Đề tài Thực trạng đầu tư phát triển và tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam hiện nay

 

Lời mở đầu 1

Chương I: Đặc điểm của đầu tư phát triển và yêu cầu quán triệt các đặc điểm này trong công tác thực hiện đầu tư 2

I.Khái niệm và đặc điểm của đầu tư phát triển. 2

1. Đầu tư và phát triển 2

2. Đặc điểm của ĐTPT 6

II. Sự quán triệt những đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư 9

1. Sự quán triệt đặc điểm thứ nhất: Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư thường rất lớn 9

2. Sự quán triệt đặc điểm thứ hai: Thời kỳ đầu tư kéo dài 11

3. Sự quán triệt đặc điểm thứ ba: Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài 12

4. Sự quán triệt đặc điểm thứ tư: 13

5. Sự quán triệt đặc điểm thứ năm: Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao 13

Chương II.Thực trạng đầu tư phát triển và tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam hiện nay 15

1.Thực trạng huy động và sử dụng các nguồn lực 15

1.1.Huy động và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển 15

1.2 Huy động nguồn nhân lực cho hoạt động đầu tư phát triển 20

2. Thực trạng thực hiện đấu tư 23

3. Thực trạng về rủi ro trong đầu tư phát triển 24

II. Tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam hiện nay. 26

1.1,Công tác quản lý đầu tư ở cấp độ vĩ mô. 26

1.2, Tình hình quản lý đầu tư phát triển ở cấp độ vi mô 29

2.Ưu điểm và hạn chế trong việc quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam. 31

2.1.Ưu điểm 31

2.2.Những hạn chế 33

Chương III. Giải pháp nâng cao hiệu quả của việc quán triệt đặc điểm đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam hiện nay 43

I. Các giải pháp được đưa ra với mục đích gì ? 43

II. Nội dung các giải pháp. 43

1. Cải tiến chất lượng quy hoạch. 43

2. Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho phát triển. 44

3. Tăng cường công tác giám sát đầu tư 46

4. Triển khai công tác quản lý về đấu thầu 47

5. Nâng cao năng lực khoa học công nghệ và nguồn nhân lực 48

6. Tăng cường , đổi mới công tác quản lý hoạt động xây dựng 51

7. Một số giải pháp khác 53

TÀI LIỆU THAM KHẢO 54

 

 

