Đề tài Thực trạng nghề nghiệp của người dân sau khi bàn giao đất cho khu công nghiệp khu dịch vụ du lịch

MỤC LỤC

Trang

PHẦN I: MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn

2.1. Ý nghĩa khoa học

2.2. Ý nghĩa thực tiễn

3. Mục tiêu nghiên cứu

4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

4.2. Khách thể nghiên cứu của đề tài

4.3. Phạm vi nghiên cứu

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp chọn mẫu bằng bảng hỏi

5.2. Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi

5.3. Phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân

5.4. Phương pháp quan sát và tham dự

5.5. Phương pháp phân tích tài liệu

6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết

6.1. Giả thuyết nghiên cứu

6.2. Khung lý thuyết

PHẦN II: NỘI DUNG

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1.Cơ sở lý luận

1.1.1. Cơ sở lý luận

1.1.2. Các lý thuyết áp dụng

1.1.2.1. Lý thuyết cơ cấu chức năng

1.1.2.2. lý thuyết hành động xã hội

1.1.2.3. Lý thuyết về sự lựa chọn hợp lý

1.1.2.4. Lý thuyết biến đổi xã hội

1.2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu

1.3. Những khái niệm công cụ

1.3.1. Cơ cấu nghề nghiệp

1.3.2. Khái niệm bàn giao

1.3.3. Khái niệm đất đai

1.3.4. Khái niệm khu công nghiệp

1.3.5. Khái niệm về Du lịch

1.3.6. Khái niệm về Dịch vụ

CHƯƠNG II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

I. Đặc điểm tình hình văn hóa – kinh tế - xã hội tại địa bàn nghiên cứu

1.Tiềm năng về phát triển kinh tế, du lịch của Huyện Tĩnh Gia

2. Tổng quan địa bàn xã Hải Hòa

II. Thực trạng của người dân xã Hải Hòa – Huyện Tĩnh Gia sau khi bàn giao đất cho khu công nghiệp, khu dịch vụ du lịch.

2.1. Nghề nghiệp hiện tại của người dân và các yếu tố liên quan

2.2. Đánh giá thực trạng nghề nghiệp của người dân sau khi bàn giao đất cho khu công nghiệp, khu du lịch dịch vụ và nguyên nhân của tình hình.

2.2.1. Những kết quả đạt được

2.2.2. Các yếu tố cơ bản tác động tới cơ cấu lao động xã sau khi bàn gia đất cho khu công nghiệp, khu dịch vụ du lịch.

2.2.3. Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân cơ bản của tình hình

PHẦN III: KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP

1. Kết luận:

2. Giải pháp:

3. Khuyến nghị:

 

 

 

 

 

