Đề tài Thực trạng sử dụng phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra, đánh giá môn lịch sử của học sinh khối 11 trường THPT Đông Hà - Quảng Trị

MỤC LỤC

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Mục đích nghiên cứu 2

3. Nhiệm vụ nghiên cứu 2

4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 2

5. Giả thuyết khoa học 3

6. Phương pháp nghiên cứu 3

7. Phạm vi và thời gian nghiên cứu 3

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 4

1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 4

1.1.1. Ở nước ngoài 4

1.1.2. Ở trong nước 4

1.2. Các khái niệm cơ bản 5

1.2.1. Kiểm tra 5

1.2.2. Đánh giá 6

1.2.3. Trắc nghiệm 6

1.3. Đánh giá ưu, nhược điểm của phương pháp trắc nghiệm 7

1.3.1. Ưu điểm 7

1.3.2. Nhược điểm 8

1.4. Vấn đề sử dụng hiệu quả phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh 9

1.4.1. Mức độ phức tạp khi viết câu hỏi và tổ hợp đề 9

1.4.2. Mức độ phức tạp khi tổ chức kiểm tra 10

1.4.3. Vấn đề đoán mò phương án trả lời đúng 10

1.4.4. Độ tin cậy của câu hỏi 10

1.4.5. Sự phức tạp của việc chấm điểm 10

1.4.6. Phân tích, đánh giá các câu hỏi 11

Chương 2. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN TRONG KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ MÔN LỊCH SỬ KHỐI 11 TRƯỜNG THPT ĐÔNG HÀ - QUẢNG TRỊ 12

2.1. Vài nét khái quát về địa bàn và khách thể nghiên cứu 12

2.2. Thực trạng sử dụng phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra, đánh giá môn lịch sử của học sinh khối 11 trường THPT Đông Hà_Quảng Trị 12

2.2.1. Thực trạng nhận thức 13

2.2.2. Thực trạng sử dụng phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra đánh giá môn lịch sử khối 12 trường THPT Đông Hà 21

2.2.3 Những khó khăn khi sử dụng phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra đánh giá môn lịch sử 27

2.3. Nguyên nhân của thực trạng sử dụng phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra đánh giá học sinh khối 11 trường THPT Đông Hà – Quảng Trị 30

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 32

1. Kết luận 32

2. Kiến nghị 32

2.1. Đối với nhà trường và các cơ sở giáo dục 32

2.2. Đối với giáo viên 33

TÀI LIỆU THAM KHẢO 35

 

 

