống NHTM sang các ngân hàng cổ phần. Đồng thời không ngừng đa dạng hoá các loại mặt hàng, dịch vụ trên thị trường tiền tệ tạo sức cạnh tranh đối với các ngân hàng nước ngoài, làm cơ sở cho quá trình tự do hoá tài chính cũng như hệ thống ngân hàng sau này, và hiện nay. NHNN đang từng bước tiến tới việc thực hiện tự do hoá tài chính thông qua việc tự do hoá lãi suất hoàn toàn nhằm đảm bảo cho các NHTM hoạt động kinh doanh chủ động và có hiêu quả hơn. Nhưng năm gần đay, NHNN Việt Nam dần dần điều chỉnh hệ thống lãi suất cơ bản và đầu năm 2001 thì đã thực hiện tự do hoá lãi suất ngoại tệ dựa trên mức cung - cầu trên thị trường. Với những chuyển biến tích cực trong nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng tạo bước đà cho sự phát triển kinh tế và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Để thấy rõ được snỗ lực của Việt Nam - một nước lạc hậu trên con đường phát triển chúng ta hãy xem xét yếu tố “nóng bỏng” hiện nay được mọi người quan tâm đó là quá trình tự do hoá lãi suất ở nước ta II- Quá trình nới lỏng việc điều chỉnh lãi suất ở Việt Nam Sự ra đời của lý thuyết tự do hoá tài chính mà một trong những nội dung cơ bản là tự do hoá lãi suất đã tạo re trào lưu tự do hoá lãi suất trên thế giới. Bên cạnh một số những nước thực hiện đã thành công như Đài loan, Xingapo lại có hàng loạt nước rơi vào khủng hoảng như Philippin, Chilê, Achentina...Tuy nhiên tự do hoá lãi suất vẫn là mục tiêu cần đật tới không chỉ vì những ưu điểm lý thuyêts của nó mà còn là tính hiệu quả của nền kinh tế thị trường phát triển. Vấn đề quan trọnh là ở chỗ tự do hoá lãi suất nên diễn ra như thế nào dể những ảnh hưởng tiêu cực của nó được hạn chế. Có thể nói một trong những vấn đề co bản của tự do hoá lãi suất chính là trình tự các bước đi. Trình tự này không chỉ giới hạn trong phạm vi lãi suất mà còn nằm trong mối quan hệ với công cuộc CNH-HĐH nền kinh tế, tự do hoá thương mại... Nằm tronh bối cảnh đó, việc nới lỏng cơ chế điều tiết lãi suất của ngân hàng Việt Nam trong những năm gần đây là một vấn đè đúng đắn và phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay, thay vì việc thực hiện bước nhảy vọt ngay lên cơ chế tự do hoá lãi suất. Chúng ta hay cùng điểm lại những thay đổi đó. 1. Giai đoạn lãi suất ngắn hạn được ấn định cao hơn lãi suất dài hạn 1.1. Năm 1989. Trước năm 1989, NHNN thực hiện một cơ chế kiểm soát lãi suất cho vay và tiền gửi một cách phức tạp, cứng nhắc theo trong kiểu hành chính. Đồng thời trong giai đoạn này do nền kinh tế bị lạm phát phi mã nên lãi suất luôn ở tình trạng õm tuy đã có những điều chỉnh nhất định. Do đó, khả năng huy đọng vốn đi đoi với yêu cầu rút bớt tiền lưu thông giải toả áp lực của tiền đối với giá cả hàng hoá bị hạn chế nhiều. Bên cạnh đó Nhà nước phải bao cấp cho các xí nghiệp qua hệ thống tín dụng với lãi suất thấp. Trước tình hình đó, để thu hút tiền thừa trong lưu thông, kiềm chế lạm phát, tránh bao cấp qua lãi suất, NHNN đã nâng lãi suất huy động lên một mức rất cao trong thời gian ngắn: Lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn 9%/ tháng ->108%/ năm Lãi suất tiết kiệm 3 tháng 12%/tháng-> 144%/năm Nhờ vậy đã gây được niềm tin của quần chúng nhân dân vào giá trị ổn định của đồng tiền.Trước đây, giá trị đồng tiền luôn bị giảm sút: dân chúng càng gửi nhiều vào quỹ tiết kiệm với thời gian càng dài càng bị thua thiệt, do đó xố lượng tiền gửi tiêt kiệm trong các ngân hàng càng ít. Nhưng với chính sách lãi suất mới họ càng gửi nhiều tiền vào ngân hàng. Không nhưng giá trị số tiền gửi đó được bảo toàn mà còn tăng thêm vì mức lãi suất cao hơn lạm phát. Do đó mà chưa bao giờ người Việt Nam xếp hàng ở các quỹ tiết kiệm đông đảo như trong năm 1989. Nhờ vậy thu hút được một khối lượng tiền lớn trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng, giảm áp lực lạm phát.Từ đó xoá bỏ được bao cấp lãi suất qua ngân hàng chuyển ngân hàng sang hoạt động thực sự, xử lý hài hoà lợi ích người gửi tiền, người vay vốn và tổ chức tín dụng. 1.2. Năm 1990. Cơ chế lãi suất trần tín dụng và tiền gửi đã được áp dụng, nhưng vẫn phân biệt theo kỳ hạn và loại hình khách hàng. Tuy dã dược điều chỉnh, nhưng hoạt độnh tín dụng ngân hàng vẫn nằm trong vòng kiềm chế bởi cơ chế lãi suất vẫn còn phức tạp, mang tinhds hành chính cứng nhắc. 1.3. Kể từ năm 1993. NHNN đã xoá bỏ hẳn hình thức lãi suất theo ngành, chỉ quy định, mức trần, sàn lãi suất theo kỳ hạn giao dịch. Cũng như thời gian này cơ chế lãi suất thoả thuận đã được áp dụng thí điểm đói với nguồn vốn hình thành do phát hành kỳ phiếu trái phiếu. Mức trần lãi suất: - Cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước 1,8%/ tháng - Kinh tế ngoài quốc doanh 2,1%/ tháng. Lãi suất thoả thuận: Trong trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kỳ phiếu với mức lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận: lãi suất huy động có thẻ cao hơn mức lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn là 0,2% /tháng và cho vay cao hơn với mức trần 2,1%/tháng. Tuy nhiên, trên thực tế, khoảng 30-60 % tổng dư nợ là từ các khoản cho vay băng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay doanh nhiệp ngoài quốc doanh và hỗ trợ nông dân với lãi suất phổ bíên 2,3%-3,5%/tháng.Với cơ chế lãi suất thoả thuận có thể hiểu là tự do hoá một phần lãi suất hay đó là cơ chế cho vay lãi suất “cứng” đi đôi với biên dộ dao động nhất định. Đồng thời, trong lãi suất thoả thuận mức chênh lệch giữa các khoản tiền gửi và trần lãi suất khoảng từ 0,7- 1% /tháng đã làm cho các ngân hàng thương mại có lợi nhuận quá cao, trong khi doanh nghiệp và nông dân gạp nhiều khó khăn. Từ thực tế này, Quốc hội khoá IX đã yêu cầu các ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động và khống chế mức chênh lệch lãi suất huy động và cho vay bình quân là 0,35%/ tháng.Đây là lý do để cho ra đời chế độ lãi suất trần hoàn toàn và bỏ lãi suất cho vay thoả thuận tù ngày 1/1/1996. 2. Lãi suất tín dụng dài hạn cao hơn lãi suất tín dụng ngắn hạn - sự đổi mới phù hợp với quy luật . 