doc54 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2075 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng nghề nghiệp của người dân sau khi bàn giao đất cho khu công nghiệp khu dịch vụ du lịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là dịch vụ du lịch, với lợi thế gần trung tâm Huyện có quốc lộ 1A đi qua, khu du lịch đang từng bước được hình thành nên các nhà hàng ăn uống, khách sạn, đại lý hàng tiêu dung, chế biến nông sản, hải sản, xây dựng, vận tải, cơ khí nhỏ, nghề thủ công thêu len, móc xuất khẩu phát triển mạnh tạo việc làm cho nhiều người dân tăng nguồn thu nhập. * Về xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng: Sử dụng nguồn vốn chương trình 275 của Chính phủ và chuyển đổi mục đích quyền sử dụng đất, đã xây dụng mới được 257 km đường nhựa với trị giá 2,5 tỷ đồng, 1670 m mương tưới tiêu kiên cố hóa trị giá 2,3 tỷ đồng và đang triển khai xây dựng mương tiêu ở một số thôn. Các trường học cơ bản đã đủ phòng học, trang thiết bị dạy và học được đầy đủ hơn, công sở xã khang trang, đang triển khai xây dựng nhà văn hóa ở một số thôn. * Công tác Quản lý đất đai, giải phóng mặt bằng: Tập trung chỉ đạo và cơ bản đã đưa công tác quản lý đất đai đúng luật đất đai, các thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất, chuyển nhượng đất đúng nguyên tắc. Đã lập hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 415 hộ chưa được cấp đất, lập hồ sơ thu hồi 68,31 ha đất để thực hiện các dự án khu du lịch nghỉ dưỡng biển thuộc Công ty Hiền Đức, dự án du lịch Côn Thanh, dự án khu nghĩa địa Cồn sim, dự án giao thông đường A1 đi biển Hải Hòa…và quy hoạch cấp quyền sử dụng đất cho 84 hộ với 1,05 ha. * Công tác tài chính: Các chỉ tiêu thu ngân sách cơ bản đều đạt và vượt kế hoạch. Thu ngân sách đạt 4 tỷ 527 triệu 100 nghìn đồng vượt 19,3 % kế hoạch. Trong đó thu trên địa bàn 3 tỷ 565 triệu 790 nghìn đồng. (số liệu báo cáo Ủy ban nhân dân năm 2010). * Công tác về văn hóa, thông tin, thể thao: Hoạt động văn hóa thông tin, thể dục thể thể thao chuyển biến tích cực tập trung tuyên truyền thực hiện nhiệm vụ chính trị phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xây dựng gia đình văn hóa, phong trào xây dựng làng văn hóa thực hiện nếp sống mới trong việc cưới, việc tang, phong trào văn hóa, văn nghệ ở các thôn, các đoàn thể được chú trọng, các làng văn hóa được giữ vững và phát triển mạnh. Năm 2010 gia đình đạt danh hiệu văn hóa 1.475 hộ đạt 75,3% trong đó có 800 gia đình đạt gia đình ông, bà mẫu mực, con cháu hiếu thảo. Phong trào thể dục thể thao mạnh ở các lứa tuổi, số người tham gia luyện tập thể dục thường xuyên ngày càng tăng. Ở mỗi thôn đều có đội bóng đá, bóng chuyền, đặc biệt là phong trào bóng đá nữ, bóng đá thanh thiếu niên tham gia thi đấu ở huyện, tỉnh đều đạt giải cao. * Công tác vệ sinh môi trường: thường xuyên phát động nhân dân làm tốt công tác vệ sinh môi trường, kiểm tra nhắc nhở mọi nhà nhất là cơ sở sản xuất kinh doanh, các trại chăn nuôi nhỏ và nhà hàng khách sạn làm tốt công tác vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm. * Về sự nghiệp giáo dục và đào tạo: (số liệu báo cáo tổng kết Ủy ban xã Hải Hòa năm 2010). - Giáo dục Mầm non: tổng số học sinh là: 210 cháu, số lên lớp 1 là 90 cháu, số cháu đạt bé khỏe, bé ngoan đạt 98%. Đội ngũ giáo viên từng bước được đào tạo chuẩn hóa. - Bậc Tiểu học: có 413 học sinh, xếp loại học lực khá, giỏi: 210 học sinh, trung bình: 74 học sinh, yếu: 3 học sinh. Giáo viên đạt chuẩn 100% trong đó 16 giáo viên xuất sắc, 10 giáo viên tiên tiến và 2 giáo viên giỏi cấp huyện. - Bậc Trung học cơ sở:tổng số 350 học sinh, chuyển lớp đạt 93%, học sinh tốt nghiệp lớp 9 đạt 95% tổng