doc56 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 3932 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đầu tư phát triển và tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộ kỹ thuật - công nhân lành nghề ở Malaysia là 1 - 4 - 10, thì ở VN do chưa có một thị trường lao động thực thụ tỷ lệ này là 1 - 1 - 3. Điều này dẫn đến hệ luỵ là chi phí lương trong một số ngành công nghiệp sẽ bị đội lên cao một cách bất hợp lý. Vì vậy, các DN VN trước mắt vừa phải quan tâm đến việc đào tạo và gắn kết các lao động trẻ có năng lực, lại vừa phải tìm cách giữ chân họ khi họ đã trưởng thành. Điều đó đòi hỏi DN vừa phải có vốn, vừa phải có tầm nhìn và khả năng quản trị tốt. Mặt khác, chất lượng đào tạo tại VN cần được nâng lên và cần phù hợp hơn với nhu cầu thực tế. Đây cũng chính là cơ hội lớn cho các nhà đầu tư trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Trong cuộc cạnh tranh toàn cầu, chỉ quốc gia có chất lượng nguồn nhân lực cao mới có thể phát triển. Ngoài ra, việc hoàn thiện khung pháp lý về thị trường lao động cũng như đảm bảo việc thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các quy định và thoả ước trong mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động cũng cần được đặc biệt quan tâm. Trên đây là vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đôí mặt trong công tác tuyển dụng và sử dụng nguồn nhân lực có trình độ cao. Bên cạnh đó, việc tuyển dụng , đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực có trình độ thấp vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề nan giải. Tình trạng “thiếu vẫn thiếu, thừa vẫn thừa” là tình trạng khá phổ biến trong việc sử dụng nguồn lao động phổ thồng cho các dự án. Đối với các dự án lớn thì vấn đề này thực sự là một trở ngại lớn. Việc thu hút lao động không phải là dễ dàng khi số lượng, chất lượng, độ tuổi của đội ngũ lao động không thoả mãn đuợc nhu cầu tuyển dụng. Lượng lao động tại địa phương chỉ chiếm khoảng từ 10-15%, do vậy buộc nhà đầu tư phải tuyển dụng thêm ở các địa phương khác, nghĩa là chi phí của ngưòi lao động từ xa sẽ tăng lên khá nhiều so với lao động tại chỗ. Điều này là một nguyên nhân khiến cho việc thu hút lao động của các doanh nghiệp gặp nhiều trở ngại. Theo thống kê của ngành Lao đọng thuơng binh và xã hội thì tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam năm 2008 là 4,65%, tăng 0,01% so với năm 2007. Trong khi đó, tỷ lệ lao động thiếu việc làm hiện nay là 5,1%, tăng 0,2% so với năm 2007. Đáng chú ý, tỷ lệ thiếu việc làm nông thôn lên tới 6,1%, trong khi tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 2,3%.Lao động không có việc làm vẫn còn khá nhiều trong khi nhu cầu tuyển dụng của các dự án lại khá cao. Điều cốt lõi là sự khâu nối giữa lực lượng lao động và nhu cầu lao động của chúng ta chưa thật tốt. Câu chuyện về bố trí lao động đang đi đến một tình huống “chỗ thiếu vẫn thiếu, chỗ thừa vẫn thừa”. Thực trạng các vấn đề ‘hậu dự án” cũng rất đáng đuợc quan tâm. Nguồn lao động chính cho các dự án là lao động phổ thông, không qua đào tạo, ý thức tổ chức kỷ luật còn chưa cao. Nguồn lao động này được lấy tại địa phương và các vùng lân cận. Sau khi kết thúc dự án, những người công nhân này thường rơi vào tình trạng thất nghiệp. Mặt khác, đối với những dự án cần giải phóng mặt bằng như xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, cơ sở hạ tầng, thì vấn đề là nạn nông dân thất nghiệp do đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng. Theo Hội Nông dân Việt Nam, trong quá trình xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, cơ sở hạ tầng, mỗi năm cả nước có gần 200.000 ha đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng, tương ứng mỗi hộ có khoảng 1,5 lao động mất việc làm. Tại Hà Nội, theo