Đề tài Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Contents

1.Khái quát về nền kinh tế Trung Quốc

2. Thực trạng đầu tư nước ngoài của Trung Quốc.

2.1. Thực trạng đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc.

2.2. Thực trạng thu hút đầu tư của Trung Quốc

2.3. Các chính sách đầu tư nước ngoài của TQ

3. Tình hình đầu tư nước ngoài tại VN và bài học kinh nghiệm từ TQ

3.1.Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam rút ra từ thực trạng đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc

 

doc34 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2983 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t và trái phiếu của Âu Mỹ Nhật Úc. Một sự thực mà các nhà yêu nước Trung Quốc không muốn nhìn nhận Trung Quốc cần Âu Mỹ Nhật Úc hơn là ngược lại. Điểm sau cùng của chính sách đầu tư FDI của Trung Quốc là tìm lợi nhuận. Đây là thất bại lớn nhất của chính sách này. Theo lời thú nhận của ông Zhu Zhixin, Phó Chủ tịch của Sở Kế Hoạch Quốc Gia (State Planning Commission vừa đổi tên thành National Development and Reform Commission NDRC), thống kê đến 2008 cho thấy chỉ 28% các hoạt động tại nước ngoài của doanh nghiệp Trung Quốc là có lời; 47% là hòa vốn và 25% phải chịu lỗ liên tục hoặc đã đóng cửa rút lui. Nhận thức được những bất lợi này, ông Bộ trưởng đã nêu ra 5 vấn đề lớn mà doanh nghiệp Trung Quốc phải đối phó khi đầu tư vào nước ngoài: + Doanh nghiệp nhỏ hơn doanh nghiệp đối thủ, lại làm quá nhiều lĩnh vực, nên không đi sâu vào ngành nghề gì. + Doanh nghiệp có truyền thống địa phương hóa, không quan tâm đến chuyện lan rộng ra thế giới. + Không có công nghệ hay thương hiệu riêng. + Tổ chức doanh nghiệp còn luộm thuộm. + Doanh nghiệp vừa và nhỏ học nhiều bài học xấu từ các công ty quốc doanh lớn.  Điều này cho thấy Trung Quốc còn phải học nhiều về vấn đề đầu tư FDI tại nước ngoài. Nhật đã trả nhiều bài học đắt giá về đầu tư nước ngoài ở hai thập niên 70’s và 80’s khi kinh tế của Nhật bứt phá ngoạn mục. Chỉ sau này, sau 20 năm phiêu lưu, đầu tư nước ngoài của Nhật mới ổn định và thâu lợi. 2.2.2. Thực trạng thu hút đầu tư của Trung Quốc Sau hơn 20 năm (từ 1979 đến nay) thực hiện chính sách cải cách mở cửa, kinh tế Trung Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn, thu hút sự chú ý của cả thế giới. Kim ngạch ngoại thương hai chiều của Trung Quốc đã tăng từ 28 tỷ USD năm 1982 lên 510 tỷ USD năm 2001. Năm 2001, Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu đứng thứ bẩy thế giới (266,3 tỷ USD) và là nước nhập khẩu đứng thứ 8 trên thế giới (243,7 tỷ USD). Cho đến nay, tương ứng với các thời kỳ, nền kinh tế Trung Quốc vẫn dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng. Vị thế và ảnh hưởng của Trung Quốc đã tăng lên rõ rệt. Nhiều nhà kinh tế nhận định rằng, từ nay đến hết thập niên đầu thế kỉ XXI vẫn là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc. Một trong những yếu tố tạo nền sự phát triển mạnh mẽ kinh tế của Trung Quốc trong hơn 20 năm qua là sự thành công trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Từ năm 1992 đến nay, Trung Quốc liên tục đứng đầu các nước đang phát triển và đứng trong tốp đầu trên thế giới về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và thậm chí đã vượt qua Hoa Kỳ vào năm 2002 với 52,7 tỷ USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành động lực của sự phát triển kinh tế Trung Quốc và chính nó là yếu tố then chốt để nước này thực hiện công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Quan trọng hơn, nó là cơ sở chủ yếu để Trung Quốc thực hiện bước chuyển từ một nước nông nghiệp, khai thác tài nguyên, xuất khẩu nguyên liệu là chính sang thành nước sản xuất và xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng công nghiệp chế tạo. Nhờ có đầu tư trực tiếp nước ngoài mà đất nước Trung Quốc đã thay da đổi thịt. Nếu như trước khi mở cửa, Trung Quốc được ví như một hành tinh chết, không sinh sôi, không nảy nở, phát triển thì sau 20 năm mở cửa, một đất nước Trung Quốc lớn mạnh đang hình thành, tạo nên một trong những “điều thần kỳ kinh tế vĩ đại nhất của thế kỷ”. While the rate of FDI utilization experienced sharp drops in the mid 1980s anChina, the emergence of China as a major host nation to FDI has nonetheless been driven by positive1992, however, further reforms were taken that led to a surge in FDI.Nguồn FDI vào Trung Quốc tăng, từ hơn 3 tỷ USD (năm 1990) lên 40 tỷ USD (năm 2000) và 53 tỷ USD (năm 2005) Since the economic reform and opening up to the outside, China has attracted Kể từ khi cải cách kinh tế và mở cửa ra bên ngoài, Trung Quốc đã thu hút increasingly large amount of foreign capital. ngày càng lớn số vốn nước ngoài. There are mainly three forms of foreign Có ba hình thức chủ yếu của dòng vốn đầu tư nước ngoài : capital inflow: foreign loans, direct foreign investment and other foreign investmevốn vay nước ngoài, đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư nước ngoài khác 1.Between 1979 and 2000, China's actual usage of foreign capital amount to more than Giữa năm 1979 và 2000, thực tế sử dụng của Trung Quốc vốn nước ngoài hơn US 500 billion dollars (Table1), more than two third of foreign capital are in the for500.000.000.000 đô la Mỹ, hơn hai phần ba vốn nước ngoài theo hình thức of direct investmentđầu tư trực tiếp. Table 1 also indicates that the importance of FDI as a source of foreign caTầm quan trọng của FDI inflow has increased dramatically since the lateđã tăng mạnh kể từ cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980. Between 1979Những năm 1980 and 1983, FDI inflow account for only 12% of total actual foreign c, dòng vốn FDI chỉ chiếm 12% tổng vốn nước ngoài sử dụng thực tế. Many factors contributed to China's relative slow progress in attracting FDI duNhiều yếu tố góp phần làm chậm tiến độ tương đối của Trung Quốc trong việc thu hút FDI trong this periogiai đoạn này.For example, the government required that all foreign ventures maintain Ví dụ, chính phủ yêu cầu rằng tất cả các doanh nghiệp liên doanh nước ngoài duy trì its foreign exchange balance and made it difficult for foreign investors to repatriabảng cân đối ngoại tệ đã gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài, any profits not earned in hard currenlợi nhuận bằng ngoại tệ mạnh không thu được.Part of the reason is that foreign Một phần lý do là investors are uncertain about the policy environment during the early years of reformcác nhà đầu tư nước ngoài không chắc chắn về môi trường chính sách trong những năm đầu của cải cách. The percentage of utilization increased during the second