2.1. Từ 1/1/1996. - NHNN thực thi chính sách trần lãi suất tín dụng và quản lý chênh lệch gữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra (bỏ việc điều tiết trực tiếp lãi suất tiền gửi ).Cùng vào thời kỳ anỳ, chế độ thuế daonh thu đánh vào hoạt độngtín dụngbị xoá bỏ, chi phí trung gian tài chính được điều chỉnh giảm mạnh, nên trần lãi suất tín dụng cũng dược diều chỉnh giảm mạnh. Do địa bàn hoạt động và quy mô khác nhau, nhu cầu vấn khác nhau,chi phí hoạt độngkhác nhau, nên NHNN đã quy định trần lãi suất có phân biệt để đảm bảo sự công bằng: - Trần lãi suất cho vay ngắn hạn: Là mức lãi suất thấp nhất áp dụng cho khu vực thành thị. - Trần lãi suất cho ay trung hạn và dài hạn :Cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn một ít thời gian để có thể gặp rủi ro. - Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn: Cao hơn trần lãi suất ngắn hạn, trung hạn và dài hạn do điều kiện hoạt động trên đia bàn nông thôn khó khăn hơn thành thị. - Trần lãi suất cho vay của các quỹ tín dụng đối với các thành viên: Là trần lãi suất cho vay cao nhất do quỹ tín dụng đối mới lập thí điểm,quy mô nhỏ, chi phí hoạt động cao.Cụ thể: Từ mức trần 1,75%/tháng cho khu vực thành thị 2%/tháng cho khu vực nông thôn Từ mức trần đẫ áp dụng thống nhất cho cả hai khu vực thành thị và nông thônlà: 1,2%/tháng đối với vay ngắn hạn. 2,5% tháng đối với vay trung hạn và dài hạn. Đây là lần đầu tiên, các tổ chức tín dụng được tự di ấn định lãi suất khinh doanh tức là tự do hoá lãi suất tiền gửi và cho vay trong phạm vi trần do ngân hàng Nhà nước công bố, chấm dứt thời kỳ NHNN quyđịnh các mức lãi suất cụ thể và xoá bỏ lãi suất cho vay thoả thuận. Do đó, chính lãi suất đã kích thích hoạt động tín dụng, buộc các NHTM chuyển hướng hoạt động đa năng, đổi mới cung cách phục vụ, mở mang thêm các loại hình dịch vụ tín dụng góp phần đa dạng hoá tong kinh doanh tiền tệ trong cơ chế thị trường.Nó đã tạo ra các cơ hội giảm chi phí một cách bình đẳng với mọi doanh nghiệp tăng thêm động lực cho guồng máy kinh tế, tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm góp phần thực hiện CNH-HĐH đất nước. Việc quy định mức chênh lệchl tuy đã kiềm chế được lợi nhuận tối đa, bảo vệ lơi ích người đi vay, song đã tạo ra áp đặt chủ quan lên trên quy luật thị trường. Do đó quy định này còn mang đậm dấu ấn của cơ chế quản lý tập trung quuan liêu bao cấp. Trong thực tế, việc giảm chi phí của các tổ chức tín dụng thông qua gới hạn chênh lệch lãi suất chưa thực sự phát huy hiệu quả như mong muốn.Việc quy định này làm giảm lợi nhuận của các tổ chức tín dụng do đó làm giảm nộp ngân sách, đồng thời thu nhập của cán bộ công nhân viên trong ngành ngân hàng giảm.Đồng thời các tổ chức tín dụng bắt buộc phải giảm chi phí,gây ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ khách hàng, nếu không sẽ phá sản, hay có nguy cơ phá sản, chắc chắn sẽ gây ra những sáo động, nảy sinh những vấn đề có thể vượt ra ngoài phạm vi kinh tế. Không những thế,việc kiểm tra, kiểm soát thực hiện thi hành các quy định của chính sách lãi suất nói trên còn hạn chế, do đó việc phát huy đầy đủ vai trò của chính sách lãi suất trên phương diện thực tế là rất khó khăn 2.2. Từ ngày 21/1/1998, NHNN đã quyết định bỏ mức chênh lệch lãi suất 0,35% đồng thời thu hẹp sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, quy định các mức lãi suất mới và không quy định mức tiền gửi NHNN chỉ quản lý duy nất trần lãi suất tín dụng: Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2%/ tháng. Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn 1,25%/tháng. Trần lãi suất tín dụng cho vay thành viên 1,5%/tháng. Với cách điêu hành trần lãi suất, các tổ chức tín dụng được tự do ấn định các mức lãi suất cho vay và tiền gửi một cách cụ thể, linh hoạt, phù hợp với các đặc điểm hoạt động, tình hình về cung cầu vốn, chính sách khách hàng và cạnh tranh của từng tổ chức tín dụng và phù hợp với đặc điểm chi phí hoạt động ngân hàng giữa các vùng khác nhau. Qua đó khuyến khích các tổ chức tín dụng trong việc cạnh tranh lành mạnh và phát triển vai trò tự chủ trong kinh doanh tiền tệ, chủ động trong điêu hoà cung cầu vốn bằng công cụ lãi suất linh hoạt nhạy bén theo cơ chế thị trường. Đồng thới bảo vệ lợi ích của người vay, tạo mặt băng phân phối lợi nhuân gữa các thành phần kinh tế với tổ chức tín dụng và người gửi tiền đảm bảo được vai trò quản lý Nhà nước của NHNN về lãi suất và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách lãi suất. Nhưng với chính sách lãi suất này, một số tổ chức tín dụng có xu hướng cho vay sát trần lãi suất để đạt được mức lợi nhuận tối đa, không phân biệt các mức lãi suất khác nhau giữa các vùng có điều kiện khó khăn và thuận lợi với cung cầu về vốn khác nhau. Cùng với mức chênh lệch 0,005% giữa các khoản cho vay ngắn hạn và dài hạn không đủ để bù đắp những rủi ro trong việc cho vay trung và dài hạn vì thế nó không tạo được động lực để khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng cho vay trung và dài hạn tuy đã tự do hoá một phần nhưng cơ chế quản lý này vẫn còn mang dáng dấp quản lý hành chính đối với công cụ vô cùng nhạy bén và mang đậm tính thị trường –lãi suất. 2.3. Năm 1999 NHNN tiếp tục thực hiện việc quản lý và điều hành chính sách lãi suất tín dụng theo cơ chế lãi suất trần và lãi suất tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng.Trong khuôn khổ lãi suất cho vay, tổ chức tín dụng được phép quy định các mức lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi cụ thể trong từng giai đoạn nhằm mở rộng tín dụng, góp phần quan trọng vào việc kích thích tăng trưởng kinh tế Trần lãi suất trong năm 1999 được NHNN điều chỉnh liên tục phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung cầu tín dụng tại từng thời điể và góp phần thực hiện giả pháp kích cầu về đầu tư của chính phủ thông qua cơ chế nới lỏng lãi suất tín dụng, cụ thể như sau: Tháng 2/1999: lãi suất cho vay bằng đồng VNĐ của các NHTHQD đối với khách hàng ở khu vực thành thị:1,2-1,25%/tháng xuống 1,1-1,15%/tháng. Các tổ chức tín dụng khác vẫn thực hiện mức trần lãi suất 1,2%/tháng đối với cho vay ngắn hạn 1,25%/tháng đối với vay trung hạn và dài hạn. Riêng QUá TRìNHĐN cơ sở cho vay thành viên 1,5%/tháng. Tháng 6/1999: Do nền kinh tế có dấu hiệu thiểu phát,tăng trưởng kinh tế chậm lại, NHNN quyết địng đièu chỉnh giảm trần lãi suất cho vay bằng VNĐ tè 1,2-1,25%/tháng xuống 1,15%/tháng áp dụng cho tất cả các tổ chức tín dụng trên địa bàn thành thị và nông thôn. Như vậy,với quy địng này NHNN đã thống nhất mặt bằng lãi suất cho vay trên cả nước góp phần tăng cường hoật động kinh doanh,đặc biẹt tạo điều kiện cho nông thôn và nông nghiệp phát triển.