Đề tài Thực trạng huy động vốn trong các doanh nghiệp Việt Nam

MỤC LỤC

A.Lời mở đầu: 1

B.Các nguồn vốn của doanh nghiệp ,phương thức huy động vốn và thực trạng của từng phương thức: 2

I/Vốn chủ sở hữu: 2

1/Vốn góp ban đầu 2

2/Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia 3

3/Phát hành cổ phiếu 4

II.Nợ: 6

1/Vốn vay ngân hàng: 6

2/Tín dụng thương mại: 7

3. Phát hành trái phiếu công ty: 8

III. Thực trạng huy động vốn đầu tư của doanh nghiệp dân doanh: tất cả các dòng đều “tắc”: 9

1. Vì sao bị tắc? 9

C. Một số đề xuất giải quyết thực trạng huy động vốn của các doanh nghiệp Việt Nam: 12

I. Giải pháp nào để khai thông cho các “dòng kênh vốn”: 12

II.Huy động vốn một cách thông minh: 13

1. Nuôi dưỡng các nhà đầu tư là một nhiệm vụ dài hạn. 13

2. Những buổi hẹn đầu tiên: 15

3. Xây dựng mối quan hệ: Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên, hãy gửi một tấm thiệp hay một email cảm ơn. 16

4. Gắn kết: Khi sẵn sàng đề cập tới chủ đề tiền bạc, bạn có thể thấy rằng không quá khó khăn với việc đưa ra một gợi ý. 16

III.Huy động vốn đầu tư mạo hiểm: 17

IV.Phát hành cổ phiếu doanh nghiệp theo luật : 18

C. Lời kết: 21

 