half of 1980s due toTỷ lệ sử dụng tăng lên trong nửa sau của năm 1980 do improved business environment but began to fall after 1989cải thiện môi trường kinh doanh nhưng đã bắt đầu giảm sau năm 1989. The political turbulence Những bất ổn chính trị in 1989 contributed to the decline in FDI utilization percentavào năm 1989 góp phần vào việc giảm tỷ lệ sử dụng vốn FDI. In addition, there Ngoài ra, were also fund shortage problems due to the government's tight credit squeeze vấn đề thiếu hụt do bóp chặt tín dụng của chính phủ để control the overheated economykiểm soát nền kinh tế quá nóng. Finally, many of the announced projects might also Cuối cùng, nhiều dự án công bố cũng có thể be actually fraudulgian lận,Phony joint ventures were set up to take advantage of liên doanh giả mạo được thiết lập để tận dụng lợi thế của favorable tax incentivethuận lợi ưu đãi thuế. So in the early 1990s, while contractual FDI surged to a Vì vậy, trong những năm 1990, trong khi hợp đồng FDI đăng ký tăng lên một con số record high, actual FDI utilization had only increased slowlcao kỷ lục nhưng thực tế sử dụng vốn FDI chỉ tăng từ từ. The percentage of FDI Tỷ lệ FDI utilization fell to its lowest level of less than 20% in 1992 but then increased steadilsử dụng đã giảm xuống mức thấp nhất dưới 20% vào năm 1992 nhưng sau đó tăng lên đều đặn throughout the 1990trong suốt những năm 1990.2 As RMB is not convertible, foreign-invest companies had to export to cover theiUproperty rights, fear of policy reversal, as well as lengthy process of buapproval may all contribute to The growth in FDI began to pick after from the mid-1980s, when a varietySự tăng trưởng trong FDI đã bắt đầu tăng từ giữa những năm 1980, khi một loạt các measures were adopted to improve the investment climate in Chibiện pháp đã được áp dụng để cải thiện môi trường đầu tư tại Trung Quốc. Between mid1980s and early 1990s, FDI increased steady and accounted for about one third oNăm 1980 và đầu những năm 1990, FDI tăng ổn định và chiếm khoảng một phần batotal foreign capital inflow. tổng số vốn nước ngoài chảy vào.FDI inflow accelerated since 1992 and became the most Dòng vốn FDI tăng nhanh kể từ năm 1992 và trở thành important source of foreign capital inflow, after the famous —Tour to the South“ bnguồn quan trọng nhất của dòng vốn nước ngoài. China's then paramount leader Deng XiChina has also become the seconTrung Quốc cũng đã trở thành quốc gialargest FDI recipient country in the world and the largest recipient among nhận FDI lớn nhất trên thế giới. counAnnual FDI usage grew from US$4 billion a year in 1991 to more than UFDI hàng năm sử dụng đã tăng từ 4 tỷ USD / năm vào năm 1991 lên hơn USD 45 billion of its peak (in 1997 and 1998)45tỷ, đỉnh cao của nó (vào năm 1997 và 1998). In 1999 and 2000, FDI inflow decreased Năm 1999 và 2000, dòng vốn FDI giảm from its highest level, but still amount to more than US$ 40 billion a yeartừ cấp cao nhất, nhưng vẫn còn số tiền hơn 40 tỷ USD một năm. Trong những năm gần đây, FDI từ các nước vào Trung Quốc tăng rất nhanh . Năm 2010, tổng vốn FDI là 105,7 tỷ USD. Nguyên nhân của sự gia tăng nhanh chóng đó là bởi vì sức mạnh nền kinh tế Trung Quốc ngày càng được thể hiện sâu sắc. Hơn thế nữa,cơ sở hạ tầng được đầu tư theo tiêu chuẩn,tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp phát triển. Hành lang pháp lý tại đất nước này ngày càng chặt chẽ và thông thoáng nhất có thể giúp doanh nghiệp nước ngoài yên tâm đầu tư. Tác động của FDI: - FDI có mặt ở nhiều ngành Công nghiệp của Trung Quốc, đóng góp vào việc chuyển đổi cơ cấu công nghiệp. Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực FDI trong giá trị sản xuất công nghiệp của Trung Quốc đã tăng từ 7% năm 1990 lên 28% năm 2000. Các doanh nghiệp FDI là những doanh nghiệp có năng suất cao nhất (gấp đôi so với doanh nghiệp nhà nước). - Năm 1995, các doanh nghiệp FDI của Trung Quốc chiếm tới 61% sản lượng quần áo và giày dép xuất khẩu của Trung Quốc,  tạo nhiều việc làm, chiếm 3% lao động thành thị và đóng vai trò quan trọng trong quá trình tư nhân hóa. Vấn đề việc làm là vấn đề nhức nhối của xã hội Trung Quốc. Do dân số đông đúc và thiếu việc làm dẫn tới đời sống nhân đân khó khăn. Khi vốn FDI tăng cường sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người dân,góp phần cải thiện và đảm bảo đời sống cho người dân. - Doanh nghiệp Trung Quốc liên doanh với nước ngoài là cách tiếp cận nhanh nhất và thuận lợi nhất đối với các nguồn vốn ngân hàng nước ngoài. Doanh nghiệp Trung Quốc có cơ hội được sử dụng lượng vốn lớn để mở rộng quy mô sản xuất,tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm. - Vai trò của FDI không lớn nếu xét về mặt đóng góp tài chính vào cán cân thanh toán, nhưng giúp cán cân thanh toán của Trung Quốc mạnh lên trong những năm qua và sau đó lại làm tăng mạnh dự trữ ngoại tệ (năm 2001 tăng thêm khoảng 50 tỷ USD). Đồng thời, FDI đã góp phần quan trọng trong toàn bộ vốn đầu tư, chiếm khoảng 35% GDP và do đó góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế. FDI còn góp phần vào tỷ trọng trong thuế giá trị gia tăng của Trung Quốc. - FDI vào Trung Quốc còn có vai trò quan trọng khác, chứng tỏ Trung Quốc là một thị trường hấp dẫn, nên đã thu hút được nhiều FDI hơn các nước: Achentina, Braxin … , và làm cho các nước Đông Nam á lo ngại vì nguồn  FDI chảy hết về Trung Quốc. FDI tăng nhanh làm cho vị thế của quốc gia này ngày càng vững mạnh hơn,chứng tỏ sức mạnh của nền kinh tế Trung Quốc. Những nguyên nhân làm tăng FDI vào Trung Quốc : - Trung Quốc có một thị trường tiêu thụ rộng lớn,  đặc biệt quy mô thị trường có tầm quan trọng đối với FDI từ Mỹ và Châu Âu. - Trung Quốc có lợi thế so sánh về nguồn lao động so với các nước khác trong khu vực. Đây là một yếu tố rất quan trọng trong thu hút FDI hướng vào xuất khẩu từ Hồng Công và Đài Loan. - Cơ sở hạ tầng của Trung Quốc tương đối tốt hơn so với các nước khác trong khu vực. - Đóng vai trò trung tâm trong việc mở cửa từng bước nền kinh tế đối với các nhà đầu tư nước ngoài và sự khác nhau quan trọng giữa các vùng này với các vùng khác ở Trung Quốc là các khu kinh tế mở. Tại đây đã có sự phân quyền quản lý và cho phép đầu tư vào các vùng kinh tế mở vượt kế hoạch Nhà  nước. Còn một số nguyên nhân khác, trong đó yếu tố văn hóa - dân tộc  có vai trò tích cực (50% FDI vào Trung Quốc là từ Hồng Công, Đài Loan và Xingapo, những nơi có nhiều người Hoa sinh sống, do có tương đồng văn hóa và các nhà đầu tư này cũng có lợi trong việc qua được những rắc rối quan liêu và tham nhũng). Đồng thời, yếu tố cơ cấu kinh tế và thể chế chính