Hội nông dân, việc chuyển đổi mục đích đất nông nghiệp tăng liên tục, tỷ lệ với số dự án được phê duyệt. Năm 2001 thành phố thu hồi 733 ha cho 159 dự án; năm 2002 lấy 1.003 ha cho 194 dự án; năm 2003 lấy 1.424 ha cho 260 dự án và năm vừa qua ước thu hồi 1.980 ha cho 280 dự án. Cùng với số đất bị thu hồi, tình trạng nông dân không có việc làm trở nên bức xúc hơn bao giờ hết. Bình quân mỗi năm có khoảng 13-15 nghìn lao động không có việc, phần lớn lại chưa qua đào tạo nghề 2. Thực trạng thực hiện đấu tư Một đặc điểm nữa của đầu tư phát triển là thời kỳ đầu tư kéo dài. Tình trạng chậm tiến độ đầu tư, tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản còn phổ biến. 4.064 dự án đầu tư chậm tiến độ.Thông tin trên vừa được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết khi công bố kết quả giám sát các dự án đầu tư của các bộ, ngành và địa phương trên cả nước năm 2008.Số dự án này chiếm khoảng 17,7% tổng số dự án đầu tư thực hiện trong kỳ.Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá, chậm tiến độ là vi phạm phổ biến nhất và đang tăng lên so với các năm trước, trong đó, có nhiều dự án phát triển kết cấu hạ tầng quan trọng. Nguyên nhân vẫn là do biến động giá vật liệu xây dựng, đền bù giải tỏa khó khăn, tư vấn quá tải, bố trí vốn không đủ.. Riêng đối với các dự án nhóm A, Bộ cho biết có 26 dự án bị chậm tiến độ, dẫn tới làm tăng thêm chi phí cho ban quản lý dự án, lãi vay trong thời gian xây dựng, đặc biệt là tăng chi phí cho chuyên gia nước ngoài trong các dự án sử dụng ODA là rất lớn. Tình trạng thiếu vốn, nợ đọng là vấn đề lớn thường gặp trong đầu tư xây dựng cơ bản. Nguyên nhân chính dẫn tới thiếu vốn là do cácgiải pháp huy động vốn ngoài ngân sách triển khai chưa có hiệu quả. Các dự án thuộc vốn ngân sách nhà nước triển khai chậm, quản lý đầu tư yếu, gây thất thoát vốn...Tình trạng đầu tư dàn trải, nhiều công trình dở dang dẫn tới tình trạng chưa đồng bộ giữa các phân ngành, cở sở hạ tầng như: cảng, đường bộ, đường sắt và đường thuỷ... Các khoản nợ xây dựng cơ bản được đánh giá là vượt quá khả năng cân đối ngân sách nhà nước. Tổng số nợ xây dựng cơ bản hiện thống kê được khoảng 11.000 tỷ đồng. Sau khi rà soát theo chỉ đạo của Chính phủ, loại trừ các khoản nợ ngoài kế hoạch, vượt dự toán... thì số nợ đến hết năm 2002 vẫn còn gần 5.000 tỷ đồng, và số nợ báo cáo của năm 2003 khoảng 4.600 tỷ đồng. Báo cáo giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội bổ sung: Ngoài nợ đọng vốn đầu tư xây dựng liên quan tới nguồn ngân sách, nợ đọng lớn và kéo dài còn xảy ra ở các dự án sử dụng các nguồn vốn khác: Số dư nợ vốn của 5 ngân hàng thương mại nhà nước của các đơn vị thi công, tính đến hết tháng 6/2004, gần tới 25.000 tỷ đồng, trong đó hơn 1.340 tỷ đồng quá hạn. Thiếu văn bản pháp quy, các bộ ngành, địa phương thiếu trách nhiệm, khả năng cân đối vốn ngân sách hạn hẹp trong khi nhu cầu đầu tư lớn, việc tạm ứng vốn năm sau để thi công công trình năm trước diễn ra phổ biến là những nguyên nhân dẫn tới tình hình nợ đọng lớn. 3. Thực trạng về rủi ro trong đầu tư phát triển Rủi ro trong đầu tư có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu tư như quản lý kém, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầuCó nguyên nhân khách quan như giá nguyên liệu tăng, giá bán sản phẩm giảm, công suất sản xuất không đạt công suất thiết kế Một ví dụ điển hình đuợc đưa ra là bài học từ công ty sản xuất đèn hình Orion-Hanel. Công ty đèn hình Orion-Hanel là liên doanh đầu tiên trong nhóm các công ty con và công ty liên kết giữa Công ty Điện tử Hà Nội (Hanel) và đối tác Orion (Hàn Quốc), có vốn đầu tư trên 178 triệu USD, chuyên sản xuất đèn hình và phụ kiện đèn hình cho ti vi và máy tính, có thời hạn liên doanh tới 50 năm. Nhưng đi chưa