Đề tài Thực trạng sử dụng các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2001 đến nay

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I 3

Hiệu quả sử dụng các khu công nghiệp và các nhân tố ảnh hưởng 3

I. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của Khu công nghiệp 3

1. Khái niệm về Khu công nghiệp 3

2. Đặc trưng cơ bản của Khu công nghiệp 3

II. Vì sao phải tăng cường hiệu quả sử dụng các Khu công nghiệp tại địa phương 5

1. Vai trò của Khu công nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội địa phương 5

1.1 Thu hút đầu tư trong và ngoài nước 7

1.2 Tạo công ăn việc làm cho người lao động 8

1.3 Tiếp nhận kỹ thuật công nghệ tiên tiến và phương pháp quản lý hiện đại 9

1.4 Tăng cường các mối liên kết và tác động ngược trở lại nền kinh tế 10

2. Vì sao phải tăng cường hiệu quả sử dụng các Khu công nghiệp 11

III. Thước đo hiệu quả sử dụng các Khu công nghiệp 13

2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng các Khu công nghiệp 16

2.1 Tỉ lệ diện tích được lấp đầy 16

2.2 Tỉ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích 16

2.3 Tỉ lệ đóng góp cho GDP 17

2.4 Số lao động làm việc trong các KCN 17

IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng các Khu công nghiệp 18

1. Nhóm các vấn đề về khung pháp lý 18

1.1 Về cơ chế chính sách 18

1.2 Cơ chế phân cấp và uỷ quyền trong quản lý 19

2. Nhóm các vấn đề liên quan đến bộ máy quản lý của các Khu công nghiệp 20

3. Nhóm vấn đề liên quan đến đất đai và hạ tầng cơ sở của Khu công nghiệp 21

3.1 Về đất đai 21

3.2 Về cơ sở hạ tầng 22

2. Nhóm các vấn đề liên quan đến dịch vụ 22

4.1 Dịch vụ trong KCN 22

4.2 Hệ thống cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp 23

V. Kinh nghiệm sử dụng các Khu công nghiệp của một số tỉnh và bài học rút ra 23

1. Kinh nghiệm của tỉnh Bình Dương 24

2. Kinh nghiệm của Vĩnh Phúc 27

3. Những bài học kinh nghiệm 29

CHƯƠNG II 31

Thực trạng sử dụng các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2001 đến nay 31

I. Sơ lược quá trình phát triển các Khu công nghiệp tại Bắc Ninh 31

1. Quá trình phát triển các cụm công nghiệp Bắc Ninh 31

2. Quá trình phát triển các Khu công nghiệp 32

2.1 KCN Tiên Sơn 32

2.2 KCN đô thị Quế Võ 33

2.3 KCN Đại Đồng – Hoàn Sơn 33

2.4 KCN đô thị Yên Phong 34

2.5 KCN Quế Võ II 34

2.6 KCN Công nghệ thông tin 34

2.7 KCN Nam Sơn - Hạp Lĩnh 34

2.8 KCN Thuận Thành 35

II. Đánh giá hiệu quả sử dụng các Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh 36

1. Tỉ lệ diện tích được lấp đầy 36

2. Tỉ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích 40

3. Tỉ lệ đóng góp cho GDP 43

4. Số lao động làm việc trong các khu công nghiệp 45

III. Đánh giá các nhân tố tác động đến hiệu quả sử dụng các khu công nghiệp tại Bắc Ninh 46

1. Nhóm các vấn đề về khung pháp lý 46

1.1Về cơ chế chính sách 46

1.2Cơ chế phân cấp và uỷ quyền thiếu đồng bộ 47

2. Nhóm các vấn đề liên quan đến bộ máy của Ban quản lý các khu công nghiệp 49

2.1 Cơ cấu tổ chức: 49

2.2 Về cơ sở vật chất của BQL 50

2.3 Về năng lực của BQL 51

2.Nhóm các vấn đề liên quan đến đất đai và hạ tầng cơ sở 52

2.1Về đất đai 52

3.2 Về cơ sở hạ tầng 54

3. Nhóm các vấn đề liên quan đến dịch vụ 55

3.1 Các dịch vụ trong KCN còn thiếu 55

4.2 Chưa có dịch vụ cung cấp thông tin cho doanh nghiệp 56

CHƯƠNG III 58

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đến năm 2010 58

I. Quan điểm, phương hướng và mục tiêu phát triển khu công nghiệp 58

1.Quan điểm phát triển khu công nghiệp 58

2.Phương hướng phát triển khu công nghiệp 59

3. Mục tiêu phát triển khu công nghiệp 61

III. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các khu công nghiệp trên địa bàn 62

1.Nhóm các giải pháp về khung pháp lý 62

2. Nhóm các giải pháp liên quan đến bộ máy quản lý khu công nghiệp 64

3. Nhóm các giải pháp liên quan đến đất đai và hạ tầng cơ sở 66

3.1 Về đất đai 66

3.2 Về cơ sở hạ tầng 68

4. Nhóm các vấn đề liên quan đến dịch vụ 69

4.1 Các dịch vụ KCN 69

4.2 Thành lập các nhóm nghiên cứu, nhóm tư vấn nhằm cung cấp thông tin cho doanh nghiệp 69

V. Kiến nghị 71

KẾT LUẬN 73

 

 

doc77 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2146 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng sử dụng các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2001 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
80% tổng giá trị sản xuất công nghiệp và chiếm khoảng trên 30% GDP của tỉnh). Kinh nghiệm của Vĩnh Phúc Cũng giống như Bắc Ninh, Vĩnh Phúc là cửa ngõ phía nam của Hà Nội (cách trung tâm Hà Nội khoảng 30 km), tỉnh cũng phấn đấu đến năm 2015 trở thành tỉnh có nền kinh tế công nghiệp. Nhằm thực hiện mục tiêu trên thì một trong các giải pháp hữu hiệu mà các nhà quản lý hướng tới đó là phát triển các khu, cụm công nghiệp. Các khu, cụm công nghiệp của Vĩnh Phúc đầu tư xây dựng theo mô hình các khu, cụm công nghiệp đa ngành được xây dựng từ sau ngày 01/01/1997 (sau khi tái lập tỉnh Vĩnh Phúc). Sau 11 năm phát triển thì hiện nay, Vĩnh Phúc đã có khoảng 13 khu, cụm công nghiệp; trong đó xây dựng đồng bộ 07 KCN với tổng diện tích 2.622 ha. Cũng như nhiều KCN trên địa bàn thành phố, các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc cũng có chung mặt bằng chính sách, cơ chế và các điều kiện tự nhiên. Tuy nhiên, để thu hút đầu tư nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng cũng như sử dụng các KCN là do tỉnh đã thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau đây: Thứ nhất, ưu đãi các nhà đầu tư về vấn đề thủ tục hành chính khi đầu tư. Thủ tục khi các nhà đầu tư quyết định đầu tư vào đây thì việc đơn giản của họ phải làm là chuẩn bị đầy đủ các số liệu cần thiết cho phương án sản xuất kinh doanh; các chuyên gia của KCN sẽ giúp họ thành lập các hồ sơ và lo hoàn tất mọi thủ tục còn lại như giấy phép thành lập doanh nghiệp, giấy phép đầu tư (trong 1 tuần), chế độ ưu đãi doanh nghiệp kể cả giấy phép xây dựng. Tất cả các chi phí trên đều do KCN tự bỏ tiền ra lo cho khách hàng mà không thu bất ký khoản lệ phí nào. Theo phản ánh của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, một trong những nguyên nhân chính khiến họ do dự khi đầu tư vào Việt Nam là do các thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp ngay từ khi doanh nghiệp bắt đầu đăng ký kinh doanh. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, cơ hội kinh doanh mang tính quyết định đến sự “sống còn” của doanh nghiệp. Thủ tục kinh doanh phiền hà, phức tạp khiến các chủ đầu tư mất rất nhiều cả về thời gian và tiền bạc ngay từ khi doanh nghiệp mới bắt đầu kinh doanh. Điều này, ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Giải pháp ưu đãi về thủ tục hành chính là một giải pháp mang tính quyết định, là một trong những nguyên nhân rất quan trọng hấp dẫn các nhà đầu tư đầu tư vào các KCN Vĩnh Phúc, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài (nguồn vốn đầu tư trong những năm gần đây của tỉnh tăng đột biến, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cao nhất trong các tỉnh thành trong cả nước). Thứ hai, triển khai xây dựng các đô thị nhỏ nhằm cung cấp các dịch vụ cần thiết cho các KCN, … Trong đó, Vĩnh Phúc đặc biệt chú trọng đến việc tạo môi truờng thuận lợi để thu hút nguồn vốn đầu tư cũng như việc cung cấp các dịch vụ trong KCN. Cung cấp các dịch vụ trong và ngoài KCN là một điều kiện cần thiết giúp các doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả cao. Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp tại các KCN ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng của các KCN. Ngoài ra, việc thành lập hệ thống cung cấp dịch vụ sẽ góp phần tăng việc làm, giảm tỉ lệ thát nghiệp tại các vùng lân cận quanh KCN. Thứ ba, xúc tiến việc quảng bá và thành lập hệ thống cung cấp thông tin (trung tâm tư vấn, trang Web,…) cho các doanh nghiệp khi họ muốn đầu tư vào các KCN. Ngày nay, thông tin đã trở thành yếu tố quyết định đến cơ hội cũng như khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, thành lập hệ thống cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp sẽ giúp các chủ đầu tư yên tâm đầu tư vào các KCN trên địa bàn. Sau một thời gian thực hiện đồng thời các giải pháp trên, hiệu quả sử dụng các khu, cụm công nghiệp đã được tăng lên rõ rệt. Điều đó, được minh chứng thông qua: Nguồn vốn đầu tư vào các KCN trên địa bàn tăng nhanh chóng (như nguồn vốn FDI đầu tư vào Vĩnh Phúc cao nhất trong cả nước); giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh tăng nhanh chóng (tốc độ tăng giá trị sản lượng công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng trên 20%). Những bài học kinh nghiệm Qua nghiên cứu một số KCN điển hình trong các địa phương có điều kiện tương tự như ở Bắc Ninh, ta có thể rút ra một số kinh nghiệm cần thiết cho Bắc Ninh trong quá trình sử dụng các KCN như sau: Thứ nhất, các thủ tục hành chính phải đơn giản, gọn nhẹ. Giảm thiểu những thủ tục rườm rà, phức tạp; tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi; xúc tiến quảng bá, cung cấp thông tin cho các dự án đầu tư;… nhằm thu hút các dự án đầu tư đầu tư vào các KCN. Thứ hai, phải tiếp tục nghiên cứu đưa các chính sách, các chế độ ưu đãi như: Thuế, giá thuê đất,.. để thu hút các nhà đầu tư. Tuy nhiên, các chính sách và chế độ ưu đãi phải phù hợp với khuôn khổ chính sách chung của nhà nước (như: ưư đãi về thuế, giá thuê đất,… phải nằm trong giới hạn mà nhà nước cho phép). Thứ ba, phải xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng theo hướng đa dạng hoá, chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư. Thứ tư, phải chú trọng xây dựng các đô thị nhỏ, hệ thống cung cấp dịch vụ nhằm cung cấp các dịch vụ cả trong và ngoài phục vụ cho sự phát triển của các KCN. Thứ năm, tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, xúc tiến quảng bá, cung cấp thông tin cho các dự án đầu tư,… nhằm thu hút các dự án đầu tư đầu tư trong các KCN. Từ kinh nghiệm thực tiễn các tỉnh đi trước cho thấy, để nâng cao hiệu quả sử dụng nói riêng và phát triển KCN nói chung, Bắc Ninh cần vận dụng sáng tạo chủ trương, chính sách chung của Đảng và nhà nước. Đồng thời, kết hợp giữa việc phát huy các kinh nghiệm thực tiễn của các tỉnh đi trước và các thế mạnh của tỉnh về phát triển các làng nghề truyền thống với việc tập trung sử dụng các KCN trên địa bàn. CHƯƠNG II Thực trạng sử dụng các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2001 đến nay I. Sơ lược quá trình phát triển các Khu công nghiệp tại Bắc Ninh Quá trình phát triển các cụm công nghiệp Bắc Ninh Từ năm 1998 (sau 01 năm tái lập tỉnh), Bắc Ninh đã quyết định thực hiện thí điểm 04 cụm công nghiệp là: Cụm sản xuất thép Châu Khê – Đa hội quy mô 13,5 ha; cụm sản xuất giấy Phong khê quy mô 12,7 ha; cụm sản xuất đỗ gỗ mỹ nghệ Đồng Quang quy mô 12,7 ha và cụm công nghiệp đa ngành Đình Bảng quy mô 14,7 ha. Việc phát triển các cụm công nghiệp nói trên đã giải phóng lực lượng sản xuất, chỉ trong thời gian ngắn đã lấp đầy và đòi hỏi phải mở rộng. Qua đó, Bắc Ninh rút ra bài học có giá trị sâu sắc trong việc chỉ đạo xây dựng các KCN sau này. Đến nay trên địa bàn toàn tỉnh đã có 25 cụm công nghiệp với tổng diện tích lên đến 654,1 ha; tổng vốn đăng ký 2 384 tỷ đồng và gần 3,5 tỷ USD; giải quyết cho 805 cơ sở sản xuất kinh doanh (trong đó 30,02% là các tổ chức kinh tế, còn lại là các hộ kinh doanh cá thể). Trong quá trình phát triển, các cụm công nghiệp Bắc Ninh đang ngày càng gắn kết chặt chẽ với các KCN. Các cụm công nghiệp Bắc Ninh chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vừa linh hoạt vừa có khả năng tiếp cận đối với các doanh nghiệp trong KCN để thực hiện các dịch vụ: Cung cấp nguyên vật liệu, gia công sản phẩm, thu gom chế biến phế liệu, cung cấp lao động, dịch vụ vận tải,… Các cụm công nghiệp còn là bước đệm chủ yếu cho các doanh nghiệp trong nước phát triển và di dời vào các KCN. Bởi vào các KCN có yêu cầu nghiêm ngặt về môi trường, quy mô và chất lượng đầu tư. Cho nên, trong giai đoạn đầu các doanh nghiệp trong nước đều muốn vào các cụm công nghiệp để tiết kiệm chi phí. Nhưng khi sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định và ổn định về thị trường tiêu thụ thì các doanh nghiệp lại muốn mở rộng sản xuất vào các KCN để lấy hình ảnh, thương hiệu KCN nhằm tăng uy tín trên thị trường; hưởng các chế độ ưu đãi, giảm thiểu chi phí và tăng lợi nhuận trong quá trình sản xuất kinh doanh. Quá trình phát triển các Khu công nghiệp Trong những năm gần đây, tốc độ phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn Bắc Ninh tăng nhanh chóng. Hiện nay, trên toàn tỉnh đã có 08 KCN có quy mô lớn. Các KCN đã được quy hoạch, xây dựng và phát triển góp phần làm phân bố lại khu vực kinh tế; tạo thành hai khu vực phát triển công nghiệp và nông nghiệp rõ rệt. Cụ thể: KCN Tiên Sơn Được thành lập theo Quyết định số 1129/QĐ – TTg ngày 19/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ do Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng (Vigracera) làm chủ đầu tư. KCN được khởi công vào tháng 12 năm 2000. Với vị trí thuận lợi, nằm giữa Quốc lộ (QL) 1A và QL1B, cách thủ đô Hà Nội khoảng 20 km, cách sân bay Quốc tế Nội Bài 30 km, cách cảng biển Cái Lân 120 km. KCN Tiên Sơn được quy hoạch theo 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 với quy mô là 350 ha, đến năm 2002 (sau 2 năm thành lập) KCN được mở rộng với diện tích quy hoạch đã lên đến 600 ha; tổng số vốn đầu tư hạ tầng 916,2 tỷ đồng. Đây là KCN sạch để tiếp nhận các dự án sản xuất hàng cơ khí điện tử, tiêu dùng, chế biến nông sản thực phẩm, thủ công mỹ nghệ, vật liệu xây dựng,… 2.2 KCN đô thị Quế Võ Được thành lập theo Quyết định số 1224/QĐ- TTg ngày 19/12/2002 của Thủ tướng Chính phủ. Diện tích đất quy hoạch là 636 ha (được chia làm hai giai đoạn, trong đó giai đoạn đầu là 336 ha ). Tổng vốn đầu tư là 531 tỷ đồng do công ty cổ phần phát triển Kinh Bắc làm chủ đầu tư. KCN được khởi công vào tháng 04/2003. KCN có vị trí thuận lợi, sát QL 18 tuyến sân bay Nội Bài – Thành phố Hạ Long, gần QL 1B, cách Hà Nội 33 km, cách sân bay Quốc tế Nội bài 33 km, cảng Cái Lân Quảng Ninh 110 km, cảng Hải Phòng 100 km. Bên cạnh KCN là khu đô thị, dân cư, dịch vụ 120 ha để phục vụ cho KCN. KCN Đại Đồng – Hoàn Sơn Diện tích đất quy hoạch là 230,8 ha, được thành lập theo Văn bản số: 319/TTg – CN ngày 28/03/2005 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số: 1179/QĐ – CT ngày 01/07/2005 của Chủ tịch tỉnh Bắc Ninh. KCN có vị trí nằm gần nút giao thông lập thể giữa QL 1B và đường tỉnh lộ 295. Cách Thủ đô Hà Nội 20 km, cách sân bay Quốc tế Nội bài 31 km, cách cảng biển Cái Lân 122 km. KCN được thành lập để kêu gọi các dự án sản xuất cơ khí, điện, điện tử, thủ công mỹ nghệ, dệt may và hàng tiêu dùng. KCN đô thị Yên Phong Diện tích quy hoạch là 740,73 ha; trong đó diện tích dành cho xây dựng KCN là 340,73 ha. Còn lại 400 ha dành cho xây dựng khu đô thị. KCN do tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng làm chủ đầu tư. KCN có vị trí nằm sát đường QL 18, tuyến đường cao tốc sân bay Nội Bài – thành phố Hạ Long, cách Hà Nội 28 km, sân bay quốc tế Nội Bài 20 km. KCN được thành lập để kêu gọi vốn đầu tư thuộc các ngành nghề sản xuất cơ khí, điện, điện tử, hàng tiêu dùng, chế biến nông sản thực phẩm và vật liệu xây dựng cao cấp. 2.5 KCN Quế Võ II Quy mô xây dựng 300 ha, do Tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị làm chủ đầu tư. KCN được khởi công xây dựng vào đầu năm 2006. Và hiện nay vẫn đang trong quá trình xây dựng, chưa đưa vào sử dụng. 2.6 KCN Công nghệ thông tin Quy mô là 53 ha, do công ty cổ phần công nghệ viễn thông Sài Gòn làm chủ đầu tư. KCN nằm sát nút giao thông lập thể giũă đường tỉnh lộ 295 và QL 1B, cách Hà Nội 19 km. Hiện nay, cũng đang trong quá trình xây dựng chưa đưa vào sử dụng. 2.7 KCN Nam Sơn - Hạp Lĩnh KCN Nam Sơn với quy mô 300 ha, nằm sát đường QL 38, QL 1B và QL 18; KCN đã được xây dựng đầu năm 2006.Hiện nay, đã bắt đầu đưa vào sử dụng. 2.8 KCN Thuận Thành KCN Thuận Thành với quy mô 200 ha, nằm trên trụ đường QL 38 đi Hưng Yên - Hải Dương - Hải Phòng. KCN được quy hoạch để dành cho các dự án đầu tư chế biến nông sản thực phẩm, vạt liệu xây dựng, thủ công mỹ nghệ,…Hiện nay, đang tìm kiếm chủ đầu tư. Như vậy, tính đến thời điểm hiện nay, Bắc Ninh có 06 KCN đã được thành lập và đang đi vào hoạt động, 01 KCN đang xây dựng, còn lại 01 KCN đang tìm kiếm chủ đầu tư. Về mặt phân bố, các KCN đa số tập trung tại vùng phía bắc sông Đuống, xung quanh tỉnh lỵ và khu vực thuận tiện về giao thông vận tải (tất cả các KCN trên địa bàn đều tập trung dọc theo hoặc nằm sát nút giao thông của những tuyến đường giao thông quan trọng ). Trong quá trình quy hoạch KCN đã biết tận dụng cơ sở hạ tầng sẵn có, biết phát huy lợi thế tập trung tạo ra lợi thế vượt trội hơn so với các vùng miền khác tạo điều kiện thuận lợi hấp dẫn các nhà đầu tư tập trung phát triển công nghiệp và dịch vụ. Ngoài ra, trong quá trình quy hoạch, Bắc Ninh luôn chú trọng quy hoạch KCN gắn liền với quy hoạch Khu đô thị, khu dân cư đảm bảo hệ thống cung cấp dịch vụ đồng bộ; đảm bảo sự phát triển đồng bộ hạ tầng kỹ thuật – xã hội trong và ngoài hàng rào KCN; đảm bảo sự phát triển bền vững của các KCN trên địa bàn tỉnh. II. Đánh giá hiệu quả sử dụng các Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Sau 09 năm xây dựng và phát triển, các KCN Bắc Ninh đã hội tụ doanh nghiệp đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuộc các lĩnh vực cơ khí, chế tạo, điện, điện tử, tin học, sản xuất vật liệu xây dựng cao cấp, chế biến nông sản thực phẩm, sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ, may mặc, giấy da,…và các doanh nghiệp phục vụ đã đầu tư vào Bắc Ninh. Nếu so sánh theo năm từ năm 2001 đến nay, các dự án đầu tư vào KCN có xu hướng tăng dần cả về số lượng và quy mô dự án. Tính đến hết tháng 12 năm 2006, đã có khoảng 210 dự án đầu tư vào các KCN Bắc Ninh với tổng số vốn đăng ký đầu tư khoảng 1,6 tỷ USD. Trong đó, có nhiều dự án lớn như: dự án công ty Canon, công ty Toyo Ink Compounds Việt Nam, Longtech Precision Việt Nam,… Mặc dù, trong những năm gần đây, tốc độ phát triển các KCN ở Bắc Ninh tăng nhanh. Góp phần thúc đẩy lĩnh vực sản xuất công nghiệp phát triển, qua đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên qua tìm hiểu tôi được biết, hiệu quả sử dụng các KCN chưa cao. Đây chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng chất lượng phát triển của các KCN nói riêng và của lĩnh vực công nghiệp nói chung còn thấp, dẫn tới tình trạng lãng phí nguồn lực rất lớn trong quá trình đầu tư phát triển trên địa bàn của tỉnh. Tỉ lệ diện tích được lấp đầy Tính đến hết tháng 12 năm 2006 (chỉ tính những KCN đã đưa vào sử dụng), các KCN Bắc Ninh đã đưa vào quy hoạch tổng diện tích là 2 407,53 ha. Nhưng diện tích đất đã cho thuê của tỉnh còn thấp chỉ khoảng 1 041,98 ha chiếm khoảng 43,28% tổng số diện tích đã đưa vào quy hoạch (trong khi ở Bình Dương tỉ lệ này khoảng 61,24% và ở Vĩnh Phúc khoảng gần 60%). Chi tiết bảng 2.1: Bảng 2.1: Tổng hợp tình hình cho thuê đất tại các KCN Bắc Ninh (tính đến hết tháng 12/2006) Đơn vị: ha TT KCN Tổng diện tích đưa vào QH Diện tích đã cho thuê Tỉ lệ (%) 1 KCN Tiên Sơn 600 343,25 57,21 2 KCN Nam Sơn - Hạp Lĩnh 300 114,6 38,20 3 KCN đô thị Quế Võ 636 261,08 41,05 4 KCN Quế Võ II 300 89,01 29,67 5 KCN Đại Đồng – Hoàn Sơn 230,8 104,39 45,23 6 KCN đô thị Yên Phong 340,73 129,65 38,05 Tổng cộng 2 407,53 1 041,98 43,28 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của BQL các KCN Bắc Ninh ) Từ bảng số liệu trên, cho thấy: - Tỉ lệ diện tích đất cho thuê trên địa bàn của tỉnh còn thấp (chỉ chiếm khoảng 43,28 % tổng số diện tích đã đưa vào quy hoạch). - Tỉ lệ diện tích cho thuê của từng KCN chênh lệnh khá lớn, dao động trong khoảng từ 29,67% đến 57,21%. Trong đó, KCN Tiên Sơn chiếm tỉ lệ lớn nhất (57,21%), KCN Quế Võ II thấp nhất (29,67%). Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, tỉ lệ lấp đầy khoảng từ 70% trở lên đạt được hiệu quả sử dụng về mặt đất đai, còn dưới 30% gây lãng phí nguồn lực rất lớn. Điều đó, cho thấy hiệu quả sử dụng đất đai trong quy hoạch các KCN trên địa bàn Bắc Ninh rất thấp. Bảng 2.2: Bảng tổng hợp tình hình cho thuê đất tại các KCN giai đoạn 2001-2006 Số TT Năm Tổng diện tích của các KCN ( chỉ tích các KCN đã đưa vào sử dụng ) Diện tích đã cho thuê Tỉ lệ (%) 1 2001 940,43 250,78 26,67 2 2002 940,43 502,13 53,39 3 2003 1 236 539,67 43,66 4 2004 1 466,8 840,00 57,27 5 2005 2 407,53 913,18 37,93 6 2006 2 407,53 1 041, 98 43,28 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của BQL các KCN Bắc Ninh ) Hình 2.1: Biểu đồ tỉ lệ cho thuê đất tại các KCN ở Bắc Ninh giai đoạn 2001-2006 Nhận xét: - Diện tích đất đã cho thuê tại các KCN Bắc Ninh có xu hướng tăng lên. Tăng mạnh nhất ở thời kỳ 2003-2004 (tăng 300,13 ha), kế đến thời kỳ 2001-2002 (tăng 251,35 ha); tăng chậm nhất từ năm 2004-2005 (tăng 73,18 ha). - Khả năng “ lấp chỗ trống” trong các KCN trên địa bàn tỉnh biến động mạnh qua các năm. Cao nhất là năm 2004 (57,27%), thấp nhất là năm 2001 (26,67%). Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do sự gia tăng của diện tích đất quy hoạch KCN đã đưa vào sử dụng. Năm 2004, diện tích cho thuê cũng như tỉ lệ đất đã sử dụng tăng cao là do đây là năm đầu tiên các doanh nghiệp kinh doanh thực hiện việc di dời cơ sở sản xuất kinh doanh của mình vào hoạt động tại các KCN theo chủ trương của Đảng bộ và UBND tỉnh. Nhìn chung, khả năng “lấp chỗ trống” trong các KCN trên địa bàn biến động mạnh qua các năm, diện tích đất đã cho thuê còn tương đối thấp. Điều này, dẫn tới tình trạng lãng phí nguồn lực đất đai rất lớn trong quá trình đầu tư phát triển, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả khai thác đất phục vụ phát triển kinh tế của tỉnh. 2. Tỉ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích Trong những năm gần đây, số dự án đầu tư vào các KCN Bắc Ninh có xu hướng tăng dần cả về số lượng và quy mô dự án. Tính đến hết tháng 12 năm 2006, đã có 210 dự án đầu tư vào các KCN với tổng vốn đầu tư lên đến 1,6 tỷ USD. Các dự án đầu tư đang chuyển dần từ đầu tư theo chiều rộng sang đầu tư theo chiều sâu, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất phù hợp với quan điểm và chủ trương của Đảng bộ và UBND tỉnh. Bảng 2.3: Bảng tổng hợp số vốn đầu tư tại các KCN Bắc Ninh (tính đến hết tháng 12/2006) Đơn vị: triệu USD/ha TT KCN Tổng vốn đầu tư Diện tích chiếm đất Tỉ lệ VĐT Trong nước (Triệu đồng) Nước ngoài (Triệu USD) Tổng vốn (Triệu USD) 1 KCN Tiên Sơn 4431131.5 145.362 754.5665 343.25 2.1983 2 KCN Nam Sơn - Hạp Lĩnh 1427881.0 1.3032 156.1998 114.6 1.3630 3 KCN đô thị Quế Võ 1072766.4 218.3388 458.4565 261.08 1.7560 4 KCN Quế Võ II 1856927.8 3.258 91.9206 89.01 1.0327 5 KCN Đại Đồng – Hoàn Sơn 2212345.3 5.2128 93.8779 104.39 0.8993 6 KCN đô thị Yên Phong 901303.5 0.000 9.7367 129.65 0.0751 Tổng cộng 11902355.5 373.4748 1618.1949 1041.98 1.5530 (Hệ số chuyển đổi: 1USD = 15 000 VNĐ) Nhận xét: Suất đầu tư chênh lệnh rất lớn đối với từng KCN. Trong đó, tỉ lệ vốn đầu tư tại KCN Tiên Sơn là lớn nhất (2,1983 triệuUSD/ha), còn KCN Yên Phong quá thấp (chỉ khoảng 0,0751 triệu USD/ha). Nhưng nhìn chung, suất đầu tư tại các KCN Bắc Ninh khá thấp (trừ KCN Tiên Sơn và KCN đô thị Quế Võ). Điều này cho thấy, các doanh nghiệp hoạt động tại các KCN vẫn chưa ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Sở dĩ có sự chênh lệnh này, nguyên nhân chủ yếu là do chủ trương kêu gọi đầu tư của tỉnh. Cụ thể: các KCN (KCN Tiên Sơn, KCN đô thị Quế Võ, KCN Nam Sơn - Hạp Lĩnh) được thành lập nhằm kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài và dự án công nghệ cao. Còn các KCN như: KCN đô thị Yên Phong, KCN Đại Đồng – Hoàn Sơn được quy hoạch chủ yếu để thu hút các cơ sở kinh doanh mà chủ yếu là các hộ gia đình từ các làng nghề truyền thống như: đồ gỗ mỹ nghệ (Đồng Kỵ), giấy dó (Phong Khê), đồ đồng (Đại Bái),… Suất đầu tư tại các KCN giai đoạn 2001-2006 tại các KCN Bắc Ninh có sự biến động khá lớn, giảm mạnh trong năm 2004, tăng nhanh trong năm 2005. Chi tiết bảng 2.4: Bảng 2.4: Tổng hợp tình hình đầu tư vào các KCN tại Bắc Ninh giai đoạn 2001-2006 TT Năm Tổng vốn đầu tư (Triệu USD) Diện tích đất sử dụng (ha) Tỉ lệ VĐT ( Triệu USD/ha) 1 2001 306.9547 250.78 1.224 2 2002 625.1519 502.13 1.245 3 2003 601.7321 539.67 1.115 4 2004 921.4800 840.00 1.097 5 2005 1767.9165 913.18 1.936 6 2006 1618.1949 1041.98 1.5530 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của BQL các KCN Bắc Ninh) Nhận xét: - Tỉ lệ VĐT một đơn vị diện tích rất thấp. Tính đến hết tháng 12 năm 2006, suất đầu tư trung bình tại các KCN chỉ khoảng 1.5530 triệu USD/ha. Chứng tỏ khả năng kêu gọi đầu tư (đặc biệt là các dự án ứng dụng trình độ kỹ thuật công nghệ tiên tiến) của tỉnh kém. - Tỉ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích biến động mạnh qua các năm và có xu hướng ngày càng giảm (trừ năm 2005). Trong năm 2004, suất đầu tư vào các KCN trên địa bàn giảm mạnh (từ 1,224 xuống còn 1,097 triệu USD/ha). Đến năm 2005, tỉ lệ này lại tăng mạnh (từ 1,097 lên 1,936 triệu USD/ha). Nguyên nhân chủ yếu là do: + Trong năm 2004, thực hiện chủ trương của tỉnh uỷ Bắc Ninh, một số các doanh nghiệp (chủ yếu là các làng nghề) đang hoạt động trên địa bàn di dời vào các hoạt động tại các KCN. Trong đó, có một phần khá lớn các doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, sản xuất giấy, chế biến nông sản thực phẩm,…có nguồn vốn đầu tư thấp; chủ yếu sử dụng lao động thủ công là chính. + Trong năm 2005, các KCN được thành lập với mục đích thu hút đầu tư nước ngoài và các dự án công nghệ cao đã đi vào hoạt động như: KCN Tiên Sơn (quy hoạch giai đoạn 2), KCN đô thị Quế Võ đã thu hút được nhiều dự án lớn của công ty Canon, công ty Toyo Compounds Việt Nam, tập đoàn Longtech Precision Việt Nam,… Do tỉ lệ VĐT thấp dẫn tới việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong các KCN phục vụ phát triển sản xuất thấp. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân cho thấy khả năng kêu gọi vốn đầu tư thấp, hướng đầu tư của các doanh nghiệp chưa thực sự đầu tư theo hướng phát triển các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ kỹ thuật cao. Tỉ lệ đóng góp cho GDP Theo ước tính, trong năm 2006 tổng sản phẩm toàn tỉnh đạt 9 261,82 tỷ đồng (tăng 13,2% so với năm 2005), trong đó phần đóng góp của các KCN vào khoảng 2 511,81 tỷ đồng (chiếm 27,12% tổng GDP). Điều đó có được là do các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN đi vào hoạt động đã đóng góp quan trọng trong việc huy động vốn đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn tỉnh. Tuy nhiên, tỉ lệ đóng góp này quá thấp (theo thống kê, tỉ lệ này ở Bình Dương và Vĩnh Phúc đều chiếm khoảng trên 35%) chứng tỏ phát triển KCN chưa thực sự trở thành động lực mạnh thúc đẩy sự phát triển kinh tế của địa phương. Bảng 2.5: Bảng tổng hợp tỉ lệ đóng góp cho GDP toàn tỉnh giai đoạn 2001-2006 Đơn vị: tỷ đồng Năm GDP Tốc độ tăng GDP Giá trị SXCN (tại các KCN) Tỉ lệ đóng góp GDP (%) 2001 4871.17 14.07 856.35 17.58 2002 5556.55 13.87 1148.54 20.67 2003 6327.24 13.61 1464.76 23.15 2004 7188.38 13.82 1628.17 22.65 2005 8181.82 14.12 2051.18 25.07 2006 9261.82 13.2 2511.81 27.12 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của BQL các KCN Bắc Ninh Niên giám thống kê - Cục thống kê Bắc Ninh 2001-2006) Hình 2.2: Biểu đồ tỉ lệ đóng góp cho GDP toàn tỉnh giai đoạn 2001-2006 Nhận xét: Mặc dù tỉ lệ đóng góp cho GDP trên địa bàn có xu hướng tăng trong thời gian qua nhưng tỉ lệ đóng góp vẫn còn tương đối thấp chỉ dao động trong khoảng từ 17,58% đến 27,12% (trong khi giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh lại chiếm khoảng 45.78% tổng GDP của tỉnh). Chứng tỏ, khả năng hiệu quả sử dụng các KCN trên địa bàn của tỉnh chưa cao. 4. Số lao động làm việc trong các khu công nghiệp Tính đến hết tháng 12 năm 2006, các KCN đã thu hút được 12 740 lao động vào làm việc, trong đó lao động địa phương có khoảng 7 580 người chiếm 59,5%. Với mức lương bình quân của công nhân lao động khoảng 1,3 triệu đồng/tháng. Về cơ cấu lao động: lao động phổ thông chiếm 32,45%; lao động có tay nghề cơ bản 42,12% và lao động có trình độ đại học 25,43%. Số lao động làm việc tại các KCN có xu hướng tăng nhanh qua các năm (năm 2001 là 4 350 lao động, năm 2005 là 8 240 và năm 2006 là 12 740 lao động), nguyên nhân chủ là do các doanh nghiệp trong các KCN đã đi vào hoạt động góp phần tạo việc làm cho người lao động. (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của BQL các KCN) Như vậy, qua phân tích một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng các KCN cho thấy: Trong những năm gần đây, mặc dù tốc độ tăng các KCN trên địa bàn tỉnh tăng nhanh chóng nhưng hiệu quả sử dụng còn thấp, các KCN chưa thực sự trở thành động lực tác động mạnh đến sự phát triển kinh tế cũng như quá trình CNH – HĐH trong toàn tỉnh. III. Đánh giá các nhân tố tác động đến hiệu quả sử dụng các khu công nghiệp tại Bắc Ninh Nhóm các vấn đề về khung pháp lý Về cơ chế chính sách Trong việc thu hút vốn đầu tư, các nhà đầu tư (đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài) gặp tương đối nhiều khó khăn ngay từ khâu thành lập doanh nghiệp. Khó khăn trước hết từ tính không rõ ràng nhất quán của các văn bản pháp lý liên quan đến việc cấp phép đầu tư điều đó đã làm cho hệ thống thủ tục xem xét, phê duyệt mang tính chủ quan, tuỳ tiện gây tốn kém về thời gian và tiền bạc. Thực tế, khi một nhà đầu tư muốn đầu tư sản xuất kinh doanh. Trước hết, chủ đầu tư phải trình bày phương án kinh doanh, sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt chấp nhận phương án kinh doanh thì chủ đầu tư mới được cấp giấy phép đầu tư. Tuy nhiên, giấy phép đầu tư cũng chỉ là bước đầu, sau đó nhà đầu tư còn cần phải có được rất nhiều giấy tờ như: giấy phép xây dựng, giấy chứng nhận vệ sinh môi trường,… cần phải được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Sau đó, doanh nghiệp mới có thể bắt đầu đi vào sản xuất kinh doanh. Tính không rõ ràng, thiếu nhất quán của các văn bản pháp lý là tình trạng chung củ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0090.doc
Tài liệu liên quan