trị cũng đóng vai trò quan trọng. Những tồn tại và khó khăn: -  Sự tập trung vốn của FDI ở Trung Quốc thấp hơn so với các nước và vùng lãnh thổ khác. Chẳng hạn, FDI chảy vào 3 ngành công nghiệp hàng đầu của Hồng Công và Đài Loan là 86%, Inđônêxia là 79% và của Malaixia là 75% , còn Trung Quốc chỉ chiếm 47% FDI. - FDI có mặt ở nhiều tỉnh, kể cả các tỉnh Nội Mông nghèo, nhưng phân bố không đều (các tỉnh miền Tây chỉ thu hút được 3%, các tỉnh miền Trung 9%, trong khi đó các vùng Duyên hải thu hút tới gần 88% các dòng vốn FDI), đã tạo ra chênh lệch phát triển giữa các vùng. - Chính sách thuế của Trung Quốc rất phức tạp và còn nhiều bất cập, hiện đang khắc phục dần. Từ năm 1994 đến cuối năm 2000, khả năng mang lại lợi nhuận trước thuế trung bình của các doanh nghiệp FDI ở Trung Quốc là 8%; riêng với các doanh nghiệp FDI từ Mỹ trong những năm 1990 hoặc nửa cuối những năm 1990 là khoảng 14%, tương đương với khả năng mang lại lợi nhuận của doanh nghiệp FDI từ Mỹ vào các nước như Achentina, Braxin, Mêhicô và Thổ Nhĩ Kỳ. Tóm lại, trong hơn hai thập kỷ chuyển đổi về kinh tế, Trung Quốc đã thu được những thành công rực rỡ: Tốc độ tăng trưởng cao, tỷ lệ đói nghèo giảm, và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh. Một trong những động lực thúc đẩy sự chuyển đổi thành công này là việc khai thác hiệu quả nguồn vốn FDI. Ngoài những yếu tố quyết định đối với việc thu hút FDI như quy mô thị trường lớn, giá lao động rẻ, cơ sở hạ tầng được cải thiện đi cùng với các chính sách FDI cởi mở, và đặc biệt là việc thành lập các khu kinh tế mở, còn có thể rút ra một số bài học khác cho nhiều nước đang phát triển 2.3. Các chính sách đầu tư nước ngoài của TQ. 2.3.1.Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài Việc thực hiện các chính sách thu hút ĐTNN trong thời kỳ này có thể được chia thành giai đoạn như sau: Giai đoạn 1: Từ năm 1979 đến năm 1982. Các Xí nghiệp dùng vốn nước ngoài chủ yếu dưới 3 hình thức: liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh và 100% vốn nước ngoài, lầu đầu tiên được thành lập ở các ĐKKT, tiếp đó là ở các thành phố mở cửa ven biển trên cơ sở thử nghiệm. Trong thời gian này, chủ ĐTNN vẫn còn băn khoăn nghi ngại về môi trường đầu tư, hầu hết các chủ đầu tư vào Trung Quốc khi đó là những Hoa kiều từ Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan, với quy mô đầu tư nhỏ. Hoạt động kinh doanh cũng chủ yếu là gia công, lắp đặt các linh kiện và phụ tùng nhập khẩu. Trong suốt thời kỳ này, cũng chỉ có 992 dự án ĐTNN được phê chuẩn với tổng giá trị hợp đồng và giá trị cam kết tương ứng là 6 tỷ và 1,166 tỷ USD. Giai đoạn 2: Từ năm 1983 đến năm 1985. Năm 1983 nhiều Công ty nước ngoài tăng đầu tư vào Trung Quốc. Số dự đầu tư mới tăng thêm tới 470, khối lượng vốn được phê chuẩn và vốn thực tế sử dụng tương ứng là 1,732 tỷ và 0,636 tỷ USD. Địa bàn thu hút ĐTNN được mở rộng thêm trong các năm 1984 và 1985 như mở cửa 14 thành phố ven biển và 3 khu phát triển kinh tế. Chính quyền địa phương ở các khu vực này đã thực hiện nhiều biện pháp để cải thiện cơ sở hạ tầng như phát triển mạng lưới giao thông vận tải, thông tin, cấp điện, cấp nước.... thực hiện nhiều chính sách ưu đãi về thuế, lợi nhuận, đơn giản hoá các thủ tục hành chính như lập hồ sơ, kiểm tra, phê chuẩn và đăng ký dự án... Tháng 