hết nửa chặng đường thì liên doanh đã ở trên bờ vực phá sản với khoản nợ lên tới gần 41 triệu USD. Công ty đã gửi đơn kêu cứu lên UBND thành phố Hà Nội với đề nghị được bơm vốn vay 10 triệu USD, nhưng theo quan điểm của UBND TP thì không có cơ sở pháp lý để thực hiện điều này. Hiện phương án xử lý doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về phá sản cũng đã được tính tới. Ông Trần Quang Hùng- Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp điện tử Việt Nam khi trả lời báo chí đã cho rằng, kết cục này của doanh nghiệp là hoàn toàn được báo trước khi mà công nghệ sản xuất đèn hình tivi thoái trào. Xét về bề nổi, đó là sự cáo chung lần lượt của các công ty sản xuất đèn hình loại này. Bài học này liên quan đến tầm nhìn công nghệ của nhà đầu tư đã không theo kịp với sự tiến bộ về khoa học và công nghệ sản xuất. Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Sự kiện này đã, đang và sẽ mang lại cho doanh nghiệp Việt Nam rất nhiều cơ hội cũng như thách thức. Xét trên khía cạnh rủi ro mà các nhà đầu tư sẽ gặp phải đó là việc tự do hoá nhanh chóng thị trưòng trong nuớc sẽ khiến cho doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ các đối thủ cạnh tranh n ư ớc ngo ài Dòng vốn đổ vào có thể mang theo những rủi ro và làm trầm trọng thêm những yếu kém nội tại về cơ cấu và kinh tế vĩ mô, đặc biệt là những với những dòng vốn chảy vào do đầu cơ thì có thể dễ dàng chảy ra, nếu có những biến động về tình hình kinh doanh II. Tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam hiện nay. 1.1,Công tác quản lý đầu tư ở cấp độ vĩ mô. Dựa trên việc nắm bắt các đặc điểm của đầu tư phát triển, ở mức độ vĩ mô chính phủ đã có những thay đổi cơ chế chính sách trong lĩnh vực đầu tư phát triển theo hướng ngày cnàg hợp lý hơn, góp phần quan trọng trong việc cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích các chủ thể trong nền kinh tế đầu tư. Xuất phát từ những đặc điểm của đầu tư phát triển: nguồn vốn đầu tư phát triển rất lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài, thời gian phát huy tác dụng của các thành quả đầu tư kéo dài và hoạt động đầu tư phát triển có độ rủi ro cao, đòi hỏi ở cấp độ vĩ mô phải xây dựng các chính sách, quy hoạch, kế hoạch dầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn đầu tư, thực hiện đầu tư có trọng tâm trọng điểm.Cùng với đó phải đưa ra các phương pháp dự báo nhận diện rủi ro cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Công tác quy hoạch của nước ta trong thời gian qua đã có nhiều đổi mới, góp phần thực hiện vai trò định hướng đầu tư và là công cụ quản lý của Nhà nước.Chất lượng công tác quy hoạch đã được chú ý gắn kết với thực tế, bám sát với nhu cầu thị trường, khai thác tốt hơn tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay công tác quy hoạch vẫn còn nhiều bất cập gây thất thoát, lãng phí trong đầu tư và làm giảm hiệu quả của hoạt động đầu tư. Ông Nguyễn Tự Nhật – Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế Quốc dân (Bộ KH&ĐT) cho biết: vấn đề quy hoạch còn nhiều tồn tại nên đã làm giảm đáng kể hiệu quả vốn đầu tư. Chất lượng các quy hoạch chưa cao, hầu hết các quy hoạch thiếu rõ ràng, chưa phù hợp với các giải pháp, nhất là giải pháp về huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư, tổ chức thực hiện. Hiện còn có sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các loại quy hoạch: quy hoạch của cấp tỉnh, thành phố không tuân thủ và phù hợp với quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực không phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển KTXH. Tình hình này dẫn đến việc sử dụng chưa hợp lý, kém hiệu quả các nguồn nguyên nhiên liệu, nguồn tài nguyên thiên nhiên và dẫn đến tình trạng dự án “treo” .Theo số liệu tổng hợp