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3559 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng huy động vốn trong các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiềm năng phát triển khác từ các cổ đông và đối tác mới ở trong và ngoài doanh nghiệp, trong nước và nước ngoài... * Cải thiện thu nhập và dân chủ về kinh tế cho các cổ đông, người lao động, tạo ra hình ảnh và chất lượng mới về tổ chức, cơ chế vận hành và đời sống doanh nghiệp hiện đại. * Tăng hiệu quả, lợi nhuận kinh doanh, cũng như tạo ra nhiều việc làm mới cho doanh nghiệp do được tiếp thêm các xung lực tích cực trên…Từ đó, góp phần nâng cao sức cạnh tranh và cải thiện vị thế hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam trong đời sống kinh tế-xã hội trong nước và thế giới. Ưu điểm của nguồn này là có thể huy động được một khối lượng vốn rất lớn, gần như là không giớí hạn nếu doanh nghiệp đáp ứng tốt các điều kiện đòi hỏi của cổ đông. Nhược điểm của nó là phải mất một khoản chi phí phát hành, bao gồm cả tiền bạc lẫn thời gian. Thực trạng không tốt: - Nhiều doanh nghiệp phát hành cổ phiếu không đúng với giá trị thực của công ty, gây ra tâm lý bất ổn với các nhà đầu tư. Hậu quả gần đây nhất chính là việc đổ vỡ thị trường chứng khoán, và nhà nước cũng đã phải vào cuôc. Huy động vốn trong thị trường này thường mang tính mạo hiểm cao - Người đầu tư chưa đủ kiến thức, đầu tư theo xu hướng, những doanh nghiệp có khả năng phát triển cổ phiếu đôi khi lại không được chú trọng, đât cũng là một bất cập II.Nợ: Để bổ sung cho nguồn vốn kinh doanh, ngoài vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ 3 nguồn: 1/Vốn vay ngân hàng: Có thể nói vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ với sự phát triển của bản thân doanh nghiệp mà còn cả với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn. Không một doanh nghiệp nào có thể tồn tại vững chắc trên thương trường mà không vay vốn ngân hàng. Về mặt thời gian, vốn vay ngân hàng phân làm 3 loại: vay dài hạn (từ 3 đến 5 năm trở lên), vay trung hạn (từ 1năm đến 3 năm), và vay ngắn hạn (dưới 1 năm). Các tiêu chuẩn này có thể thay đổi tuỳ theo quốc gia, và cũng có thể khác nhau giữa các ngân hàng thương mại. Tuỳ theo mục đích sử dụng tài sản, cũng có thể phân ra làm các loại như sau: cho vay đầu tư tài sản cố định, cho vay để đầu tư tài sản lưu động, cho vay để thực hiện dự án. Cũng có những cách phân chia khác như: cho vay theo nganh kinh tế, theo lĩnh vực phục vụ hoặc theo hình thức bảo đảm tiền vay. Ưu điểm của nguồn này là có khối lượng huy động khá lớn, đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng sản xuất, hay đầu tư sản xuất vào chiều sâu của doanh nghiệp. Tuy vậy nguồn vốn này vũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn (lãi suất): -Điều kiện tín dụng: muốn vay vốn của ngân hàng, đầu tiên, doanh nghiêpj cần đáp ứng các yêu cầu về đảm bảo an toàn tín dụng của ngân hàng. Doanh nghiệp cần xuất trình hồ sơ vay vốn, đánh giá các thông tin liên quan đến dự án, hoặc kế hoạch đầu tư sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các bảo đảm tiền vay. Trong thực tế, một doanh nghiệp có thể phải hoàn tất nhiều thủ tục rườm rà mới có thể vay vốn của ngân hàng. -Sự kiểm soát của ngân hàng: một khi doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng, doanh nghiệp phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay. Nói chung sự kiểm soát không gây khó khăn cho doanh nghiệp, tuy nhiên trong một số trường hợp , điều đó cũng làm doanh nghiệp có cảm giác bị “kiểm soát”. -Lãi suất vốn vay: phản ánh chi phí mà doanh ngiệp phải chịu khi sử dụng vốn của ngân hàng. Nó phụ thuộc tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất quá cao thì doanh nghiệp sẽ phải chịu chi phí vốn lớn, làm giảm thu nhập của doanh nghiệp. 