4/1984, Trung Quốc công bố Quy định về các Xí nghiệp hợp tác Trung Quốc - nước ngoài các cấp chính quyền địa phương lại đưa ra nhiều các biện pháp ưu đãi đối với ĐTNN. Kết quả là số các dự án FDI vào Trung Quốc tăng rất nhanh qua từng năm. Năm 1984 số Xí nghiệp dùng vốn nước ngoài mới tăng lên 1857, gấp hơn 2 lần mức năm 1983. Năm 1985, mức tăng số Xí nghiệp mới đạt 65% (3.073). Khối lượng vốn đầu tư cam kết trong các năm 1984 và 1985 tăng 53% và 120% so với các năm trước. Giai đoạn 3: Từ năm 11986 đến năm 1988. Sau khi đạt được những đỉnh cao trong thu hút ĐTNN. Trong các năm 1984 và 1985, Trung Quốc dường như cần có thời gian để "tiêu hoá", ổn định lượng FDI mới và cũng để xem xét, tổng kết kinh nghiệm, hoàn thiện hơn nữa môi trường đầu tư. Ngày 12/4/1986, Quốc hội Trung Quốc thông qua Luật các công trình dùng vốn nước ngoài của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, đồng thời Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra các quy định tạm thời của Hội đồng Nhà nước về khuyến khích ĐTNN (còn gọi là 22 điều khoản) vào tháng 10 năm 1986. Trong khi đó, các phòng ban của Chính phủ và chính quyền các địa phương đã liên tiếp công bố hàng loạt các biện pháp triển khai thực hiện các quy định này. Nhiều nơi đưa ra các biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư vào các dự án sản xuất các sản phẩm xuất khẩu và sử dụng kỹ thuật mới. Năm 1987, Chính phủ Trung Quốc chỉ đạo các cơ quan hữu quan kiểm tra, xem xét tình hình thực hiện 22 điều khoản ở trên. Tháng 7/1988 Chính phủ lại công bố Luật và các quy định khuyến khích các nhà đầu tư Đài Loan đầu tư vào Đại lục. Do vậy, một làn sóng FDI mới lại đến Trung Quốc trong năm 1988. Các dự án đầu tư mới tăng 166% so với năm 1987, đạt con số 5.945. Khối lượng vốn đầu tư mới theo cam kết đạt 5,297 tỷ USD, tăng 3%. Giai đoạn 4: Từ năm 1989 đến năm 1991. Do tác động của sự kiện Thiên An Môn (4/6/1989) các dự án ĐTNN mới phê chuẩn trong năm 1989 giảm 2,8% so với năm 1988, còn 5.579 dự án, nhưng khối lượng cam kết theo hợp đồng và khối lượng đầu tư thực tế lại tăng tương ứng là 5,6% và 6,3%, đạt 5,6 tỷ USD và 3,393 tỷ USD. Tháng 4/1990, sau khi tổng kết kinh nghiệm 10 năm thu hút vốn ĐTNN và tham khảo kinh nghiệm quốc tế, Trung Quốc đã sửa đổi luật Liên doanh Trung Quốc - nước ngoài của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa công bố năm 1979, đồng thời cụ thể Luật thành cá điều khoản như: không thực hiện quốc hữu hoá các Xí nghiệp có vốn nước ngoài, giới hạn thời gian thực hiện hợp đồng, bổ nhiệm chủ tịch Hội đồng quản trị, miễn giảm thuế.... Tháng 5/1990, Chính phủ Trung Quốc lại công bố quy định về khuyến khích đầu tư của người Hoa và Hoa kiều yêu nước ở Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan và đến tháng 9 năm đã phê chuẩn quy định về khuyến khích ĐTNN và miễn thuế thu nhập và thuế kinh doanh cho các Xí nghiệp dùng vốn nước ngoài ở Khu mới Phố Đông Thượng Hải. Tháng 10, Bộ Ngoại thương và Hợp tác quốc tế Trung Quốc cho xuất bản cuốn Các Quy định chi tiết về thực hiện Luật công trình dùng vốn nước ngoài. Tất cả các biện pháp này đã cho thế giới thấy lập trường của Trung Quốc rất kiên định trong thực hiện các chính sách mở cửa kinh tế và bảo vệ quyền lợi pháp lý cũng như lợi ích của các nhà ĐTNN, đặc biệt đối với người Hoa