gần đây, cả nước có tới hơn 1700 đồ án quy hoạch “treo” gây thất thoát và lãng phí lớn. Bên cạnh đó, việc quản lý quy hoạch lại rất “linh hoạt”, lỏng lẻo. Chưa thực hiện việc công khai các quy hoạch để mọi người dân được biết, cùng giám sát việc thực hiện quy hoạch. Kế hoạch đầu tư hàng năm của các cấp, các ngành chưa dựa vào định hướng trong quy hoạch được duyệt. Các cơ quan chức năng và quản lý Nhà nước còn rất “linh hoạt” trong việc điều chỉnh quy hoạch theo ý tưởng của nhà đầu tư, chủ đầu tư. Tiếp theo đó trong khâu chuẩn bị dự án đầu tư (báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi) nhiều khi lại rất kém, biểu hiện bằng việc phải phê duyệt điều chỉnh dự án nhiều lần, nhất là những dự án do địa phương quản lý, thời gian triển khai dự án thường kéo dài hơn nhiều so với phê duyệt ban đầu. Nhiều dự án phê duyệt lần đầu chỉ mang tính hình thức để được “xếp hàng” chờ vốn; có dự án được phê duyệt chỉ để đi “vận động vốn” như là dự án đưa ra để kêu gọi nguồn vốn ODA. Sau khi có tín hiệu được xem xét bố trí vốn mới hoàn chỉnh dự án để phê duyệt lại. Chính phủ cũng đã ban hành các chính sách phù hợp huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển, nguồn vốn đầu tư phát triển ngày càng được đa dạng hoá, cơ chế bao cấp trong dầu tư dần được xoá bỏ. Cùng với đó đã nâng cao hiệu quả sử dụng và nỗ lực cải thiện môi trường kinh tế chính trị cho đầu tư, củng cố lòng tin đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.Cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển đã có nhiều thay đổi. Các văn bản pháp quy trong lĩnh vực đầu tư phát triển luôn được cập nhật, đổi mới, phù hợp theo hướng phân cấp mạnh hơn trong quản lý đầu tư và xây dựng, đồng thời tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước. Nhiều nghị định mới, văn bản luật mới được ban hành thay thế cho những nghị định không còn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và xu hướng toàn cầu hoá như (luật đất đai, luật tài nguyên, luật đầu tư, luật đấu thầu).Tuy nhiên theo ông Nhật, nhà nước lại chưa thực sự kiểm soát được các hoạt động đầu tư, nhất là đối với nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước, nguồn vốn của khu vực tư nhân và dân cư. Việc phân bổ nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước còn nhiều vấn đề phải được nghiên cứu cải tiến. Theo đó, do chưa có định hướng đúng về cơ cấu đầu tư theo ngành và lĩnh vực, cơ cấu theo vùng lãnh thổ chưa phù hợp với mục tiêu đầu tư, dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế rất chậm và kém hiệu quả. Nhà nước hiện chỉ định hướng một cách rất tương đối và mang tính “hình thức” đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ (cả 2 nguồn vốn này chỉ chiếm khoảng 20% tổng nguồn vốn xã hội). Về thực chất rất khó xác định và điều hành cơ cấu này bởi theo luật ngân sách hiện hành, ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách TƯ, ngân sách địa phương. Nguồn ngân sách địa phương quản lý rất hạn hẹp, lại co kéo bởi nhiều mục tiêu và nhiệm vụ cấp bách của địa phương. Hội đồng nhân dân các cấp quyết định việc phân bổ cụ thể cho từng dự án cũng như cơ cấu của nguồn vốn này. Mặt khác, hiện có khoảng 50 khoản đầu tư mang tính hỗ trợ và theo mục tiêu cụ thể. Đó là các mục tiêu rất quan trọng của nền kinh tế; tuy nhiên, chính vì vậy mà khi tổng hợp theo địa bàn tỉnh, thành phố, cơ cấu vốn đầu tư lại chưa hợp lý, các lĩnh vực được coi là quốc sách, các mục tiêu quan trọng của tỉnh, thành phố lại nhận được “tỷ trọng khiêm tốn” Ngoài ra, việc bố trí kế hoạch vốn đầu tư hàng năm cho từng dự án cụ thể khó có thể tập trung, dứt điểm do nguồn vốn có hạn, nhưng những yêu cầu đặt ra trong cuộc sống rất lớn, nhất là đối với các tỉnh, thành phố điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, hạ tầng kinh tế - xã hội còn thiếu và yếu. Do vậy, hầu hết các dự án đều phải đồng loạt triển khai để đảm bảo cân đối vùng, miền, ngành, lĩnh vực, đơn vị hành chính tương đương, đảm bảo mục tiêu về giảm nghèo, an sinh xã hội Kết quả là, mỗi năm hàng chục nghìn dự án được triển khai, vốn cân đối nhỏ giọt, hầu hết là quá thời gian qui định, số dự án hoàn thành trong năm ít, gây lãng phí vốn, dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Theo ông Nhật, để khắc phục tình trạng trên, Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế, chính sách trong quản lý đầu tư. Tránh tình trạng “tuổi thọ” của các văn bản quá ngắn, cấp thực hiện không thể điều chỉnh kịp, ảnh hưởng tiến độ dự án, bị động trong kế hoạch vốn Tăng cường công tác quy hoạch, tránh tình trạng “độc quyền” quy hoạch. Nâng cao chất lượng các hoạt động tư vấn trong tất cả các bước như lập dự án đầu tư, thẩm định dự án, thiết kế kỹ thuật, lập tổng dự toán Khắc phục tình trạng đấu thầu hình thức, hạn chế tình trạng khép kín trong hoạt động đầu tư trong một đơn vị quản lý. 1.2, Tình hình quản lý đầu tư phát triển ở cấp độ vi mô Cùng với công tác quản lý đầu tư ở cấp độ vĩ mô thì ở các cấp độ doanh nghiệp công tác quản lý đầu tư cũng ngày càng được chú trọng. Năm 2007 số lượng các công ty tư vấn giám sát tăng khoảng 10% so với năm 2006. Điều đó chứng tỏ các nhà quản lý đã chú trọng rất nhiều đến chất lượng công trình và tiến độ thực hiện công trình.Công tác lập dự án cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công tác đầu tư.Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư,quản lý hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp được thực hiện ngay từ khi xây dựng ý tưởng dự án đến các giai đoạn lập dự án tiền khả thi và khả thi.Vì vậy trong nhiều dự án có quy mô lớn và trình độ kỹ thuật phức tạp các công ty còn thuê chuyên gia nước ngoài để tư vấn lâp và thẩm định khả thi của dự án đầu tư. Các công ty cũng sẵn sàng bỏ một số chi phí không nhỏ để thuê các tổ tư vấn để lập ra các dự án có tính khả thi cao. Xuất phát từ đặc điểm: thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài, ngay từ khâu lập dự án, các doanh nghiệp đã phải nghiên cứu tỉ mỉ về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm đầu tư tương lai, dự kiến khả năng cung từng năm và toàn bộ vòng đời của dự án, để xây dựng được kế hoạch huy động vốn, lựa chọn phương án kỹ thuật phù hợpVà việc lựa chọn địa điểm xây dựng các công trình của dự án được các chủ đầu tư, các doanh nghiệp đặc biệt chú trọng vì cá công trình này sẽ hoạt đông ngay tại nơi mà nó được xây dựng lên.Việc lựa chọn địa điểm xây dựng không phù hợp với quy hoạch hay việc cung cấp nguyên nhiên vật liệu đầu vào, phân phối sản phẩmsẽ dẫn đến tình trạng dự án có thể phải ngừng hoạt động hay hoạt động với công suất nhỏ hơn mức dự kiến ban đầu, làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong giai đoạn thực hiện đầu tư, nội dung quản lý đầu tư của các doanh nghiệp là tổ chức đấu thầu để lựa chọn nhà thầu, ký kết các hợp đồng, quản lý tiến độ, vốn đầu tư, chất lượng, rủi ro, thông tin, hoạt động mua bánTuy nhiên có một bộ phận doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa làm tốt quá trình đầu tư. Trong đó công tác đấu thầu là bất cập nhất.Nghiên cứu cho thấy: trong tổng số 400 hợp đồng thuộc 6 khoản tín dụng đã được phân tích, có sự tham gia của 1000 công ty,1500 người, 50 ngân hang và hơn 250 giao dịch. Dựa trên kết quả phân tích ban đầu này, 110 hợp đồng đã được chọn lựa để phân tích sâu không phát hiện thấy dấu hiệu bất thường trong công tác quản lý tài chính và giải ngân. Ngoài ra chất lượng của các công trình xây dựng chấp nhận được ở phần lớn trong số 40 công trình đã được kiểm tra. Tuy nhiên phân tích sâu hơn cho thấy có dấu hiệu liên kết giữa các nhà thầu trong hầu hết các cuộc đấu thầu đã thẩm tra. Đặc biệt nghiên cứu còn cho thấy hầu hết giá bỏ thầu đều nằm trong khoảng rất hẹp . Điều đó có thể lý giải được trên cơ sở việc nhiều nhà thầu thường căn cứ vào các định mức về giá đựơc quy định chính thức vì phần lớn là các DNNN. Nhiều chủ đầu tư ở Việt Nam do chưa có các giải pháp, nhận dạng và  phòng ngừa rủi ro thích hợp, nên khi đứng trước những biến động của thị trường, lạm phát cao, giá nguyên vật liệu, lãi suất tăng cao ( kể từ cuối năm 2007,đầu năm 2008) gần như đứng trước nguy cơ phá sản, nhiều công trình thi công bị bỏ dở dang do chủ đầu tư không huy động được nguồn vốn. Qua đó cồn thể hiện sự non kém trong năng lực quản lý và sử dụng vốn của các doanh nghiệp. 2.Ưu điểm và hạn chế trong việc quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác quản lý đầu tư ở Việt Nam. 2.1.Ưu điểm Thứ nhất:nhờ có những chính sách và phương thức huy động vốn phù hợp nên nguồn vốn huy động được cho hoạt động đầu tư phát triển trong những năm qua đã tăng đáng kể. Hàng năm vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng khoảng 18%, nhờ đó, tỷ lệ vốn đầu tư so với GPD không ngừng gia tăng(đạt 38,7% GDP) Nguồn thu từ ngân sách nhà nước đã có tác động thu hút các nguồn vốn khác. Trong điều kiện nguồn vốn ngân sách còn hạn hẹp, chính phủ vẫn thực thi nhiều cơ chế để tăng cường thu hút đầu tư từ khu vực khu vực kinh tế tư nhân trong nước và nước ngoài, huy động nguồn vốn công trái , trái phiếu chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu công trình góp phần tăng nhanh tổng nguồn vốn đầu tư, thúc đẩy kinh tế phát triển. Thứ hai: cơ cấu đầu tư đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung vào các mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế -xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do các nguồn lực được huy động tốt hơn và tập trung đầu tư vào các công trình chủ yếu, quan trọng trong các ngành, lĩnh vực và địa phương, đầu tư chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất theo hướng hiệu quả và phát huy được lợi thế so sánh của từng vùng, từng ngành, từng sản phẩm,từ đó giúp tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế; chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và sản xuất kinh tế nông thôn; đầu tư theo chiều sâu, bổ sung các thiết bị công nghệ tiên tiến trong các ngành công nghiệp, xây dựng và chuẩn bị xây dựng một số cơ sở công nghiệp,kết cấu hạ tầng kỹ thuật (giao thông vận tải, viễn thông, thuỷ lợi, công nghịêp điện), hạ tầng cơ sở nông thôn, du lịch, bảo vệ môi trường, giảm nhẹ thiên tai.Vốn đầu tư tập trung cho phát triển nguồn nhân lực, giáo dục khoa học công nghệ,môi trường, y tế xã hội, các công trình quốc gia, xoá đói giảm nghèo và ưu tiên đầu tư thực hiện phát triển kinh tế xã hội các tỉnh Tây Nguyên,Miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long ,các tỉnh còn khó khăn,các vùng thường bị thiên tai  bão lụt. Thứ ba:đã có nhiều đổi mới trong cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng.Cơ chế quản lý đầu tư đựơc cải tiến một bước quan trọng theo hướng giảm đáng kể sự can thiệp trực tiếp của nhà nước đối với hoạt động đầu tư và kinh doanh của các doanh nghiệp, tăng cường vai trò, trách nhiệm của các chủ đầu tư trong công việc quyết địmh tổ chức thực hiện và phát huy hiệu quả của các công trình đầu tư, đồng thời thực hiện phân cấp triệt để cho các bộ, ngành và các địa phương về thẩm định, quyết định, tổ chức quản lý thực hiện dự án  đầu tư theo Nghị định số 07/CP của Chính Phủ. Trong hoạt động đầu tư, Nhà nước quản lý chặt chẽ đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và tạo khung pháp lý cùng các hỗ trợ cần