số 25 giáo viên có 5 giáo viên đạt chiến sỹ thi đuavà 17 giáo viên giỏi. Tỷ lệ học sinh thi đậu vào các trường Đại học: 22 em, Cao đẳng: 21em, 2 nhà trường giữ vững được danh hiệu chuẩn Quốc gia giai đoạn 1, đặc biệt là trường tiểu học đã hoàn thiện chuẩn bị đón nhận Trường chuẩn giai đoạn 2. * Công tác y tế dân số - Kế hoạch hóa gia đình. Sáu tháng đầu năm năm 2011 trạm y tế đã làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Đã khám điều trị tại trạm cho 924 lượt người. Trong đó khám phụ khoa 865 ca, điều trị phụ khoa 105 ca, các biện pháp khác 16 ca, tiêm phòng cho trẻ 67 cháu. Chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên, công tác dân số gia đình và trẻ em chuyển biến khá hơn trước, hệ thống y tế từ thôn đến xã được củng cố. Tỷ lệ sinh tự nhiên là 111 cháu (trong đó sinh con thứ 3 là 13 cháu = 11,7%); tỷ lệ sinh thô 16,6%. Công tác xây dựng xã chuẩn về y tế được chú trọng, đến nay qua kiểm tra của các cấp cơ bản đủ điều kiện công nhận xã chuẩn về y tế năm 2011. * Công tác xóa đói giảm nghèo, thực hiện an sinh xã hội. Thường xuyên được quan tâm chỉ đạo chặt chẽ để giải quyết kịp thời các chế độ chính sách theo quy định của Nhà nước đối với các hộ nghèo, các đối tượng thuộc chính sách xã hội tỷ lệ hộ nghèo năm 2010 là 240 hộ = 29,3% rà soát hộ nghèo giai đoạn 2011 – 2015 trong hộ nghèo 339 hộ = 18%; cận nghèo: 284 hộ = 15,3 %. Tiếp tục sử dụng nguồn vốn đầu tư của Chính phủ chương trình 275, các phong trào đền ơn đáp nghĩa - ướng nước nhớ nguồn, ngày vì người nghèo, xây dựng nhà đại đoàn kết cho hộ nghèo được chú trọng. Tổng số nhà xây dựng trong năm là 8 nhà bằng các nguồn tài trợ của Công ty Xi măng Nghi Sơn; hội người mù của huyện; Quỹ người nghèo Bộ đội biên phòng Tỉnh và đóng góp của nhân dân trong xã. Đảm bảo nhà ở và đời sống cho hộ nghèo. Ủy ban nhân dân xã và Ban chính sách xã hội đã làm tốt công tác rà soát các đối tượng được hưởng chính sách của xã hội toàn xã có 221 đối tượng số tiền trợ cấp hàng tháng là 215.426.000 đồng. Sáu tháng đầu năm đã cấp thể bảo hiểm cho 432 thẻ, mua thẻ bảo hiểm y tế cho hộ cận nghèo 13 thẻ và thể bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6 tuổi là 45 thẻ. Cấp tiền trợ cấp khó khăn theo Quyết định 417/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cho 200 đối tượng = 40. 500.000 đồng, cấp tiền ưu đãi học sinh, sinh viên là con thương binh cho 33 học sinh = 113.680.000 đồng mọi chế độ bảo trợ xã hội được đảm bảo và kịp thời, lập hồ sơ trợ cấp đối tượng người cao tuổi 12 người. Hỗ trợ sửa chữa, xây dựng nhà đại đoàn kết 21.915. 000 đồng. * Công tác bảo vệ an ninh chính trị và giữ gìn trật tự an toàn xã hội: An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, phạm pháp hình sự được kiềm chế, ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân được nâng lên, chương trình Quốc gia về phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư an toàn về an ninh trật tự tiếp tục được đẩy mạnh. Tổng số vụ việc xảy ra 25 vụ, trong đó phạm pháp hình sự 17 vụ = 17 đối tượng; vi phạm hành chính 8 vụ = 12 đối tượng; cảnh cáo 3 đối tượng, phạt tiền 9 đối tượng = 4.400.000 đồng; hòa giải 5 vụ = 10 đối tượng. Lập hồ sơ 4 đối tượng đưa vào quản lý theo Nghị định 163, phối hợp với Công an Huyện đưa 2 đối tượng vào trung tâm giáo dục. Công tác quản lý hành chính về trật tự xã hội được đảm bảo, công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, công tác tiếp dân giải quyết đơn thư, tố cáo chuyển biến tích cực. * Công tác Quân sự địa phương: Sáu tháng đầu năm năm 2011 Ban chỉ huy Quân sự xã luôn xây dựng kế hoạch trực sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa bàn bảo đảm an toàn tuyệt đối. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đúng đủ theo hướng dẫn, đảm bảo số lượng và chất lượng. Toàn xã có 54 đồng chí dân quân tự vệ. Tổ chức khảo sát thanh niên hiện đang có mặt tại địa phương chuẩn bị cho công tác khám tuyển nghĩa vụ Quân sự đợt 2 năm 2011 là 14 thanh niên trúng sơ tuyển ở xã. Duy trì chế độ sẵn sàng chiến đấu khi có lệnh. Công tác huấn luyện dân quân đảm bảo, chất lượng huấn luyện được nâng lên. * Công tác xây dựng và củng cố chính quyền: Thường xuyên triển khai làm tốt các Chỉ thị, Nghị quyết, sự lãnh đạo của cấp trên tập trung quyết liệt trong việc quản lý, điều hành tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, tổ chức thực hiện đề án 30 của Chính phủ về việc cải cách hành chính, đồng thời quan tâm giải quyết có hiệu quả những bức xúc, những phát sinh đột xuất… * Hoạt động của Mặt trận tổ Quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội: Đã bám sát chức năng nhiệm vụ được giao, quan tâm đổi mới nội dung, phương thức hoạt động hướng về cơ sở. Tích cực tham gia các phong trào thi đua phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, tham gia các cuộc vận động ủng hộ , nhân đạo , từ thiện, giúp đỡ các gia đình hoàn cảnh khó khăn cụ thể (ủng hộ Miền trung bão lụt: 10 triệu đồng, quỹ vì người nghèo: 12.805.000 đồng, ủng hộ xây dựng 8 nhà Đại đoàn kết, 3 nhà thuộc diện hộ nghèo), ủng hộ phong trào trại hè cho thiếu niên trị giá gần 200 triệu đồng. Luôn chăm lo củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động và tập hợp thu hút hội viên, đoàn viên. II. Thực trạng của người dân xã Hải Hòa – Huyện Tĩnh Gia sau khi bàn giao đất cho khu công nghiệp, khu dịch vụ du lịch. 2.1. Nghề nghiệp hiện tại của người dân và các yếu tố liên quan. Trong những năm gần đây, nhờ tác động mạnh mẽ của công cuộc đổi mới các ngành công nghiệp xây dựng và và dịch vụ đã phát triển với tốc độ nhanh, nhiều nhà máy khu công nghiệp, các khu du lịch, nghỉ dưỡng góp phần lớn trong việc phân công lao động, từng bước giải phóng sức lao động và làm cho con người trở thành chủ thực sự. Giờ đây người lao động đã tự quyết định các phương thức hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trên cơ sở lấy hộ gia đình làm đơn vị kinh tế tự chủ. Bên cạnh đó còn xuất hiện nhiều hình thức kinh tế hợp tác tự nguyện kinh doanh theo hướng tổng hợp, phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp. Chính vì thế, cơ cấu lao động ở nông thôn đang từng bước chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng lao động công nghiệp và dịch vụ, thu hút phần lớn lao động thuần nông chuyển sang hoạt động làm việc trong lĩnh vực phi nông nghiệp, yếu tố này đã góp phần làm giảm tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm trên địa bàn xã Hải Hòa. Ngoài ra cơ cấu lao động của xã Hải Hòa còn chịu tác động của điều kiện chủ quan và khách quan của nền kinh tế thị trường và phát triển của xã hội. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy rõ điều đó. Bảng 1: Cơ cấu GDP việc làm của người dân theo nhóm ngành trước và sau khi bàn giao đất. (Đơn vị tính %) Năm Cơ cấu ngành Trước năm 2005 Sau năm 2005 Tổng GDP 100 100 Làm ruộng 63,5 45,6 Đánh bắt thủy sản 23,8 32,7 Chăn nuôi 1,8 3,6 Dịch vụ du lịch 1,3 4,1 Tiểu thủ công nghiệp 0,3 2,1 Buôn bán 4,1 4,9 Cán bộ viên chức 2,,1 1,8 Công nhân 0,3 0,8 Làm thuê 1,6 3,1 Khác 1,3 1,3 (Số liệu nghiên cứu thực tập lớp K52 – PN2 Khoa xã hội học Trường ĐH KHXH & NV – Hà Nội tại xã Hải Hòa – Huyện Tĩnh Gia – Tỉnh Thanh Hóa tháng 8/2011) Bảng số liệu cho thấy: Trước khi bàn giao đất cho khu công nghiệp, khu dịch vụ du lịch nghề chính của người dân là nông nghiệp (chiếm 63,5%), các ngành còn lại chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong cơ cấu nghề nghiệp. Đặc biệt là nghề thuộc lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp và công nhân chỉ (chiếm 0,3%). Nhưng sau khi Nhà nước tiến hành chủ trương thu hồi đất để đầu tư phát triển khu công nghiệp, khu dịch vụ du lịch nghỉ dưỡng thì tỷ trọng trong các ngành nông nghiệp giảm đi rõ rệt chỉ còn 45,6% kéo theo đó số người làm cán bộ viên chức nhà nước cũng đi giảm từ 2,1% xuống còn 1,8%. Thay vào đó là sự gia tăng đáng kể của ngành như: Đánh bắt thủy sản tăng từ 23,8% (trước năm 2005) lên 32,7% (sau năm 2005) mức tăng ở đây là 8,9% so với giai đoạn trước và sau năm 2005; dịch vụ du lịch tăng từ 1,3% lên 4,1% mức tăng là 2,8%; ngành chăn nuôi tăng từ 1,8% lên 3,6%, tiểu thủ công nghiệp tăng từ 0,3% lên 2,1 %. Như vậy ở 2 nhóm ngành này đều có mức tăng là 1,8%, tiếp đến là ở nhóm ngành làm thuê cũng tăng từ 1,6% trước năm 2005 lên 3,1% sau năm 2005 mức tăng ở đây là 1,5%. Ngoài ra ở một số nhóm ngành cũng có sự dịch chuyển theo chiều hướng tăng nhưng không đáng kể như: Buôn bán tăng từ 4,1% trước năm 2005 lên 4,9% sau năm 2005 mức tăng ở đây là 0,8%; công nhân tăng 0,5%, còn ở một số nhóm ngành khác vẫn giữ nguyên ở mức 1,3% trước và sau khi chuyển giao đất không tăng, cũng không giảm. Vậy qua bảng số liệu cho thấy dấu hiệu đáng mừng chứng tỏ rằng tại ở bàn đang có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp. Nguyên nhân chính dẫn tới sự chuyển dịch này là do sự gia tăng của các khu công nghiệp, khu dịch vụ du lịch làm cho diện tích đất giảm đi, tính đến thời điểm tiến hành cuộc điều tra theo số liệu tổng hợp của Ủy ban nhân xã Hải hòa địa bàn nghiên cứu thì Chính quyền địa phương đã lập hồ sơ thu hồi 68,31 ha đất để thực hiện các dự án khu du lịch nghỉ dưỡng biển thuộc Công ty Hiền Đức, dự án du lịch Côn Thanh, dự án khu nghĩa địa Cồn sim, dự án giao thông đường, cầu dài 2,8 km từ đường Quốc lộ 1A ra bãi biển Hải Hòa rộng 15,5m, 5 khách sạn với 250 phòng nghỉ. Các khu công nghiệp, khu dịch vụ du lịch, khách sạn mọc lên đã làm cho không ít người dân không thiết tha với công việc đồng ruộng nữa. Ở đây thường rơi vào những hộ chuyển giao một phần đất, diện tích còn lại manh mún không đủ để tiếp tục sản xuất . Chính vì vậy họ muốn bán đi diện tích còn lại để chuyển đổi sang kiếm sống bằng ngành nghề khác. Còn những hộ không nằm trong diện quy hoạch đất bị thu hồi, chuyển giao thì vẫn tiếp tục sản xuất trên đồng ruộng của họ. Như vậy số người dân có thu nhập chính từ ngành nông nghiệp giờ đây chỉ còn là 45,6% so với trước khi chưa bàn giao đất cho khu công nghiệp, khu dịch vụ du lịch nghỉ dưỡng là 63,5%, Sự chuyển dịch cơ cấu ngành từ nông nghiệp sang các ngày càng được người dân chú trọng. Từ bảng số liệu trên cho thấy 54,4% người dân trong xã đã có sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và sống bằng nhiều nghành, nghề khác mang tính phi nông nghiệp cho thu nhập cao và mang tính ổn định. Vấn đề này đòi hỏi phải có chính cách phù hợp với phát triển kinh tế, chuyển đổi cơ cấu ngành nghề để cho người dân có thể chuyển sang các hình thức kinh doanh, buôn bán, xây dựng nhiều dịch vụ khác nhau để có sự phát triển ổn định và lâu dài. Theo M.Weber hành động lựa chọn tiếp tục làm nghề nông của một số người dân được coi là hành động duy lí - truyền thống, hành động tuân thủ những tập quán được truyền bá từ đời này qua đời khác. Nghề nông vốn là nghề truyền thống của người dân ở xã Hải Hòa. Nhưng bên cạnh đó ngoài những kinh nghiệm do cha ông truyền lại thì người nông dân còn được phổ biến những kỹ thuật hiện đại để có năng suất cao trên cùng một diện tích canh tác, sự chuyển đổi nghề nghiệp của người dân ở xã Hải Hòa cũng khá đa dạng. Do dện tích đất nông nghiệp dần dần bị thu hẹp đã khiến nhiều người nông dân rơi vào tình trạng thất nghiệp hoạc không có việc làm thường xuyên phải chuyển sang các ngành khác. Như vậy qua bảng số liệu đã cho thấy, do nhận thức về nghề nghiệp rất đa dạng, ý thức của người dân về sự thay đổi dịch chuyển nghề nghiệp nên ngay sau khi chuyển giao đất họ đã nhanh chóng đi tìm việc làm mặc dù nghề đánh bắt thủy sản trước những năm 2005 cũng đã được người dân quan tâm khai thác lợi thế biển bởi vì đối với nghề này cũng không đòi hỏi đến chuyên môn nghiệp vụ cao nên sau khi chuyển giao đất cho khu công nghiệp, khu dịch vụ du lịch nghỉ dưỡng thì người dân đã dịch chuyển sang ngành này ở mức tăng khá cao tăng từ 23,8% (trước năm 2005) lên 32,7% mức tăng là 8,9 số còn lại phần đa người dân làm các nghề tự do, ít cần đến trình độ chuyên môn kỹ thuật. Có thể nói sự biến đổi xã hội đã làm thay đổi nhận thức của người dân. Nếu như trước khi người dân có quan niệm "Trọng nông ức thương" thì hiện nay khi mà nghề nông ngày càng bị thu hẹp không còn cơ hội để phát triển thì người ta lại chú ý đến thương nghiệp với sự đa dạng của thị trường "trăm người bán vạn người mua" thì người dân có thể tìm cho mình một mặt hàng nào đó để kinh doanh. Cần khéo léo năng động và tinh tế một chút để thích ứng thì buôn bán là nghề phù hợp với khả năng của nhiều người nhất. Bởi vì trong buôn bán có nhiều lĩnh vực ít hoặc không đòi hỏi đến trình độ học vấn, vốn đầu tư cũng không cần nhiều. Hơn nữa đây cũng có thể là nghề tạm hay nghề phụ vì người ta không nhất thiết dành thời gian vì nó có thể làm cùng một lúc công việc khác với nó hoặc trong lúc rỗi rãi. Theo quan điểm của các tác giả thuyết cấu trúc - chức năng "các địa vị, vị trí xã hội luôn được phân chia phù hợp với từng năng lực của từng cá nhân. Các công việc nặng nhọc và thu nhập thấp không đảm bảo bởi những con người xuất thân trong những điều kiện kém cỏi và không có trình độ, họ thường đảm nhận những công việc nặng nhọc không đòi phải phải được đào tạo bài bản". Đó chính là những nghề lao động tự do như thợ xây, lái xe, chăn nuôi, bốc vác, xe ôm...và nhiều người dân đã lựa chọn một trong những nghề này để kiếm sống. Qua bảng số liệu ta có thể thấy rõ số lao động tham gia vào các ngành nghề khác ngoài nông nghiệp trước năm 2005 chưa bàn giao đất là 36,5% thì sau năm 2005 bàn giao đất cho các khu công nghiệp, khu dịch vụ du lịch tăng lên là 54,4%. Tóm lại: Do không có đất canh tác nên lao động trong lĩnh vực nông nghiệp đã giảm đáng kể. Phần lớn những người được hỏi chuyển sang đánh bắt thủy sản, chăn nuôi, dịch vụ, tiểu tủ công nghiệp, làm công nhân, làm nghề tự do....Tuy nhiên sự chuyển đổi này diễn ra có đồng bộ hay không và cơ hội nghiệp có đến với tấ cả mọi người dân mất đất hay không thì nó phụ thuộc vào cơ cấu lao động phân theo giới, tuổi tác, trình độ học vấn như thế nào? Để biết làm để vấn đề mối quan hệ của nghề nghiệp với các cơ cấu về giới tính, tuổi tác, trình độ học vấn của người lao động ở xã Hải Hòa: Trước hết là mối quan hệ giữa nghề nghiệp và cơ cấu giới tính? Bảng 2: Bảng tương quan chuyển đổi nghề nghiệp theo giới (trước và sau năm 2005) từ làm nông sang các ngành nghề khác. (Đơn vị tính %) Nghề nghiệp Giới Nam Nữ Trước 2005 Sau 2005 Trước 2005 Sau 2005 Làm ruộng 100 66,1 100 72,2 Đánh bắt thủy sản 9,1 18,9 0,0 16,1 Chăn nuôi 0,0 3,9 0,0 9,0 Dịch vụ du lịch 0.0 2,4 0,0 2,7 Tiểu thủ công nghiệp 0,0 3,9 0,0 1,8 Buôn bán 0,0 8,0 0,0 1,8 Cán bộ viên chức 0.0 8,0 0,0 0.0 Công nhân 0,0 1,6 0,0 9,0 Làm thuê 0,0 1,5 0,0 2,1 Khác 0,0 1,3 0,0 1,7 (Số liệu thực tập lớp K52 – PN2 Khoa xã hội học Trường ĐH KHXH & NV – Hà Nội tại xã Hải Hòa – Huyện Tĩnh Gia – Tỉnh Thanh Hóa tháng 8/2011) Qua bảng số liệu trên cho thấy nghề nông vẫn chiếm tỷ khá cao ở cả 2 giới. Nếu trước 2005 tỷ lệ này ở cả 2 giới được coi là tương đương nhau thì sau khi bàn giao đất chỉ còn 66,1% đối với nam và 72,2% đối với nữ. Nguyên nhân chính của tình trạng này chủ yếu xuất phát từ nhận thức của người dân về một công việc mới. Sau khi chuyển giao đất cơ hội tìm việc làm của nam giới dễ dàng hơn nữ giới, ở đây qua bảng số liệu ta có thể thấy rõ tỷ lệ lao động là nam giới chuyển sang đánh bắt thủy sản là 18, 9%, Buôn bán và cán bộ viên chức là cùng có tỷ lệ dịch chuyển là 8%, chăn nuôi và tiểu thủ công nghiệp đối với nam giới có sự dịch chuyển từ trồng lúa sang là: 3,9%. Ngoài ra ở một số nhóm ngành khác sự dịch chuyển là không đáng kể. Còn đối với nữ giới sau khi bàn giao đất không có việc làm thì lao động nữ chuyển sang các nghề khác cũng khá cao cụ thể như chuyển sang đánh bắt thủy sản là 16,1%, chăn nuôi và công nhân đều có mức dịch chuyển ngang bằng nhau ở mức 9%; sang dịch vụ du lịch là 2,7%, làm thuê 2,1% ở lĩnh vực nghề này thì tỷ lệ nữ dịch chuyển cao hơn nam vì nữ giới có thể tham gia vào các loại công việc nội trợ trong gia đình, dọn dẹp vệ sinh, tạp vụ. Sở dĩ họ chấp nhận ở nhà làm là hành động “Đạt tới - có sắn” (Parsons), tức là họ xem xét đặc điểm của bản thân để lựa chọn. Trả lời phỏng vấn sâu: Cô Nguyễn Thị Dở thôn Giang sơn cho biết “Cô ở nhà lo cơm nước, nội chợ thôi, bây giờ sức cô yếu rồi, ruộng thì không còn, việc năng thì không làm được. Thôi thì ở nhà chăm con lợn, gà, trông coi nhà cửa cho chú ra biển kéo thuê vây thôi không biết làm gì nữa”? Còn một số nhóm ngành còn lại cũng có sự chuyển dịch từ nông nghiệp làm ruộng sang nhưng không đáng kể chưa đạt 2%. Có thể nói trong gia đình khi cuộc sống trở nên khó khăn để lựa chọn cho đi học nghề thì nam giới thường được ưu tiên hơn, quan niệm truyền thống cho rằng con gái không còn học nhiều, nên ở nhà và làm nghề đơn giản để có thời gian chăm sóc gia đình chồng con. Chính vì thế mà tỷ lệ nữ giới tham gia vào các ngành công nhân viên chức, buôn bán tiểu thủ công nghiệp thì tỷ lệ nam giới chiếm nhiều hơn nữ giới ở các nhóm ngành này. Như vậy: Nhìn một cách tổng quan nhất có thể nhận thấy rằng nghề nông và đánh bắt thủy sản là 2 nghề thu hút sự tham gia nhiều của cả 2 giới nhiều nhất. vào cơ cấu giới ở 2 nghề này cũng khá gần cân bằng, các nghề nội trợ, buôn bán nhỏ với đặc thù nghề nghiệp nên nữ giới tham gia nhiệu hơn nam. Như vậy vấn đề đặt ra ở đây là không chỉ tạo việc làm cho người lao động mà việc làm đó phải thích ứng với khả năng đặc điểm tâm sinh lý của từng giới để đạt được hiệu quả cao nhất, nâng cao năng suất lao động. * Bảng 3: Bảng tương quan trình độ chuyên môn của người lao động (Đơn vị tính %) Trình độ chuyên môn Trước 2005 Sau 2005 Không có chuyên môn 97,7 75,9 Trung cấp chuyên nghiêp 0,3 13,8 CĐ, ĐH, trên đại học 0,0 10,3 (Số liệu nghiên cứu thực tập lớp K52 – PN2 Khoa xã hội học Trường ĐH KHXH & NV Hà Nội tại xã Hải Hòa – Huyện Tĩnh Gia – Tỉnh Thanh Hóa tháng 8/2011) Các số liệu trên cho thấy động thái chuyển dịch chuyên môn của lao động trong xã diễn ra với nhiều chiều hướng khác nhau. Đối với nhóm lao động không có chuyên môn từ năm 2005 là 97,7% có xu hướng giảm sau năm 2005 giảm tuy vẫn còn cao những đã giảm xuống 75,9%. Còn đối với lao động có trình độ chuyên môn từ trung cấp chuyên nghiệp trở lên trước năm 2005 là 0,3% nhưng sau năm 2005 có chiều hướng tăng lên 24,1% cả về trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng, đại học, trên đại học. Trong đó trung cấp chuyên nghiệp là: 13,8%; Cao đẳng, đại học, trên đại học là 10,3%. Như vậy qua bảng số liệu trên cho thấy tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn, tây nghề là rất thấp, phần đa vẫn là lao động không có chuyên môn tay nghề chiếm tới 75,9%. * Bảng 4: Bảng tương quan độ thay đổi cơ cấu ngành nghề hiện nay so với trước năm 2005. (Đơn vị tính: %) Sự thay đổi Ngành nghề Giữ nguyên Mở rộng Thu hẹp Bỏ hẳn Từ trước đến nay không làm Trồng lúa 66,9 4,6 15,2 7,5 5,8 Trồng hoa màu 46,2 13,4 16,4 10,8 13,0 Chăn nuôi gia súc 33,5 19,3 18,8 13,4 15,0 Chăn nuôi gia cầm 35,9 22,9 16,6 10,8 13,8 Đánh bắt thủy sản 26,0 24,4 2,5 10,4 36,6 Dịch vụ du lịch 3,9 5,5 0,0 2,8 87,8 Buôn bán 7,6 10,2 1,1 3,4 77,6 SX tiểu thủ CN 35,9 22,9 16,6 10,8 13,8 Khác 5,4 3,7 8 3,1 87,0 (Số liệu thực tập lớp K52 – PN2 Khoa xã hội học Trường ĐH KHXH & NV Hà Nội tại xã Hải Hòa – Huyện Tĩnh Gia – Tỉnh Thanh Hóa tháng 8/2011) Như vậy qua bảng tương quan về sự chuyển dịch cơ cấu ngành ngề sau khi bàn giao đất thì sự dịch chuyển cơ cấu ngành nghề cũng có sự thay đổi có một số ngành nghề bị thu hẹp, một số ngành nghề được mở rộng thêm. Cụ thể như ở nghề đánh bắt thủy sản mở rộng thêm 24,4%, chăn nuôi gia cầm và sản xuất tiểu thủ công nghiệp cùng só sự mở rộng về cơ cấu nghành lên 22,9% về diện tích, chăn nuôi gia súc là 19,3%, buôn bán 10,2%, ở ngành dịch vụ tuy chưa cao chỉ có 5,5% nhưng không có diện tích bị thu hẹp. Còn một số ngành khá tuy có sự mở rộng về diện tích nhưng do phải bàn giao đất nên tỷ lệ thay đổi ngành nghề nhưng do bị thu hết về diện tích cũ nhiều hơn diện tích mở thêm nên không bù lại được tỷ lệ diện tích ban đầu trước chưa bàn giao đất như trồng lúa bị thu hẹp 15,2% diện tích, mở rộng chỉ đạt 4,6% như vậy diện tích trênh lệch so với diện tích ban đầu là: 10,6%; diện tích trồng hoa màu thu hẹp đi 16,4%, mở rộng được 13,4% như vậy ở đây sự trênh lệch về diện tích so với ban đầu là: 3%...Tuy nhiên qua bảng số liệu ta cũng có thể thấy được sau khi bàn giao đất người lao động chuyển đổi cơ cấu ngành nghề từ sản xuất nông nghiệp sang các ngành nghề khác là đang có chiều hướng gia tăng, người lao động nông nghiệp trước kia cũng đã nhận thức được rằng muốn tiếp tục có việc làm thì phải nhanh chóng thích ứng vào nhập cuộc vào các ngành nghể khác, Đặc biệt ở đây người dân đã có sự chuyển dịch sang nghề daanhs bắt thủy sản, kinh doanh buôn bán, dịch vụ du lịch và nghể sản xuất tiểu thủ công nghiệp là rất lớn theo chiều hướng ngày càng gia tăng và có chiều hướng dịch chuyển mạnh. 2.2. Đánh giá thực trạng nghề nghiệp của người dân sau khi bàn giao đất cho khu công nghiệp, khu du lịch dịch vụ và nguyên nhân cơ bản của tình hình. Từ phân tích thực trạng nghề nghiệp của người dân sau khi bàn giao đất cho khu công nghiệp, khu dịch vụ du lịch chúng ta có thể rút ra được những mặt được và chưa được của thực trạng này như sau: 2.2.1. Những kết quả đạt được Những chuyển biến tích cực của cơ cấu lao động sẽ có tác động tốt đến sự phát triển nền kinh tế, sự chuyển dịch này phù hợp với xu hướng chuyển dịch có tính quy luật đã từng diễn ra ở các nước trên thế giới, đó là lao động làm việc trong ngành nông nghiệp có xu hướng giảm dần còn lao động làm việc trong ngành nông nghiệp – xây dựng và dịch vụ ở nông thôn tăng lên, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo trình độ tay nghề, theo trình độ văn hóa, giới tính…làm thay đổi cơ bản cơ cấu số lượng nguồn lao động nông th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBáo cáo thực tập- THỰC TRẠNG NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƯỜI DÂN SAU KHI BÀN GIAO ĐẤT CHO KHU CÔNG NGHIỆP KHU DỊCH VỤ DU LỊCH.doc
Tài liệu liên quan