và Hoa Kiều. Do vậy, dù các nước phương Tây đã thực hiện các biện pháp trừng phạt Trung Quốc sau sự kiện Thiên An Môn, ĐTNN và các hoạt động kinh doanh của Hoa kiều ở Trung Quốc vẫn gia tăng trong năm 1990, với 7.237 dự án đầu tư mới phê chuẩn, tăng 29% so với năm 1989. Trong năm 1991, lượng FDI lại tăng hơn nữa, với 12.000 dự án đầu tư mới phê chuẩn, tăng 65% so với năm 1990, các mức đầu tư cam kết và thực tế tương ứng đạt 12 tỷ USD (tăng 82%) và 4,37% tỷ USD (tăng 25%). Tóm lại, trong suốt thập kỷ 80 Trung Quốc thực hiện nhiều các chính sách, biện pháp để thu hút vón ĐTNN và đã thu được kết quả đáng kể. Tuy nhiên, các chính sách, biện pháp này mới ở giai đoạn đầu và được thực hiện theo hướng: mở rộng dần dần địa bàn thu hút vốn, củng cố cơ sở hạ tầng cứng, từng bước xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng mềm. Thành công lớn nhất của Trung Quốc trong thời kỳ này là xây dựng được lòng tin về một môi trường đầu tư tốt, ổn định trong các nhà đầu tư. Cùng với những cố gắng trong cải cách ngoại thương, thành công này giúp Trung Quốc chuẩn bị tốt hơn cho sự phát triển thương mại và thu hút ĐTNN mạnh mẽ hơn, từ đó có thể hội nhập quốc tế mạnh hơn, chắc chắn hơn ở giai đoạn sau. 2.3.2.Chính sách đầu tư nước ngoài trong giai đoạn 1992 đến nay. Tiếp tục mở rộng các vùng lãnh thổ mở cửa. Bước vào thập kỷ 90, đặc biệt là từ năm 1992, vốn ĐTNN vào Trung Quốc tăng rất nhanh. Đầu năm 1992, khắp Trung Quốc dấy lên cao trào mới về mở cửa đối ngoại, đánh dấu sự chuyển hướng sang một giai đoạn mới về mở đối ngoại ở nước này. Tháng 3/1992, Quốc vụ viện Trung Quốc quyết định mở cửa 4 thành phố mở cửa ven biên giới phía Bắc. Đó là các thành phố Bắc Hà, Noãn Phần Hà, Huy Xuân và Mãn Châu Lý. Tháng 6 cùng năm, Quốc vụ viện Trung Quốc lại quyết định mở cửa thêm các thành phố (huyện, thị) ven biên giới như Bằng Tường, Đông Hưng (Khu tự trị Quảng Tây), Văn Đĩnh, Thụy Lệ, Hà Khẩu (tỉnh Vân Nam). Về sau Trung Quốc còn tiếp tục mở cửa thêm một số thủ phủ, tỉnh lỵ ở cả khu vực ven biển, ven biên giới, ven sông Trường Giang và một số nơi ở sâu trong nội địa. Cho đến nay, ở Trung Quốc đã hình thành thêm 3 vùng mở cửa lớn với mục tiêu mở cửa để thu hút ĐTNN và khai thác thị trường các nước xung quanh, đó là: - Vùng Tây Bắc Trung Quốc, chủ yếu hướng sang các nước SNG, Đông Âu, Pakistan và một số nước Trung á. - Vùng Tây Nam Trung Quốc, chủ yếu hướng về Đông và Nam á như các nước ấn Độ, Nê Pan, Myanma, Lào, Bănglađét. Như vậy là sau 20 năm, Trung Quốc đã dần dần hình thành cục diện mở cửa đối ngoại trọng điểm, nhiều tầng nấc từ Nam đến Bắc, từ Đông sang Tây. Điều chỉnh chính sách Để tiếp tục duy trì nhịp độ phát triển cao và bền vững trong những năm cuối thế kỷ, từ đầu thập kỷ 90, Trung Quốc liên tục ban hành nhiều chính sách, biện pháp quan trọng nhằm cải thiện môi trường đầu tư cho phù hợp với những đòi hỏi của nền kinh tế thế giới cũng như nhu cầu đầu tư quốc tế. Những chính sách, biện pháp điều chỉnh chính là: a. Trọng tâm của các yêu cầu ĐTNN được chuyển từ số lượng sang chất lượng. Hiện Trung Quốc rất coi trọng thu hút các Công ty xuyên quốc gia lớn đầu tư vào các dự án sử dụng kỹ thuật cao. Để đạt được điều này, Chính phủ Trung Quốc đã nới lỏng kiểm soát việc thành lập các Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và