Đồng thời giúp các tổ chức tín dụng tránh được những rủi ro, dẫn đến chi phí ngân hàng cao, không tạo động lực khuyến kích các tổ chức tín dụng phát triển. Tháng 8/1999:Lạm phát bẩy tháng đầu năm ở mức thấp, từ tháng hai đến tháng hai đến tháng bẩy liên tục giảm lạm phát dẫn đến cung vượt cầu về mức tín dụng NHNN liên tục điều chỉnh giảm tràn lãi suất cho vay VNĐ từ 1,15%/tháng xuống còn 1,05%/tháng. Tháng 9/1999 lãi suất cho vay VNĐ tiếp tục giảm:NHTMQD cho vay đối với khách hàng ở khu vực thành thị từ 1,05%/tháng xuống 0,95%/tháng, giảm lãi suất cho vay của ngân hàng phục vụ người nghèo đối với hộ nghèo từ 0,8%/thán xuống còn 07%/tháng. Tháng 10/1999: NHNN một lần nữa điều chỉnh giảm 0,2% trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Vậy năm 1999,lãi suất đã giảm xuống 0,35%-0,9% so với đầu năm đang ở mức thấp trong vòng mười năm gần đây với các mức trần lãi suất như sau: Cho vay khu vực thành thị: 0,85%/tháng. Cho vay khu vực nông thôn:1%/tháng. Ngân hàng cổ phần nông thôn cho vay:1,15%/tháng. Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở cho vay thành viên 1,5%/tháng. Trần lãi suất cho vay USD là 7,5 %/năm, lãi suất tiền gửi tối đa bằng.USD đối với pháp nhân tại TCTD được khống chế ở mức: Không kỳ hạn: 0,5 %/tháng. Kỳ hạn đến sáu tháng 2,5%/năm. Kỳ hạn trên sáu tháng 3,0% /năm. Lãi suất tái cấp vốn của NHNN đối với các tổ chức tín dụng là 0,5%/thàng,lãi suất tái cấp vốn của NHNN đối với ngân hàng phục vụ người nghèo là 0,2%/ tháng 3. Năm 2000, bước thay đổi cơ bản trong cơ chế điều hành lãi suất. Nếu diễn biến lãi suất trong năm 1999 có xu hướng giảm dần nguồn vốn ứ động thì quan hệ lãi suất cung cầu vốn trong năm 2000 hướng có phần khác.lãi suất VNĐ tiếp tục giảm trong khoảng 2/3 thời gian năm 2000 và tăng trở lại vào những tháng cuối năm,vốn ứ động được giải toả xướng. Cụ thể như sau: Trong 2/3 thời gian đầu năm 2000. Lãi suất huy động VNĐ: Kỳ hạn là 12 tháng 0,5%/tháng Không kỳ hạn của tổ chức kinh tế là 0,1%-0,15%/tháng Lãi suất huy động USD:Trong quý II: Của các NHTMQD ở mức 5,5%,các NHTMCP trong khoảng 5,5-5,7%/năm. Trong quý ba: Kỳ hạn 3tháng: 4,8%/năm. Kỳ hạn 6 tháng:5,3%-5,5%/năm Kỳ hạn 9 tháng 5,5%-5,7%/năm Kỳ hạn 12 tháng 5,7%-5,8%/năm. Trong những tháng cuối năm: Lãi suất cho bay ưu đãi đối với khách hàng lớn: từ 0,6%-0,625/tháng được đẩy lên 0,65%-0,68%/tháng. Mức lãi suất cho vay trung bình từ 0,68%$-0.7%/tháng lên 0,73%-0,75%/tháng. Đối với USD lãi suất cho vay trung bình 6,5%/năm. Tuy nhiên, điểm nổi bật trong năm 2000 là vào ngày 4 tháng 8 thống đốic NHNN đã công bố quyết định thay đổi cân băngf cơ chế điều hành lãi suất từ việc điều hành lãi suất theo quy định hành chính (lãi suất sàn –trần)sang điều hành theo lãi suất cơ bản. Đối với lãi suất cho vay bằng VNĐ:được thống đốc NHNN quy định hàng tháng. Các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản do NHNNcông bố theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá mức lãi suất cơ bản cộng biên độ giao động nhất định đối với USD, lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng được xác định căn cứ vào lãi suất USD trên thị trường tiền tệ ngân hàng Singapore (SIBOR) và cũng được phép giao động với một biên độ nhất định. Với việc quyđịnh lãi suất của NHNNViệt Nam vừa đáp ứng được nhu cầu về vốn cho sự phát triển củ nền kinh tế, vừa có tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các tổ chức tín dụng. Đồng thời nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng phát huy được tính tự chủ, năng động, sáng tạo trong kinh doanh, phù hợp với cơ chế thị trường, chống được việc bao cấp tín dụng qua lãi suất theo thông lệ quốc tế. Bên cạnhđó,nó cũng là bước đệm quan trọng cho việc tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá về kinh tế. III- Lãi suất cơ bản, bàn đạp của quá trình tự do hoá lãi suất. Nền kinh tế Việt Nam những năm gần đây tuy đã từng bước phát triển nhưng vẫn chưa thoát khỏi suy thoái và áp lực lạm phát gia tăng cũng luôn tiềm ẩn. Bên cạnh đó, các cơ chế chính sách điều tiết nền kinh tế cũng thường xuyên thay đổi; hiệu quả kinh tế chưa cao; bộ máy quản lý còn nhiều khâu trung gian, bất hợp lý. Bên cạnh đó hệ thống pháp luật của Vệt Nam hiện nay không những chưa hoàn thiện mà hiêu lực còn rất thấp, cơ cở hạ tầng thông tin còn quá yếu. Không những thế hệ thống tài chính không thể duy trì sự ổn định lâu dài. Trình đội chuyên môn và tiềm lực tài chính của khu vực tổ chức tín dụng còn rất thấp.Do đó, sức chịu đựng, khả năng phản ứngd của hệ thống ngân hàng VIệt Nam với các cú sốc có thể có do tự do hoá tài chính, tự do hoá hoàn toàn lãi suất gây ra là thấp...Với những tồn tại trên đây, tự do hoá hoàn toàn lãi suất đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay là không khả thi.Khả năng chống đỡ của khu vực sản xuất hiện nay đối với việc tăng lãi suất thực rất thấp, tính thụ động của hệ thống ngân hàng đối với môi trương kinh tế còn ở mức cao. Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy rằng cơ chế trần lãi suất cũng tạo ra không ít những bất cập, gây ra những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế. Chức năng chu chuyển vốn trong nền kinh tế bị bóp méo khi các tổ chức tín dụng ngừng huy động nguồn vốn có kỳ hạn trên thị trường do trông đợi việc giảm lãi suất tiếp theo của NHNN khách hàng cũng trong tâm trạng nửa vời vì hy vọng lãi suất sẽ tiếp tục giảm không lâu nữa. Chính vì vậy,phải có một cơ chế lãi suất nằm giữa hai trạng thái này, tăng cường hơn nữa tính chủ động cho các tổ chức tín dụng, song vẫn đảm bảo khả năng điều tiết của NHNN. Đó chính là cơ chế điều hành theo mức lãi suất cơ bản, với nội dung chủ yếu sau đây: Đối với lãi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35132.doc
Tài liệu liên quan