2/Tín dụng thương mại: Các doanh nghiệp cũng thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại, hay còn gọi là vốn tín dụng của người cung cấp. Nguồn vốn này hình thành tự nhiên thông qua hoạt động mua bán chịu hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp. Khi mua bán chịu, doanh nghiệp sẽ có cơ hội sử dụng nguồn tiền mua chiu chưa trả ngay để đem đi đầu tư vào việc khác, có thể sinh ra nột khoản lãi khác. Các điều kiện ràng buộc cụ thể sẽ được các bên ấn định khi ký kết hợp đồng. Đối với doanh nghiệp, tài trợ bằng tín dụng thương mại là một nguồn rẻ tiền, dễ dàng, tiện dụng và linh hoạt, vì thông thường tín dụng thương mại không mất chi phí sử dụng vốn. Và trong một số trường hợp, bên mua còn được hưởng lãi chiết khấu tra sớm. Nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ làm ăn lâu dài cho các bên. Tuy nhiên, tài trợ bằng tín dụng thương mại cũng có những hạn chế nhất định: quy mô thường hạn chế và thông thường là tín dụng ngắn hạn. 3. Phát hành trái phiếu công ty: Trái phiếu (còn được gọi là trái khoán) là tên chung của các giấy vay nợ dài hạn và trung hạn. Trái phiếu bao gồm trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty. Trên các nước hiện nay thường lưu hành các loại trái phiếu công ty như sau: -Trái phiếu có lãi suất cố định: là loại thường được sử dụng nhiều nhất, phổ biến nhất trong các loại trái phiếu doanh nghiệp. Đặc điểm của loại trái phiếu này là có lãi suất ghi trên mặt phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của trái phiếu. Đồng thời việc thanh toán lãi phiếu cũng được ghi rõ trên trái phiếu, ví dụ trả 2 lần trong một năm. -Trái phiếu có lãi suất thay đổi: là loại trái phiếu có lãi suất phụ thuộc vào một số nguồn lãi suất quan trọng khác, ví dụ lãi suất LIBOR (London Interbank Offered Rate), hay lãi suất cơ bản Pr (Prime Rate). Loại trái phiếu này phát huy tính ưu việt của nó trong điều kiện thị trường có mức lạm phát cao, và lãi suất không ổn định. Tuy nhiên thì nó cũng có một vài nhược điểm: doanh nghiệp không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay, gây khó khăn một phần cho việc lập kế hoạch tài chính. Đồng thời việc quản lý trái phiếu đòi hỏi nhiều thời gian hơn do doanh nghiệp phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất. -Trái phiếu có thể thu hồi: một số doanh nghiệp chọn cách phát hành những trái phiếu có thể thu hồi được, tức là doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời gian nào đó. Khi phát hành doanh nghiệp phải thông báo rõ thời gian và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại những trái phiếu đó. Ưu điểm của loại trái phiếu này là có thể sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn mà doanh nghiệp sử dụng. Khi không cần thiết, doanh nghiệp có thể mua lại trái phiếu, tức giảm số vốn vay. Và doanh nghiệp có thể thay đổi nguồn tài chính do phát hành trái phiếu loại này bằng một nguồn tài chính khác thông qua mua lại các trái phiếu đó. Tuy nhiên nó lại có nhược điểm là nếu không có điều kiện gì hấp dẫn thì nó sẽ không đựoc ưa thích. -Chứng khoán có thể chuyển đổi: bao gồm 2 loại là giấy bảo đảm (warrant) và trái phiếu chuyển đổi (convertible bond). Với giấy bảo đảm người sở hữu có thể mua một số lượng cổ phiếu thường được quy định trước với giá cả va thời gian xác định. Còn trái phiếu chuyển đổi là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi thành một số cổ phiếu thường. Nếu thị giá cổ phiếu tăng thì người tiêu dùng có cơ may nhận được lợi nhuận cao. Nói chung là sự chuyển đổi và lựa chọn cho phép các bên có thể lựa chọn cách thức đầu tư có lợi và thích hợp. III. Thực trạng huy động vốn đầu tư của doanh nghiệp dân doanh: tất cả các dòng đều “tắc”: Những năm qua, cùng với sự tăng lên nhanh chóng về số lượng các doanh nghiệp dân doanh, tỷ lệ các doanh nghiệp hoạt động trong khu vực sản xuất năm sau cao hơn năm trước. Để tổ chức sản xuất, các doanh nghiệp phải có nhà máy, phải có đất, có công nghệ, thiết bị và đương nhiên là phải có vốn đầu tư dài hạn. Do đó, nhu cầu về vốn đầu tư dài hạn của các doanh nghiệp tăng lên đột biến. Nhưng hiện nay ở nước ta, tất cả các kênh huy động vốn đầu tư dài hạn đối với các doanh nghiệp dân doanh đều ... bị tắc. Vì sao vậy? Có cách nào giải quyết, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp để phát huy nội lực? 1. Vì sao bị tắc? Để chỉ ra nguyên nhân của sự “tắc nghẽn” dòng vốn vay cho đầu tư dài hạn nêu trên, phải xuất phát từ đặc điểm cơ bản nhất của các doanh nghiệp dân doanh Việt Nam và phân tích các kênh huy động vốn của họ. Đặc điểm dễ thấy nhất của các doanh nghiệp dân doanh Việt Nam là quy mô nhỏ, vốn rất ít. Theo một số liệu điều tra, vốn điều lệ bình quân cho một doanh nghiệp dân doanh tính đến năm 2004 khoảng 2 tỷ đồng. Vốn điều lệ bao gồm cả vốn cố định và vốn lưu động và tính theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Nếu điều tra kỹ hơn từ sổ sách kế toán thì số bình quân trên chắc sẽ thấp hơn nhiều. Điều ấy cũng không có gì lạ. Bởi lẽ, doanh nghiệp dân doanh Việt Nam là lực lượng “sinh sau, đẻ muộn” chưa qua giai đoạn “tích lũy nguyên thủy”. Để huy động vốn cho dự án đầu tư, các doanh nghiệp dân doanh nước ta đang theo những kênh nào? Kênh thứ nhất Vay từ các ngân hàng thương mại. Ở kênh này, phần lớn các doanh nghiệp dân doanh đều gặp những vướng mắc sau: Trước hết, phải có Báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án đầu tư. Việc tự viết được Báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án đầu tư không thể là phổ biến đối với các chủ doanh nghiệp dân doanh của chúng ta. Đi thuê tư vấn ư? Chẳng biết dự án có vay được vốn hay không nhưng phải trả ngay phí viết dự án khoảng 10 triệu đồng, xót ruột lắm! Tuy nhiên, cũng không ít giám đốc sẵn sàng thuê viết báo cáo này. Có được Báo cáo nghiên cứu khả thi khoa học và thực tế rồi, phải trình “cấp có thẩm quyền chấp thuận”. Đây là một nghịch lý và là biểu hiện sinh động nhất cho cái “quán tính cửa quyền” trong quản lý Nhà nước ở Việt Nam. Ở những dự án này, Nhà nước không góp vốn, người bỏ vốn đầu tư là chủ doanh nghiệp, mọi rủi ro chủ doanh nghiệp phải chịu. Thế mà họ lại phải “xin”  một ông ở tít xa, thậm chí chẳng hiểu gì về dự án đầu tư, ký quyết định chấp thuận. Đương nhiên, không có “phong bì” thì không thể có được chữ ký và con dấu chấp thuận ấy! Đính kèm Báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án đầu tư để trình cho ngân hàng nhất thiết phải có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc lấy được cái Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở nước ta hiện nay quả là một “con đường đau khổ” đối với các doanh nghiệp. Khi hồ sơ vay vốn được nộp vào ngân hàng, những “khiếm khuyết nội tâm” sẽ “phát huy tác dụng”. Theo nguyên tắc, ngân hàng chỉ cho vay tối đa 70% tổng vốn đầu tư. Vì vậy, chủ đầu tư phải giải trình và chứng minh được 30% còn lại là vốn tự có. Một dự án quy mô nhỏ có tổng đầu tư khoảng 10 tỷ đồng, chủ đầu tư phải chứng minh là đã có 3 tỷ đồng. Không ít chủ đầu tư đành chào thua! Doanh nghiệp phải nộp trong hồ sơ vay vốn Báo cáo tài chính của ít nhất là hai năm gần nhất. Để tránh thuế thu nhập doanh nghiệp, kết quả kinh doanh trong báo cáo tài chính thường “được để” rất thấp, thậm chí có trường hợp bị lỗ  đến hết cả vốn điều lệ. Căn cứ vào báo cáo tài chính đã lập thì ngân hàng không dám cho vay vì hiệu quả kinh doanh... quá thấp. Quả là “gậy ông lại đập lưng ông”! Hồ sơ của dự án nào may mắn vượt qua được tất cả những vướng mắc trên thì cái khó lớn nhất xuất hiện: tài sản thế chấp cho khoản vay. Để vay được 7 tỷ đồng phải có một lượng giá trị tài sản thế chấp 10 tỷ đồng. “Cửa ải” này mới thực là khó vượt. Sau tài sản thế chấp là lãi suất tiền vay. Ngân hàng thương mại là đơn vị kinh doanh tiền tệ. Vì vậy, lãi suất tiền vay mà ngân hàng thu được phải lớn hơn lãi suất tiền gửi mà ngân hàng phải chi ra. Với lãi suất 1%/tháng trên số vốn vay, không ít chủ đầu tư “hoa cả mắt” và xin “tự nguyện” rút lại hồ sơ vay. Kênh thứ hai Vay từ Quỹ hỗ trợ phát triển. Đây là một kênh vay vốn đặc biệt. Mục đích của quỹ này là hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp. Ưu thế khi vay được vốn ở quỹ này là hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp. Ưu thế khi vay được vốn ở quỹ này là lãi suất khá thấp (hiện nay đang ở mức 6,7%/năm, tính theo VND). Hơn nữa, quỹ còn chấp nhận cho thế chấp bằng tài sản hình thành từ nguồn vốn vay. Thế nhưng, vay được vốn từ kênh này cũng đâu có dễ. Quan trọng nhất là dự án phải nằm trong danh mục được vay trực tiếp từ quỹ. Có lẽ vì nền kinh tế của nước ta đã phát triển quá mức rồi cho nên cái danh mục được vay trực tiếp từ quỹ này đã bị cắt đi rất nhiều so với trước đây theo Quyết định số 54/QĐ-BTC của ông Bộ trưởng Bộ Tài chính. Nếu đã lọt được vào danh mục, hồ sơ khi vay ở Quỹ hỗ trợ phát triển cũng y chang như vay ở ngân hàng thương mại. Cho nên những khó khăn các doanh nghiệp dân doanh gặp phải khi vay vốn ở ngân hàng thương mại lại xuất hiện ở đây với tầm cao hơn. Kênh thứ ba Vay từ nước ngoài. Có thể nói kênh này chỉ xuất hiện trong những trường hợp đặc biệt . Khó khăn không thể vượt qua được khi vay vốn của một tổ chức tài chính nước ngoài, kể cả theo phương thức “người bán cho vay”, tức là, khoản vay được chuyển bằng hàng hóa, ai là người bảo lãnh cho khoản vay? Nếu tổ chức tài chính nước ngoài yêu cầu phải có bảo lãnh của Nhà nước thì các doanh nghiệp dân doanh “xin đừng mơ ước nữa”. Nhà nước chỉ bảo lãnh cho các doanh nghiệp Nhà nước của mình thôi. Nếu tổ chức tài chính nước ngoài yêu cầu có bảo lãnh của một ngân hàng thương mại có uy tín thì để có được “Giấy bảo lãnh” đó, những khó khăn xuất hiện cũng tương tự với việc vay trực tiếp! C. Một số đề xuất giải quyết thực trạng huy động vốn của các doanh nghiệp Việt Nam: I. Giải pháp nào để khai thông cho các “dòng kênh vốn”: Thực hiện các biện pháp tích cực và hiệu quả để khai thông cho các dòng kênh vốn là đòi hỏi cấp bách hiện nay. Theo suy nghĩ bước đầu của chúng tôi, cần thực hiện những biện pháp sau đây: Thứ nhất, với các ngân hàng thương mại, cần nghiên cứu để áp dụng biện pháp cho vay “tín chấp” thay thế cho việc phải thế chấp tài sản – một hình thức “cầm đồ cao cấp” trong quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp và ngân hàng hiện nay. Khi những thông tin để có thể áp dụng phương thức “tín chấp” chưa đủ, có thể nghiên cứu áp dụng biện pháp chấp nhận thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay một cách phổ biến hơn nữa. Đồng thời, với những khoản vay dài hạn, cũng nên nghiên cứu để có một mức lãi suất thấp hơn cho vay ngắn hạn. Có thể nói, cho vay dài hạn cũng như “bán buôn”, lãi suất cho một đơn vị sản phẩm thấp nhưng với số lượng lớn thì tổng tiền lãi thu được cũng không nhỏ. Thứ hai, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chủ trương thành lập quỹ này đã có từ lâu. Theo đề án thành lập, quỹ này có ý nghĩa rất quan trọng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Quỹ này cũng đã “quên” bảo lãnh cho các doanh nghiệp dân doanh. Thứ ba, cần xem xét, sửa đổi, bổ sung Nghị định số 106/2004/NĐ-CP ngày 01/4/2004 của Chính phủ và Quyết định só 54/2004/QĐ-BTC ngày 16/6/2004 của Bộ trưởng Bộ Tài chính theo hướng mở rộng hơn nữa danh mục các dự án được vay vốn trực tiếp từ Quỹ hỗ trợ phát triển. Các dự án đầu tư dài hạn vào lĩnh vực sản xuất, đổi mới công nghệ là nhân tố tác động quan trọng nhất và trực tiếp đến sự phát triển của đất nước. Vì vậy, thu hẹp danh mục được vay trực tiếp từ quỹ này là đi ngược lại yêu cầu khách quan của kinh tế. Thứ tư, về quản lý vĩ mô nền kinh tế, cần nhanh chóng thực hiện những biện pháp nhằm bảo đảm sự minh bạch về tài sản, thu nhập và thực hiện các nghĩa vụ thuế. Những biện pháp đó sẽ giúp các ngân hàng và tổ chức tín dụng mạnh dạn thực hiện phương thức cho vay tín chấp, tháo gỡ một khó khăn lớn nhất hiện nay trong việc vay vốn của các doanh nghiệp dân doanh. II.Huy động vốn một cách thông minh: Một thời điểm nào đó trên chuyến hành trình, hầu hết các công ty đều cần tới những đồng vốn góp từ mọi người. Mặc dù nhiều chủ công ty nhỏ có các ý tưởng tuyệt vời cùng nhiều mặt hấp dẫn, họ thường không tận dụng hiệu quả các mối quan hệ vốn có thể mang lại các đồng vốn khi cần thiết.  “Các chủ công ty có thể chìm ngập trong các công việc thường nhật tại công ty mà không thế đủ thời gian để lãng mạn với những người họ cần tới nhằm đầu tư tiền vào công ty”, Jerold Panas, CEO của hãng Jerold Panas, Linzy & Partners, một công ty chuyên về tư vấn huy động vốn tại Mỹ cho biết. Ông còn là tác giả cuốn Asking: A 59-Minute Guide to Everything Board Members, Volunteers, and Staff Must Know to Secure the Gift (Việc đặt câu hỏi: Cẩm nang hướng dẫn 59 phút mà các nhà quản trị, các tình nguyện viên và nhân viên phải biết để có được năng khiếu này).  Những chất xúc tác là chưa đủ. “Một mối quan hệ sẽ không đảm bảo cho bạn kêu gọi vốn góp hiệu quả”, Edward Zimmerman, chủ tịch Quỹ đầu tư mạo hiểm AngelVineVC, nhận định, “Bạn vẫn phải hành động. Luôn có một vài mối quan hệ sẽ đóng vai trò quant trọng hơn cả trước khi giao dịch hoàn tất”.  Nhiều chủ công ty không cảm thấy thoải mái khi ngỏ lời xin vốn góp. Song những nhà huy động vốn chuyên nghiệp dành tất cả thời gian của họ cho công việc này và thật thông minh khi các chủ công ty áp dụng một vài thủ thuật của họ.  Hơn tất cả, những hồi hộp và lo lắng về việc kêu gọi vốn góp sẽ mờ dần khi bạn chậm rãi xây dựng các mối quan hệ với những người sẽ thực sự quan tâm tới công ty bạn và sẵn sàng mở sổ viết các tấm séc cho bạn.  Tìm kiếm các nhà góp vốn tiềm năng 1. Nuôi dưỡng các nhà đầu tư là một nhiệm vụ dài hạn. "Phải có được lòng tôn trọng. Cảm xúc phải được đốt cháy”, David Lansdowne, nhà tư vấn huy động vốn và tác giả cuốn sách Fund Raising Realities Every Board Member Must Face (Các thực tế huy động vốn mà mọi thành viên ban giám đốc phải đối mặt).  Để thành công, các công ty cần theo đuổi những nhà đầu tư tiềm năng trong một thời gian dài trước khi cần tới nguồn tiền của họ. “Chúng tôi luôn háo hức hơn nhiều trong việc nói chuyện với các chủ công ty khi họ không huy động vốn. Nó cho chúng tôi thời gian để phát triển mối quan hệ mà không có sức ép kết thúc giao dịch”, Joel Cutler, giám đốc quản lý tại Quỹ đầu tư mạo hiểm General Catalyst Partners với số vốn hơn 1 tỷ USD, nhận định.  Bạn có thể có nhiều cơ hội tiếp cận các nhà đầu tư hơn bạn nghĩ. Các ngân hàng hay nhân viên kế toán hiển nhiên là những người trung gian, đồng thời đó có thể là một người hàng xóm làm việc trong một công ty luật chuyên về tài chính, một người bạn học cũ làm việc trong một Quỹ đầu tư mạo hiểm, hay một người thân trong gia đình đang điều hành một công ty đầu tư nào đó. Song trước hết đừng đề nghị những nhà đầu tư tiềm năng đó bất cứ điều gì ngoài việc giới thiệu về các bản thân bạn. Cutler cho biết: “Tôi không muốn nói chuyện với một nhân viên ngân hàng, một kế toán hay một luật sư. Tôi muốn nói chuyện với CEO. Đây là người sẽ phát triển các mối quan hệ và là nhân vật chính trong câu truyện huy động vốn”.  Tiếp theo lời giới thiệu nên là một bức thư hay email giải thích ngắn gọn những gì công ty bạn đang làm và tại sao các nhà đầu tư có thể muốn biết về nó. Song đừng đè nặng lên đôi vai các nhà đầu tư bằng các file PDF hay các bảng biểu excel với đầy các thông tin bán hàng tiếp thị.  Như nhận định của Cutler: “Một e-mail nói rằng tôi sẽ tạo ra hàng tỷ USD sẽ không giá trị bằng việc nói rõ: Tôi là một chủ công ty và đang tìm kiếm vốn huy động trong lúc này và tôi nghĩ quý vị sẽ quan tâm tới việc tìm hiểu về công ty tôi. Không biết quý vị có thời gian để hai bên cùng chat qua mạng đôi chút?”. Các đồng nghiệp và công ty cũ cũng có thể giúp đỡ. Từ lâu, Sheila Lirio Marcelo, sáng lập viên và CEO của Care.com, một công ty mới thành lập tại Massachuset, Mỹ với 25 nhân viên chuyên về cung cấp các dịch vụ trực tuyến, rất hy vọng một ngày nào đó có được một công ty của riêng mình. Cô đã gặp gỡ rất nhiều nhà đầu tư mạo hiểm tại các công ty mà cô làm việc. Cô có được mối quan hệ tốt với các nhà điều hành của Quỹ đầu tư mạo hiểm Matrix Partners.  Nhờ đó, giấc mơ của Marcelo đã trở thành hiện thực khi vào tháng 5 năm 2007, với 3,5 triệu USD từ Matrix, cô đã chính thức khai trương Care.com. Marcelo cho biết: “Bạn phải có một tầm nhìn dài hạn với từng công việc và mối quan hệ bạn có”.  Còn theo Panas, hãy tìm kiếm những nhà đầu tư tiềm năng với tất cả tình cảm không khác gì tình yêu của bạn dành cho các ý tưởng kinh doanh của mình. Đừng ngại ngần quăng một mẻ lưới rộng. Các nhà đầu tư luôn chờ mong các công ty tốt để trợ giúp và hạnh phúc tìm hiểu về chúng.  Travis Corcoran đã và đang tận dụng tối đa lợi thế của sự hăm hở đó. Hầu như ngay lập tức sau khi khai trương Smart-Flix vào tháng 1 năm 2005, Corcoran xây dựng các e-mail newsletter định kỳ hàng tháng về công ty 1 triệu USD và 10 nhân viên với mô hình kinh doanh cho thuê phim ảnh tương tự kiểu Netflix. Corcoran đã hỏi các nhà quản trị và giám đốc công ty mà ông quen biết trong các công việc trước đây xem họ có nhận được tập san của ông không. Nhiều người trả lời là có. Kể từ đó, số lượng người nhận được ngày một tăng cao, trong đó có không ít các nhà đầu tư vốn mạo hiểm.  2. Những buổi hẹn đầu tiên: Như trong bất cứ cuộc tán tỉnh trai gái nào, những buổi hẹn hò đầu tiên sẽ giúp bạn biết rõ về sở thích, mối quan tâm và nền tảng của người mà bạn đang theo đuổi. Bạn thường có thể tìm thấy một lượng lớn thông tin về mọi người trên mạng, bao gồm cả các sở thích cá nhân, những vấn đề chú ý và thậm chí là tài sản riêng. Hãy vào tìm kiếm tại Google cũng như nhiều trang mạng lưới kinh doanh khác tại địa phương. Hãy tìm xem nhà đầu tư tương lai của bạn thích nói chuyện về công việc tại bữa trưa, tại quán trà hay quán martini. Đồng thời, hãy luôn tuân theo các đề nghị về thời gian và địa điểm, thậm chí bạn phải hoãn lại cuộc họp trong một vài tuần hay một vài tháng. Bạn cần nhớ rằng mục tiêu của bạn là một mối quan hệ lâu dài. Các nhà huy động khuyên rằng việc xây dựng uy tín cho bạn trong thời điểm ban đầu là rất quan trọng. Nếu bạn chưa có được, hãy đặt ra các mục tiêu lợi nhuận rõ ràng mà bạn có thể chia sẻ với các nhà đầu tư tiềm năng. Hãy chắc chắn rằng bạn hiểu được bảng cân đối kế toán cũng như bất cứ điểm yếu nào của công ty mà người khác có thể đặt câu hỏi. Theo Zimmerman, sẽ không có con số kỳ diệu nào cho việc bao nhiêu lợi nhuận bạn nên có trước khi tiếp cận các nhà đầu tư, nhưng bạn cần cho thấy tại sao và làm như thế nào bạn mong đợi sự phát triển mạnh mẽ, và bạn có thể phải giải thích rõ các nhân tố cạnh tranh.  Chưa bao giờ và cũng không thật thông minh chút nào khi đề nghị các nhà đầu tư tiềm năng góp vốn ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên. “Không có gì là bất thường với việc gặp gỡ một nhà từ thiện hai đến ba lần trước khi các bên thảo luận về khoản tiền quyên góp”, Lansdowne cho biết, “Những lần gặp gỡ sớm đầu tiên này là quan trọng để xây dựng nền tảng cho mối quan hệ. Hãy dành thời gian để tìm hiểu về các sở thích lẫn mối quan tâm cá nhân cũng như kinh doanh của các nhà đầu tư”.  Hãy thể hiện niềm đam mê đối với sản phẩm hay ý tưởng của bạn, nhưng đừng khoe khoang về các thành công của bạn. Thay vào đó, hãy đề nghị nhà đầu tư cho bạn các lời khuyên. Có thế, họ sẽ cảm thấy gắn kết tình cảm với sự tăng trưởng của công ty bạn.  Tại giai đoạn này, bạn không nên hướng tới đơn lẻ một hai nhà đầu tư. Hãy gặp gỡ nhiều nhất các nhà đầu tư tiềm năng mà bạn có thể. Khi bạn biết về họ, phạm vi sẽ thu hẹp lại. “Chúng ta có thể nhanh chóng xác định ngay một công ty có ý tưởng tốt hay không tốt”, Michael Rolnick, giám đốc quản lý công ty đầu tư mạo hiểm ComVentures, cho biết, “Những gì chúng ta không thể nói ra ngay đó là một cá nhân nào đó có sâu sắc, có quản lý tốt, có tuyển dụng tốt, có bán hàng tốt hay không? Vì vậy, sẽ luôn hữu ích cho chúng ta với việc giảm thiểu rủi ro bằng việc biết rõ một ai đó và để một ai đó chúng ta biết xác nhận điều đó”.  3. Xây dựng mối quan hệ: Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên, hãy gửi một tấm thiệp hay một email cảm ơn. Hãy giữ cho các nhà đầu tư tiềm năng luôn quan tâm tới công ty bạn, cho dù đó là thông qua những cập nhập định kỳ hay các tấm thiệp thỉnh thoảng sau khi bạn gặp gỡ họ. Những nhà huy động vốn chuyên nghiệp như Panas cho rằng những tiếp xúc kiểu này nên định kỳ hàng tháng. Những người khác thì khuyên rằng bạn nên chia sẻ các thông tin quan trọng đặc biệt.  Mặc dù vậy, đa phần nhà đầu tư sẽ không muốn nhận thông tin từ bạn cho đến khi bạn giải quyết xong các vấn đề họ mang tới trong cuộc gặp đầu tiên. Rolnick cho biết: “Nếu tôi có các câu hỏi về một công ty, thời điểm thích hợp để tiếp xúc với tôi lần tiếp theo là khi các câu hỏi đó đã được trả lời đầy đủ”. Hãy sử dụng quãng thời gian này để cho thấy bạn đã ghi nhận rõ lời khuyên mà các nhà đầu tư tiềm năng đưa ra cho bạn. Zimmerman khuyên: “Hãy dừng cung cấp thông tin. Bạn có thể nhận được nhiều lời khuyên kinh doanh thích hợp trong quãng thời gian này, và đó là cách thức tuyệt vời cho các nhà đầu tư để họ tiếp bước cùng công ty bạn”.  Khi hoạt động kinh doanh của bạn có được một bước tiến mới về phía trước, thời điểm thích hợp cho việc đề xuất một cuộc gặp gỡ khác – nơi mà bạn đề xuất kêu gọi vốn góp – đã đến.  4. Gắn kết: Khi sẵn sàng đề cập tới chủ đề tiền bạc, bạn có thể thấy rằng không quá khó khăn với việc đưa ra một gợi ý. Corcoran tại SmartFlix chưa từng đề nghị bất cứ ai đầu tư vào, nhưng ông có những người tình nguyện. Trong newsletter của SmartFlix vào mùa hè năm nay, Corconran đề cập rằng dự đoán tăng trưởng là rất lạc quan, nhưng ông không chắc chắn cần tìm nguồn vốn ở đây. Trong vòng 2 ngày sau đó, ông đã c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11268.doc
Tài liệu liên quan