thiết cho nhà đầu tư mà không trực tiếp quyết định đầu tư. Đồng thời Nhà nước thực hiện cơ chế giám sát, kiểm tra, đánh giá, để thực hiện hiệu quả dự án đầu tư,giảm bớt sai sót, vi phạm thất thoát. Trong quản lý đầu tư ở cấp cơ sở đã được tăng cường vai trò của hội đồng nhân dân, coi trọng sự tham gia giám sát của cộng động và các tổ chức xã hội. Thứ tư: chúng ta đã khai thác tốt các nguồn đầu tư nước ngoài (ODA và FDI).Trong giai đoạn 2000-2007 huy động vốn nước ngoài gia tăng đáng kể, góp phần khắc phục tình trạng thiếu vốn trong nước, thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư trong nước, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh còn tạo điều kiện tốt cho việc mở rộng thị trường trong nước, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với thị trường thế giới, tạo điều kiện học hỏi khoa học công nghệ, trình độ tổ chức quản lý Chính phủ tiếp tục nỗ lực để tạo môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn hơn, cởi mở minh bạch và thông thoáng hơn, đã dỡ bỏ những thủ tục pháp lý cồng kềnh.Các bộ, ngành, địa phương đang thực hiện các biện pháp chỉ đạo  hữu hiệu của thủ tướng Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững bằng nhiều biện pháp như bộ Kế hoạch và đầu tư đã triển khai công tác địa phương thực hiện việc điều hành đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách nhà nước nhằm phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát và các đoàn công tác thúc đẩy việc giải ngân nguồn vốn FDI. 2.2.Những hạn chế Một là, chưa huy động hết tiềm năng các nguồn vốn cho đầu tư phát triển Nhiều bộ, ngành địa phương chưa chú trọng huy động các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước mà chủ yếu vẫn trông chờ vào nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn vốn khác tham gia vào đầu tư, đặc biệt là khu vực tư nhân còn hạn chế rất lớn về quy mô, nhất là đầu tư những công trình cơ sở hạ tầng có khả năng thu hồi vốn. Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn những hạn chế, chưa phục hồi được tốc độ huy động cao như những năm trước đây .Hầu hết các dự án dược cấp giấy phép gần đây đều có quy mô nhỏ, môi trường đầu tư tuy đã được cải thiện nhiều, nhưng mức độ cạnh tranh so với các nước trong khu vực chưa cao và vẫn còn nhiều bất cập như: một số chính sách hay thay đổi và khó dự báo trước, có tình trạng cạnh tranh chưa hợp lý trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài giữa các địa phương. Khối lượng giải ngân nguồn vốn ODA đật thấp so với kế hoạch, hàng năm chỉ đạt khoảng 80-90% mức đề ra. Sau 10 năm kêu gọi nguồn vốn ODA, đến nay mới giải ngân dược khoảng 13,5 tỷ USD trên tổng số 25 tỷ USD cam kết, tỷ lệ giải ngân giảm dần qua các năm, khối lượng giải ngân thấp do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là các nguyên nhân chủ quan như công tác giải phóng mặt bằng quá chậm, các bộ ngành địa phương bố trí không đủ vốn đối ứng, năng lực của các ban ngành quản lý dự án ODA còn thấp, thủ tục chưa hài hoà trong và ngoài nước Hai là, bố trí đầu tư còn dàn trải Nhìn chung , bố trí đầu tư còn rất dàn trải, phân tán thể hiện ở tất cả các nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước. Những năm gần đây đã có những tiến bộ bước đầu ( tập trung cho các dự án thuộc nhóm A); tuy nhiên nhiều bộ, ngành và nhiều địa phương vẫn cồn tình trạng bố trí vốn chua tập trungchủ yếu là đối các công trình, dự án nhóm B và C. Số công trình dự án đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước năm sau nhiều hơn năm trước. Năm 2001 khoảng 7000 dự án; năm 2002 tăng lên trên 8000 dự án ,năm 2003 tăng lên 10500 dự án (tăng khoảng 2500 dự án so với năm 2002). Nguyên nhân c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6285.doc
Tài liệu liên quan