các Xí nghiệp do người nước ngoài điều phối. Trong suốt thập kỷ 80, hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài còn rất ít. Từ năm 1992, sau quyết định đẩy nhanh tôc độc cải cách và mở cửa, thiết lập thể chế thị trường xã hội chủ nghĩa, hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài ngày càng được mở rộng. Từ năm 1993, cùng với sự gia tăng đầu tư của các Công ty xuyên quốc gia, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài về số hạng mục đầu tư, khối lượng vốn cam kết và thực tế sử dụng đều vượt số tương ứng của các loại hình chung vốn và hợp tác kinh doanh. Năm 1994, các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tăng 34% so với năm trước. Đặc biệt, quy mô mỗi hạng mục được mở rộng, các hạng mục kỹ thuật cao - mới của các khu khai thác kinh tế kỹ thuật ven biển đã nâng cao từ 10% trong mấy năm trước lên 30% năm 1994. Quy mô mỗi hạng mục tăng từ 1,8 triệu USD năm 1993 lên 2,2 triệu USD năm 1994. b. Từng bước xoá bỏ các chính sách ưu tiên đối với FDI thông qua tái điều chỉnh biểu thuế quan cho phù hợp với các xu hướng mới của quốc tế. Các chính sách này được bắt đầu thực hiện từ 1/4/1996 với việc xoá bỏ các điều khoản miễn, giảm thuế nhập khẩu thiết bị và nguyên vật liệu cho các Xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các Xí nghiệp ở các đặc khu kinh tế. Ngày 1/1/1988, Trung Quốc đã quyết định miễn giảm thuế hải quan đối và thuế giá trị gia tăng cho việc nhập khẩu các thiết bị phục vụ sản xuất, đồng thời còn công bố Chỉ dẫn ĐTNN vào các ngành, trong đó các lĩnh vực được khuyến khích là: - Nông nghiệp: ngũ cốc, rau quả, thịt, bảo quản các sản phẩm thuỷ sản, kỹ thuật mới để bảo quản thực phẩm tươi sống, sử dụng kỹ thuật tổng hợp và chế biến các loại sản phẩm mới từ tre, kỹ thuật phục vụ tưới tiêu và bảo quản nguồn nước, kỹ thuật mới chế tạo máy nông nghiệp. - Các loại vật liệu xây dựng mới như các vật liệu làm tường, vật liệu trang trí và sửa chữa, vật liệu chịu nhiệt và không thấm nước (đặc biệt coi trọng việc phục vụ xây dựng nhà ở). - Dịch vụ: thương mại quốc tế, khoa học kỹ thuật, tư vấn bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng đã nới lỏng những hạn chế về các lĩnh vực được nhận FDI. Danh mục ưu tiên được áp dụng đối với nhiều loại kỹ thuật và sản phẩm. Nhiều lĩnh vực trước kia còn hạn chế, nay cũng được mở ra cho các nhà ĐTNN và Trung Quốc sẽ tiếp tục xem xét đưa ra nhiều điều khoản thuận lợi để khuyến khích FDI vào các khu miền Trung và miền Tây. Hiện FDI được mở ra cho hầu như mọi lĩnh vực. Một số hạn chế về thị trường cũng được xoá bỏ thông qua từng bước loại dần các quy định về tỷ lệ hàng hoá giành cho xuất khẩu. c. Thúc đẩy cải cách tài chính và cải cách hệ thống ngoại thương, giảm tối thiểu những hạn chế cho hoạt động của các Xí nghiệp dùng vốn nước ngoài. Từ 1/12/1996, việc Trung Quốc thực hiện chuyển đổi đồng Nhân dân tệ (NDT) trong tài khoản vãn lại đã giúp các Xí nghiệp dùng vốn nước ngoài loại trừ được những hạn chế trong thanh toán quốc tế - chi trả các đối tác bên ngoài và chuyển lợi nhuận về nước. Điều này làm cho Trung Quốc có thêm sức hấp dẫn đối với các nhà ĐTNN. Bên cạnh đó, các liên doanh hoạt động trong lĩnh vực thương mại cũng được phép thành lập các cơ sở kin

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan