Đề tài Thực trạng kiểm soát nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

Phần I : Lý luận chung về nguồn vốn FDI và kiểm soát FDI 3

1. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài – FDI 3

1.1 Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài 3

1.2 Đặc điểm của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 4

1.3 Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài 4

1.3.1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh 4

1.3.2 Doanh nghiệp liên doanh 4

1.3.3 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài 5

1.3.4 Các hình thức khác 5

1.4 Tác động của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 5

1.4.1 Đối với nước nhập khẩu vốn 5

1.4.2 Đối với nước xuất khẩu vốn 9

2. Kiểm soát vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 10

2.1 Khái niệm kiểm soát nguồn vốn FDI 10

2.2 Vai trò của việc kiểm soát FDI 10

PHẦN II : THỰC TRẠNG VIỆC KIỂM SOÁT NGUỒN VỐN FDI TẠI VIỆT NAM 11

1. Quan điểm về kiểm soát FDI của Việt Nam 11

2. Quá trình kiểm soát FDI tại Việt Nam 12

2.1 Giai đoạn 2000 – 2002 12

2.2 Giai đoạn 2003 – 2007 13

2.3 Giai đoạn 2008 – nay 15

PHẦN III: Đánh giá kinh tế Việt Nam với quá trình kiểm soát nguồn vốn FDI những năm gần đây 17

1. Khả năng hấp thụ FDI của nền kinh tế 17

2. Thành tựu đạt được của việc kiểm soát FDI 18

2.1 Khối lượng FDI tăng qua các năm 18

2.2 Mức độ giải ngân FDI: tỷ lệ vốn thực hiện/ vốn đăng ký từ 2000 - 2010 19

2.3 Cơ cấu vốn đầu tư 20

2.3.1 Cơ cấu vốn theo ngành 21

2.3.2 Cơ cấu vốn theo vùng 23

2.3.3 Cơ cấu vốn theo đối tác 24

2.3.4 Cơ cấu vốn theo hình thức đầu tư 25

3. Hạn chế và nguyên nhân của việc kiểm soát FDI 26

Phần IV : Kết Luận 29

TÀI LIỆU THAM KHẢO 30

 

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2247 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng kiểm soát nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t khối lượng đáng kể người lao động ở nước nhận đầu tư vào làm việc tại các đơn vị của đầu tư nước ngoài. Điều đó góp phần đáng kể vào việc làm giảm bớt nạn thất nghiệp vốn là một tình trạng nan giải của nhiều quốc gia. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, nơi có lực lượng lao động rất phong phú nhưng không có điều kiện khai thác và sử dụng được. Thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là chìa khóa quan trọng để giải quyết vấn đề trên đây. Tuy nhiên sự đóng góp của FDI đối với việc làm trong nước nhận đầu tư thụ thuộc rất nhiều vào chính sách và khả năng kỹ thuật của nước đó. Tác động tiêu cực: Tạo ra 1 cơ cấu kinh tế bất hợp lý Do đầu tư chỉ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận nên nhà đầu tư chỉ bỏ vốn vào những ngành có tỷ suất sinh lời cao, dẫn đến hiện tượng FDI không được phân bổ đều, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của toàn xã hội. Chuyển giao công nghệ lạc hậu: Khi nói về vấn đề chuyển giao kỹ thuật thông qua kênh đầu tư trực tiếp nước ngoài ở phần trên,chúng ta đã đề cập đến một nguy cơ là nước tiếp nhận đầu tư sẽ nhận nhiều kỹ thuật không thích hợp. Các công ty nước ngoài thường chuyển giao những công nghệ kỹ thuật lạc hậu và máy móc thiết bị cũ. Do vậy việc chuyển giao công nghệ lạc hậu đã gây thiệt hại cho các nước nhận đầu tư như là: Khó tính được giá trị thực của những máy móc chuyển giao đó. Do đó nước đầu tư thường bị thiệt hại trong việc tính tỷ lệ góp trong các doanh nghiệp liên doanh và hậu quả là bị thiệt hại trong việc chia lợi nhuận. Gây tổn hại môi trường sinh thái. Do các công ty nước ngoài bị cưỡng chế phải bảo vệ môi trường theo các quy định rất chặt chẽ ở các nước công nghiệp phát triển, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài họ muốn xuất khẩu môi trường sang các nước mà biện pháp cưỡng chế, luật bảo vệ môi trường không hữu hiệu. Chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất cao và do đó sản phẩm của các nước nhận đầu tư khó có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới. Chi phí tiếp nhận vốn đầu tư trở nên rất đắt đỏ do để thu hút vốn các nước nhận đầu tư đó phải áp dụng nhiều chính sách ưu đãi như miễn thuế, giảm thuế… Xét về khía cạnh cạnh tranh: các doanh nghiệp trong nước thường có tính cạnh tranh kém hơn so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm và trình độ quản lý. Do vậy trong cuộc chiến giành thị phần các doanh nghiệp trong nước thường là người thua cuộc dẫn đến hoạt động kém hiệu quả hoặc phá sản làm cho lao động thất nghiệp gia tăng. Về mặt xã hội : Khu vực có được FDI phần lớn là các khu công nghiệp đòi hỏi diện tích rộng lớn dẫn đến một thành phần dân cư đó mất đất (dùng để xây dựng khu công nghiệp…). Ngoài ra đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể làm tăng tình trạng phân hóa giàu nghèo, sự di dân ồ ạt từ nông thôn ra thành thị gây ra sự xáo trộn xã hội pha trộn về văn hóa… Những mặt trái của FDI không có nghĩa là phủ nhận những lợi thế cơ bản của nó mà chúng ta chỉ lưu ý rằng không nên quá hy vọng vào FDI và cần phải có những chính sách, những biện pháp kiểm soát hữu hiệu để phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của FDI. Bởi vì mức độ thiệt hại của FDI gây ra cho nước chủ nhà nhiều hay ít lại phụ thuộc rất nhiều vào chính sách, năng lực, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn của nước nhận đầu tư. Đối với nước xuất khẩu vốn Tác động tích cực Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư do tận dụng được các nguồn lực sản xuất, khai thác được các ưu thế về điều kiện tự nhiên, nhân công của nước nhận đầu tư làm giảm chi phí kinh doanh, tăng lợi nhuận. Đầu tư nước ngoài giúp cho các doanh nghiệp hưởng ưu đãi từ nước nhận đầu tư nên tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu, do đó có khả năng bành trướng sức mạnh về kinh tế, nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Thông qua việc chuyển giao công nghệ cho các nước nhận đầu tư mà những nước đi đầu tư có thể chuyển giao được các công nghệ đã lỗi thời với nước họ, vừa tạo đầu ra cho công nghệ lại vừa thu được lợi nhuận. Kích cầu cho nước xuất khẩu vốn: từ việc tạo được đầu ra cho công nghê, các nước này sẽ tiếp tục nghiên cứu tìm ra các công nghệ mới, nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều sản phẩm mới Tác động tiêu cực Chủ đầu tư có thể gặp rủi ro cao nếu không tìm hiểu kĩ về môi trường đầu tư của nước sở tại. Có thể xảy ra chảy máu chất xám nếu trong quá trình chuyển giao chủ đầu tư để mất bản quyền sở hữu công nghệ và bí quyết sản xuất. Mất việc làm cho lao động ở nước nhà. . Kiểm soát vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Khái niệm kiểm soát nguồn vốn FDI Kiểm soát vốn là thực hiện các biện pháp can thiệp của chính phủ dưới nhiều hình thức khác nhau để tác động (hạn chế) lên dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào trong nước để nhằm đạt “mục tiêu nhất định” của Chính phủ. Vai trò của việc kiểm soát FDI Kiểm soát FDI cho phép tiếp cận nguồn FDI trong phạm vi có thể kiểm soát được, giúp chính phủ hoàn thành chính sách kinh tế vĩ mô và tăng kinh nghiệm quản lý. Kiểm soát dòng FDI là biện pháp hữu hiệu, vừa cho phép dòng FDI vào tạo cơ hội hoàn thiện thị trường trong nước, vừa ngăn ngừa các tác động tiêu cực của nó. Kiểm soát FDI tạo ra được một cơ chế bảo hiểm ngoại hối ngầm để bảo vệ sự ổn định tài chính – tiền tệ của một quốc gia trong bối cảnh kinh tế biến động đầy phức tạp và rủi ro. Đối với nền kinh tế của các nước đang phát triển, khi mà chưa có nhiều kinh nghiệm đối với nguồn vốn nước ngoài thì việc thả lỏng nguồn vốn sẽ mang lại những hậu quả khôn lường. Đối với Việt Nam, ngay từ ban đầu khi thực hiện các chính sách thu hút FDI thì đi kèm theo đó cũng chính là các biện pháp kiểm soát để tránh được các tác động xấu mà FDI mang lại. Nội dung vấn đề kiểm soát, thành tựu đạt được hay những hạn chế còn tồn tại, tất cả được thể hiện trong bức tranh thực trạng kiểm soát FDI tại Việt Nam. PHẦN II : THỰC TRẠNG VIỆC KIỂM SOÁT NGUỒN VỐN FDI TẠI VIỆT NAM Quan điểm về kiểm soát FDI của Việt Nam Kiểm soát vốn đầu tư đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Một số quan điểm cho rằng kiểm soát vốn là đi ngược với tiến trình việc tự do hóa tài chính, một số lại ủng hộ quan điểm cho rằng nên thực hiện kiểm soát vốn để hạn chế những tổn thất cho nền kinh tế. Tuy nhiên, trước diễn biến kinh tế ngày càng phức tạp, các dòng vốn có xu hướng ồ ạt chảy vào các thị trường mới nổi, và mong muốn theo đuổi chính sách kinh tế độc lập của chính phủ đã đề ra yêu cầu phải kiểm soát nguồn vốn trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu để bảo vệ nền kinh tế của một quốc gia.Trong dòng chảy của vốn nước ngoài vào Việt Nam hiện nay, thì nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI mang một tỷ trọng rất lớn, cùng với tỷ trọng lớn đó là vai trò có tính quyết định tới sự phát triển kinh tế. Vì vậy, các biện pháp thực hiện kiểm soát vốn FDI đóng vai trò hết sức quan trọng. Chính sách kiểm soát FDI được thể hiện rõ nét thông qua Nghị định 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 (Nghị định về quản lý ngoại hối). Để thực hiện đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải mở một tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ tại một tổ chức tín dụng được phép, đồng thời phải đóng tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ đã mở ở tổ chức tín dụng trước đó và chuyển toàn bộ số dư trên tài khoản này sang tài khoản mới. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được chuyển ra nước ngoài vốn điều lệ, vốn đầu tư trực tiếp, vốn vay, lãi và chi phí vay nước ngoài các nguồn thu hợp pháp có liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thông qua tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ, được sử dụng nguồn thu từ hoạt động đầu tư trực tiếp bằng đồng Việt Nam mua ngoại tệ tại tổ chức tín dụng được phép để chuyển ra nước ngoài trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày mua được ngoại tệ thông qua tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ. Quá trình kiểm soát FDI tại Việt Nam Thu hút FDI của Việt Nam đứng thứ 6 trên thế giới; riêng ở châu Á, Việt Nam chỉ đứng sau Trung Quốc, Ấn Độ. Dòng chảy của nguồn vốn này vào Việt Nam không ổn định, năm nhiều năm ít, lúc trồi lúc sụt do nhiều yếu tố, trong đó lệ thuộc vào sự quyết tâm đổi mới và hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam là quyết định. Suốt thời gian dài từ đó đến nay đã có khoảng 11.000 dự án được cấp giấy phép, tổng mức vốn đăng ký trên 163 tỷ USD nhưng tổng vốn thực hiện đạt chỉ khoảng 35%, chưa kể số dự án bị rút giấy phép hoặc đề nghị rút giấy phép. Quá trình kiểm soát FDI những năm gần đây có thể thông qua các giai đoạn chính sau: Giai đoạn 2000 – 2002 Trước tình hình FDI vào Việt Nam liên tục suy giảm (49% năm 1997, 16% năm 1998 và 59% năm 1999, một phần là do khủng hoảng tài chính châu Á) , nhà nước tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút và triển khai FDI. Chính phủ đã ban hành một loạt các văn bản để thu hút đầu tư như: Nghị định 12/CP ngày 18/2/1997 quy định chi tiết thi hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996; Nghị định 10/CP/1998 ngày 23/11/1998 về một số biện pháp khuyến khích và đảm bảo hoạt động FDI tại Việt Nam kèm theo danh mục các lĩnh vực, địa bàn khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư; Nghị định 62/1998/NĐ-CP ngày 15/8/1998 về đầu tư theo hợp đồng BOT –BTO –BT áp dụng đới với hoạt động FDI… Kết quả là giá trị FDI đăng ký tăng trở lại vào năm 2000 với mức 25,8% và 2001 với mức 22,6%, nhưng vẫn chưa được hai phần ba so với năm 1996. Năm 2002, FDI đăng ký lại giảm xuống còn khoảng 1,4 tỷ đô-la Mỹ, đạt khoảng 54,5% của mức năm 2001. Có nhiều nguyên nhân làm FDI giảm xuống. Trong đó chủ yếu là do sự xuống dốc của nền kinh tế toàn cầu theo sau sự tan vỡ của bong bóng công nghệ cao tại Mỹ cùng với khủng hoảng kéo dài tại Nhật bản đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nước châu Á. Giai đoạn 2003 – 2007 Sau khi ký hiệp định thương mại Việt Mỹ BTA cuối năm 2001 và gia nhập AFTA năm 2003, nguồn vốn FDI vào Việt Nam phục hồi và tăng trở lại, dù chậm nhưng đều; vốn thực hiện cũng được tăng theo. Bên cạnh đó, Việt Nam đã ký kết Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, Hiệp định tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư Việt - Nhật. Các hiệp định này là những cam kết theo đúng thông lệ quốc tế trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Mỗi hiệp định đề cao đến một khía cạnh. Chẳng hạn, Hiệp định tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư Việt - Nhật chú ý nhiều đến việc bảo hộ tài sản của các nhà đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam. Ngay trong khái niệm về đầu tư của Hiệp định, yếu tố bảo hộ tài sản cho nhà đầu tư Nhật Bản được thể hiện rất rõ. Đây là một hiệp định có lợi rất nhiều cho các nhà đầu tư Nhật Bản khi các nhà đầu tư Nhật Bản đầu tư ngày càng lớn lượng tài sản vào Việt Nam. Ngày 12/12/2005 Chính phủ ban hành đồng thời Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp. Hai luật này ra đời đã tạo ra nhiều cơ chế thoáng hơn cho nhà đầu tư nước ngoài. Luật Đầu tư Việt Nam đã khẳng định Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền của nhà đầu tư nước ngoài và có cơ chế khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn, tài sản và các khoản thu nhập hợp pháp khác vào Việt Nam cơ sở tôn trọng chủ quyền, phù hợp với pháp luật, bình đẳng và đôi bên cùng có lợi. Nhà đầu tư có quyền lựa chọn lớn về hình thức, địa bàn lĩnh vực quy mô và thời hạn đầu tư (có thể lên tới 70 năm). Theo Luật Đầu tư năm 2005, hình thức đầu tư được trên mở rộng thêm và đa dạng hơn, một trong những hình thức đó là hình thức sáp nhập và mua lại (M&A). Ngòai ra, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho nhà đầu tư nước ngoài đã được đưa vào Luật Đầu tư năm 2005; đó là yếu tố tăng cường an ninh trên lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh, lợí ích quốc gia, Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản của nhà đầu tư thì nhà đầu tư được thanh toán hoặc bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm công bố việc trưng mua, trưng dụng (Điều 6 Luật Đầu tư 2005)... Kết quả là năm 2006 nguồn vốn FDI tăng lên rất cao. Và đặc biệt, sau một loạt sự kiện: Cuối năm 2006, Việt Nam tổ chức thành công hội nghị APEC 14; Mỹ trao PNTR; và ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Từ đó, các nhà đầu tư nước ngoài đã hướng đến Việt Nam nhiều hơn, thể hiện cụ thể qua con số FDI tăng đột biến năm 2007 là 20,3 tỳ USD.. Giai đoạn 2008 – nay Đến năm 2008, tổng vốn FDI vào Việt Nam đã đạt 64 tỷ USD, vượt xa con số 20,3 tỉ USD của cả năm 2007. Nguồn vốn FDI năm nay còn có sự chuyển biến tích cực về chất. Cụ thể, quy mô vốn đầu tư trung bình cho một dự án đã tăng mạnh và đạt mức cao nhất từ trước tới nay với khoảng 68 triệu USD/dự án. Đặc biệt, dòng vốn này đã chảy vào những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như công nghiệp lọc dầu, luyện kim, bất động sản, cảng biển, khu công nghệ cao... Nếu như năm 2008 qua đi với nhiều dấu mốc ấn tượng, thì đến 2009 là sự giảm của FDI, tổng số vốn FDI của Việt Nam năm 2009 là 21,48 tỷ USD vốn đăng ký – giảm 1/3 so với năm 2008, sự giảm sút này là do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ, song bên cạnh đó, nguyên nhân lớn khác, là do chính sách kiểm soát nguồn vốn FDI đã hướng được cho con tàu FDI đi đúng hướng, các quan điểm của chính phủ đã kiên quyết hơn trong việc lựa chọn dự án,sàng lọc dự án để có thể thu được nguồn FDI “sạch”. Việc thu hút đầu tư cũng đã bắt đầu coi trọng quy hoạch phát triển ngành, vùng kinh tế theo nguyên tắc thị trường. Đặc biệt là có thái độ kiên quyết không cấp phép hoặc thu hồi giấy phép những dự án không có khả năng thực hiện, gây tác động xấu đến môi trường, kinh tế - xã hội…Chính phủ cũng đã thể hiện rất rõ quan điểm mình. Chẳng hạn như vừa mới đây, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký Thông báo số 129 thông báo ý kiến của Thủ tướng về một số tình hình đầu tư của nước ngoài tại Việt Nam. Theo đó, Thủ tướng yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư tập trung rà soát, điều chỉnh các quy định hiện hành về đầu tư nước ngoài để tránh việc cấp phép thực hiện các dự án đầu tư sử dụng công nghệ, thiết bị lạc hậu, có tác động xấu đến môi trường. Điều đó cho thấy một cách nhìn mới đối với FDI – một cách nhìn toàn diện, biện chứng hơn, một bước tiến bộ trong vấn đề kiểm soát FDI. Năm 2010, là năm FDI được dự báo với nhiều động thái mới , với sự  cải thiện khá rõ về quy mô vốn đăng ký/dự án, cơ cấu vốn đăng ký và mức giải ngân thực tế... Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, giải ngân vốn FDI  đạt khoảng 900 triệu USD trong tháng 4, nâng tổng số vốn FDI giải ngân trong 4 tháng đầu năm 2010 lên 3,4 tỷ USD, tăng tới 36% so với cùng kỳ năm 2009. Trung bình, giải ngân vốn FDI đạt khoảng 850 triệu USD/tháng. Đây là mức khá cao và tương đương giải ngân vốn FDI giai đoạn trước  suy thoái kinh tế. Về triển vọng, có nhiều cơ sở thực tế thế giới và trong nước để tin rằng thu hút FDI năm 2010 sẽ cao hơn mức tăng 10% so với năm 2009 mà Bộ Kế hoạch và Đầu Tư đặt ra. Các biện pháp kiểm soát FDI của Việt Nam thực hiện bao gồm trong đó là các kinh nghiệm được tích lũy qua từng năm. Nhờ đó mà FDI đi vào Việt Nam được kiểm soát, quản lý và mang lại lợi ích kinh tế, đóng góp cho sư tăng trưởng và phát triển xã hội. Tuy nhiên, do kinh nghiệm còn chưa nhiều, vẫn có những hạn chế từ những biện pháp kiểm soát. Thành tựu và hạn chế đạt được từ việc kiểm soát FDI cũng như khả năng hấp thụ của nền kinh tế được phản ánh qua sự đánh giá kinh tế Việt Nam với quá trình kiểm soát vốn FDI PHẦN III: Đánh giá kinh tế Việt Nam với quá trình kiểm soát nguồn vốn FDI những năm gần đây Khả năng hấp thụ FDI của nền kinh tế Thực tế cho thấy vốn FDI tập trung chủ yếu vào các ngành sản xuất, kinh doanh bất động sản và các ngành dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, du lịch … đây là những ngành yêu cầu cao về trình độ, trong khi đó nguồn cung lao động có thể đáp ứng được còn rất hạn chế. Thực trạng này khiến nhiều dự án qui mô lớn bị chậm tiến độ thực hiện. Vì vậy, nếu không có chính sách kinh tế hợp lý trong việc khuyến khích dịch chuyển lao động có tay nghề thì vị thế của Việt Nam dưới con mắt nhà đầu tư nước ngoài rất dễ bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó khối doanh nghiệp FDI cũng chính là khối có kim ngạch nhập khẩu rất lớn và là một trong những nhóm doanh nghiệp đóng góp “tích cực” vào con số nhập siêu tăng rất cao trong năm nay. Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI năm 2008 đạt 24,465 tỷ USD, chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, nhưng khối doanh nghiệp này cũng nhập khẩu tới 28,458 tỷ USD. Tổng nhập siêu xấp xỉ 4 tỷ USD của khối này đã chiếm gần 1/4 thâm hụt thương mại của Việt Nam năm 2008. Về vấn đề chuyển giao công nghệ, trong 20 năm thu hút đầu tư nước ngoài, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số hợp đồng chuyển giao công nghệ nước ngoài tại Việt Nam chỉ mới được ký kết khoảng 10 hợp đồng trong số khoảng 9.000 dự án đầu tư vào Việt Nam. Nhiều bí quyết công nghệ bên Việt Nam vẫn chưa làm chủ được. Điều này có nghĩa là Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài, năng lực nội sinh của công nghệ chưa được kiến tạo và phát huy. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dẫn đầu danh sách các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là các doanh nghiệp châu Á như: Malaysia với 14,8 tỷ USD (26%), Đài Loan với 8,6 tỷ USD (18,6%), Nhật Bản: 7,3 tỷ USD (15,7%), sau đó là Brunei, Singapore… trong khi các doanh nghiệp Mỹ chỉ chiếm 1,4 tỷ USD (3%). Điều đó phản ánh một thực tế là chúng ta mới chỉ tiếp cận được với các công nghệ trung bình hoặc trên trung bình của các nước trong khu vực. Thành tựu đạt được của việc kiểm soát FDI Khối lượng FDI tăng qua các năm Chỉ khởi điểm từ những con số khiêm tốn trong những năm đầu thu hút FDI thì dòng vốn FDI gần đây đã tăng lên đáng kể đạt được con số đỉnh điểm tại năm 2008 - năm đạt kỷ lục của Việt Nam về thu hút FDI với 64 tỷ USD vốn đăng ký và tỷ lệ vốn thực hiện cũng theo đó tăng lên cho thấy sự kiểm soát của nhà nước đã bắt đầu mang lại hiệu quả. Theo số liệu thống kê của FIA (Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 15-12-2009, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam năm 2009 đạt 21,48 tỷ USD vốn đăng ký. Mặc dù so với năm 2008 chỉ đạt bằng gần 1/3, song mục tiêu đề ra thu hút khoảng 20 tỷ USD vốn đăng ký trong năm cho thấy nguồn vốn FDI tuy giảm nhưng đã về đích thành công. Trong đó, vốn đăng ký mới của 839 dự án đạt 16,4 tỷ USD; vốn đăng ký bổ sung của 215 dự án được cấp phép từ các năm trước đạt 5,1 tỷ USD. Một điều đáng ghi nhận hơn cả là, nguồn vốn giải ngân của các dự án FDI trong năm 2009 đạt 10 tỷ USD (không tính phần góp của Việt Nam). Năm 2008 mức giải ngân cũng đạt khoảng 11,5 tỷ USD (vốn đăng ký mới năm 2008 đạt 64 tỷ USD). Tuy giảm so với năm trước, nhưng đây là một kết quả rất ấn tượng. Bên cạnh đó, xuất khẩu của khu vực kinh tế FDI trong năm 2009 đạt trên 27 tỷ USD (tính cả xuất khẩu dầu khí) đạt trên 52% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nếu không tính dầu thô, khu vực FDI xuất khẩu đạt gần 42% (giảm khoảng 2% so với năm 2008). Đây cũng là một thành công đáng ghi nhận. Trong năm 2009, có 39 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án được cấp phép mới đầu tư vào Việt Nam và có 43 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án FDI được cấp phép mới. Lần đầu tiên sau nhiều năm đầu tư vào Việt Nam, các nhà đầu tư Hoa Kỳ đã vươn lên chiếm vị trí số 1 về lượng vốn FDI đăng ký mới. Ước tính tổng số vốn đầu tư đăng ký mới của các nhà đầu tư Hoa Kỳ đạt trên 9 tỷ USD, chiếm khoảng 45% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam. Do đó, 2009 là năm đánh dấu những bước thay đổi đáng kể trong đường lối kiểm soát FDI – đó là công cuộc kiểm soát ưu tiên về chất lượng FDI. Sự thay đổi được các nhà kinh tế tạm gọi là khoảng lặng điều chỉnh này bước đầu mang lại dấu hiệu tốt trong thị trường nguồn vốn. Đó là sự “sàng lọc” hơn, cạnh tranh gay gắt hơn trong thời kỳ khủng hoảng trong thị trường vốn. Mức độ giải ngân FDI: tỷ lệ vốn thực hiện/ vốn đăng ký từ 2000 - 2010 Trong những năm đầu của thiên niên kỷ, tỷ lệ vốn được giải ngân FDI đạt khá cao( hơn 80%) tuy nhiên trong những năm sau đó, tỷ lệ này đã giảm hơn giảm đỉnh điểm tại năm 2008, đó là thực tế đáng ngại cho chính sách kiểm FDI những năm trước đây. Trong năm 2008, mặc dù lượng vốn đăng ký đạt trên 64 tỷ USD nhưng tỷ lệ vốn thực hiện chỉ đạt 11,5%. Có nhiều nguyên nhân dẫn đáng buồn này, có những lý do khách quan,do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ khiến cho dòng vốn thực hiện bị ứ lại,cũng có những lý do chủ quan, do sự kiểm soát thiếu chặt chẽ, thủ tục hành chính, việc thu hút vượt quá khả năng hấp thụ của nền kinh tế. Tuy vậy, bức tranh FDI đã có những điểm sáng hơn khi kết thúc 2009, dù lượng vốn cam kết thâp ( 1/3 của năm 2008) song tỷ lệ vốn thực hiện tăng lên đáng kể ( 50% vốn cam kết) đó là điểm mốc đánh dấu sự hiệu quả bước đầu của các chính sách kiểm soát FDI – chính sách mà các nhà kinh tế tạm gọi là khoảng lặng điều chỉnh của 2009. Khoảng lặng điều chỉnh không thể tránh của Việt Nam không nằm ngoài xu thế chung của thế giới (Hội nghị LHQ về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) cho biết dòng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) trên toàn cầu đã giảm tới 54% trong quý I/2009 trong khi triển vọng trong thời gian từ nay đến cuối năm vẫn rất ảm đạm). Song ở góc độ tích cực, giải ngân đã tốt hơn, nhập siêu của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã giảm nhiều so với năm trước, trong khi dòng vốn vào Việt Nam vẫn còn đó sự mất cân đối giữa các lĩnh vực, khu vực đầu tư… Việc điều chỉnh giảm của lượng vốn giải ngân, tuy có thể không tốt cho thâm hụt cán cân thương mại trong năm nay, nhưng xét trên phương diện khác thì đây là một mức giảm hợp lý. Khi khả năng của nền kinh tế Việt Nam là có hạn, một lượng vốn FDI quá lớn đổ vào trong lúc này khó có thể được hấp thụ đầy đủ. Và năm tháng đầu năm nay - 2010, tốc độ giải ngân nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đã tạo điểm nhấn trong “bức tranh” thu hút đầu tư. Lượng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm đạt 7,5 tỉ USD, trong khi lượng vốn giải ngân đạt tới 4,5 tỉ USD. Cục Đầu tư nước ngoài (FIA) cho biết: Đáng chú ý, lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đã vươn lên trở thành lĩnh vực thu hút vốn mạnh nhất trong các tháng đầu năm nay, cho thấy dòng vốn đầu tư không những phục hồi, mà đã có sự chuyển dịch tích cực. Cơ cấu vốn đầu tư 2.3.1 Cơ cấu vốn theo ngành STT Chuyên ngành Số dự án TVĐT (USD) % tổng vốn %tổng dự án Quy mô BQ 1 dự án 1 Công nghiệp và xây dựng 6,303 87,799,745,637 58,62 64,29 13,929,834 2 Nông, lâm nghiệp 976 4,792,791,569 3,2 9,95 4,910,647 3 Dịch vụ 2,524 57,182,184,193 38,18 25,76 22,655,382 4 Tổng 9,803 149,774,721,399 100 100 ( Nguồn : Tổng cục thống kê ) Tỷ trọng đầu tư vốn FDI vào ngành công nghiệp ở mức cao nhất với 58,62% vốn đăng kí, 64,29% tổng dự án. Tiếp đến là dịch vụ chiếm 38,18% tổng vốn đăng kí, 25,76% tổng dự án. thấp nhất là lĩnh vực nông lâm nghiệp. Vể quy mô bình quân dự án: mặc dù tỷ trọng đầu tư vào các ngành công nghiệp cao nhất song quy mô dự án bình quân thuộc ngành dịch vụ lại là lớn nhất, tiếp đến là các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp Trong năm 2009, có 215 dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 5,13 tỷ USD, bằng 98,3% so với năm 2008 trong đó dịch vụ lưu trú và ăn uống vẫn là lĩnh vực thu hút sự quan tâm lớn nhất của các nhà đầu tư nước ngoài với 8,8 tỷ USD vốn cấp mới và tăng thêm. Trong đó, có 32 dự án cấp mới với tổng vốn đầu tư là 4,9 tỷ USD và 8 dự án tăng vốn với số vốn tăng thêm là 3,8 tỷ USD. Kinh doanh bất động sản đứng thứ 2 với 7,6 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm. Trong đó có một số dự án có quy mô lớn được cấp phép trong năm như khu du lịch sinh thái bói biển rồng tại Quảng Nam, dự án Công ty TNHH thành phố mới Nhơn Trạch Berjaya tại Đồng Nai và dự án Công ty TNHH một thành viên Galileo Investment Group Việt Nam có tổng vốn đầu tư lần lượt là 4,15 tỷ USD, 2 tỷ USD và 1,68 tỷ USD Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo có quy mô vốn đăng ký lớn thứ ba trong năm 2009 với 2,97 tỷ USD vốn đăng ký, trong đó có 2,22 tỷ USD đăng ký mới và 749 triệu USD vốn tăng thêm. Và đến năm 2010 ,Tổng lượng vốn cả cấp mới và tăng thêm trong 5 tháng đầu năm là 7,5 tỉ USD, bằng 77% so với cùng kỳ 2009. Và đã có sự chuyển dịch tích cực về lĩnh vực thu hút đầu tư. Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo hiện đã thu hút thêm nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư với 127 dự án, tổng số vốn cấp mới và tăng thêm là 2,55 tỉ USD, chiếm 33,9% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực kinh doanh bất động đứng xuống vị trí thứ ba với 1,283 tỉ USD vốn thu hút mới, chiếm 17% tổng vốn đầu tư đăng ký. Đáng chú ý, trong số các dự án vào lĩnh vực công nghiệp, có nhiều dự án lớn thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp điện, sắt xốp được cấp phép như: Dự án Công ty TNHH điện lực AES-TKV Mông Dương tại Quảng Ninh với tổng vốn đầu tư 2,1 tỉ USD; Công ty sắt xốp Kobelco VN tại Nghệ An với tổng vốn đầu tư 1 tỉ USD; hai dự án của Công ty TNHH Skybridge Dragon Sea của Hoa Kỳ với tổng vốn đầu tư 902,5 triệu USD và Công ty TNHH Posco SS - Vina với tổng vốn đầu tư 620 triệu USD đều tại Bà Rịa - Vũng Tàu... Cơ cấu vốn theo vùng FDI 2009 theo vùng Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chiếm trên 60% Cơ cấu vốn theo đối tác Trong suốt một quá trình dài trước đây, thì phần lớn FDI đến với Việt Nam là từ khối ASEAN, tuy nhiên từ sau khi gia nhập WTO, xu thế đó đã thay đổi, nhờ có chính sá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc112307.doc
Tài liệu liên quan