doc37 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8176 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng sử dụng phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra, đánh giá môn lịch sử của học sinh khối 11 trường THPT Đông Hà - Quảng Trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ra bằng trắc nghiệm không có khả năng phát triển ngôn ngữ viết. Do đó giáo viên không biết được tư tưởng, tình cảm, thái độ của học sinh về vấn đề nêu ra. Đây là một nhược điểm lớn cần phải được khắc phục. Trắc nghiệm có khả năng mang lại kết quả khách quan, nhưng không phải là một phương pháp vạn năng, không thể thay thế cho các phương pháp kiểm tra cổ truyền mà cần sử dụng phối hợp với chúng một cách hợp lí. Cần phải đa dạng hóa các loại trắc nghiệm, chú trọng những câu hỏi mang tính tư duy, hạn chế câu hỏi tái hiện. Đúng như B.M. Chelop đã nói: “Không có các phương pháp ngu dốt và các phương pháp thông minh mà chỉ có sự sử dụng chúng một cách thông minh và ngu dốt mà thôi” (Dẫn theo K.K.Platonop, 1980, 5) 1.4. Vấn đề sử dụng hiệu quả phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh 1.4.1. Mức độ phức tạp khi viết câu hỏi và tổ hợp đề Theo Bloom (1956) cấu trúc kết quả học tập được phân chia thành 6 mức độ nhận thức: đánh giá, tổng hợp, phân tích, áp dụng, hiểu, nhận biết. Để đề thi đánh giá được các mức độ nhận thức như vậy là một vấn đề phức tạp. Cho nên, trong khi soạn câu hỏi trắc nghiệm cần phải chuẩn bị hàng tháng, hàng năm, phải chuẩn bị kĩ lưỡng, có thử nghiệm trước khi đưa ra sử dụng thì mới có thể đảm bảo được các mức độ nhận thức như vậy. 1.4.2. Mức độ phức tạp khi tổ chức kiểm tra Bài thi sử dụng trắc nghiệm với số lượng câu hỏi 50-60 câu hỏi đảm bảo đo lường được toàn bộ chương trình dạy học. Do đó phải trình bày trên 4-5 trang giấy nên cần nhiều thời gian cho việc in ấn, nó có thể xảy ra tình trạng ghép nhầm trang. Mặt khác, nếu giáo viên bố trí các loại câu hỏi không cùng loại sẽ làm cho học sinh rối trí khi làm bài. Vì vậy, trong quá trình tổ chức kiểm tra, giáo viên cần phải chú ý đến những vấn đề đó. 1.4.3. Vấn đề đoán mò phương án trả lời đúng Vấn đề đoán mò phương án trả lời đúng là nhược điểm lớn của phương pháp trắc nghiệm nhất là những câu hỏi có chất lượng thấp. Với một câu hỏi có 4 phương án lựa chọn, xác suất đoán đúng phương án trả lời là 0,25. Nhưng với các câu có chất lượng thấp, xác suất đoán đúng phương án trả lời còn cao hơn vì học sinh có thể loại trừ những phương án sai quá lộ liễu hoặc nhìn thấy phương án đúng quá rõ ràng. Với đề thi có trên 50 câu hỏi trắc nghiệm thì kết quả trả lời đúng 20-30% số câu hỏi chủ yếu là do học sinh đoán mò. 1.4.4. Độ tin cậy của câu hỏi Độ tin cậy là điều kiện của các câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Học sinh có năng lực tốt phải đạt được kết quả cao hơn. Để đảm bảo độ tin cậy của bài thi và phủ kín toàn bộ chương trình dạy học thì đề thi phải có từ 50-60 câu để đánh giá mức độ nhận thức khác nhau từ thấp đến cao (nhận biết, hiểu đến phân tích, tổng hợp, đánh giá). 1.4.5. Sự phức tạp của việc chấm điểm Chấm điểm là một việc làm khá phức tạp, gây nhiều tranh cãi vì có thể phụ thuộc nhiều vào người chấm. Nếu như một đề thi trắc nghiệm đảm bảo được độ tin cậy thì việc chấm điểm hoàn toàn đơn giản hóa. Sự chuẩn bị công phu trong ra đề, cách sắp xếp bố trí câu hỏi là điều kiện thuận lợi đảm bảo tính khách quan trong khi chấm bài. 1.4.6. Phân tích, đánh giá các câu hỏi Để đảm bảo hiệu quả sử dụng phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh thì cần phải phân tích, đánh giá các câu hỏi. Do không chú ý đến việc phân tích các câu hỏi, không có thử nghiệm khi đưa ra sử dụng nên một số bài trắc nghiệm qua dễ hoặc quá khó so với năng lực của học sinh. Đề quá dễ dẫn đến kết quả làm bài của học sinh quá tốt nên bị xã hội phê phán là chạy theo thành tích, không phản ánh đúng thực lực của học sinh. Đề quá khó dẫn đến kết quả làm bài của học sinh quá kém cũng bị xã hội phê phán là chất lượng giáo dục thấp. Tuy nhiên, đánh giá chất lượng giáo dục mà chỉ nhìn vào điểm số là cách đánh giá rất thiếu chính xác vì điểm số phụ thuộc rất nhiều vào độ khó của đề thi. Chương 2. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN TRONG KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ MÔN LỊCH SỬ KHỐI 11 TRƯỜNG THPT ĐÔNG HÀ - QUẢNG TRỊ 2.1. Vài nét khái quát về địa bàn và khách thể nghiên cứu Qua quá trình xây dựng và trưởng thành, trường THPT Đông Hà đã gặt hái được nhiều thành tích to lớn về các mặt. Từ lúc mới thành lập trường chỉ có 275 học sinh, đến nay quy mô số lượng tăng lên trên1900 học sinh, với 40 lớp. Tỉ lệ tốt nghiệp hàng năm đều đạt từ 95 - 99,5%; tỉ lệ thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng đều đạt từ 30 - 45%, trong những năm gần đây đạt tỉ lệ trên 50-60%; có 26 học sinh đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia. Khối 11 có tổng số là 634 học sinh, trong đó có 305 nam và 329 nữ đến từ địa phương khác nhau trong tỉnh. Tuy nhiên đề tài chỉ giới hạn trong 100 sinh viên (50 nam và 50 nữ), được chọn ngẫu nhiên ở 5 lớp: 11A1, 11B1, 11A7, 11B7, 11A4, mỗi lớp 20 học sinh (10 nam, 10 nữ). Mỗi sinh viên có những đặc điểm tâm sinh lý khác nhau, có những thế mạnh riêng, đặc biệt là có điều kiện hoàn cảnh gia đình và nét văn hóa riêng. 2.2. Thực trạng sử dụng phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra, đánh giá môn lịch sử của học sinh khối 11 trường THPT Đông Hà_Quảng Trị Để đánh giá thực trạng sử dụng phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra, đánh giá môn lịch sử khối 11 của trường, chúng tôi đã tiến hành điều tra 5 giáo viên lịch sử và 100 học sinh khối 11. Kết quả thu được trên các mặt như sau: 2.2.1. Thực trạng nhận thức Bảng 1: Mức độ hiểu biết của phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra, đánh giá môn lịch sử TT Nội dung SL TL% 1 Biết nhiều 61 61 2 Biết ít 39 39 3 Hoàn toàn chưa biết 0 0 Qua bảng số liệu chúng ta thấy, đa số học sinh đã biết nhiều về phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra đánh giá môn lịch sử, chiếm 61%. Điều này chứng tỏ đây mặc dù phương pháp này chưa được sử dụng phổ biến trong kiểm tra đánh giá môn lịch sử nhưng các em đã có sự tìm hiểu, sự hướng dẫn của thầy (cô) giáo, đồng thời cũng đã được tiếp cận nhiều ở các môn học khác như: anh văn, toán, hoá, sinh... Bên cạnh đó, vẫn còn một số lượng khá lớn các em mới chỉ biết sơ sơ, chiếm 39%. Đặc biệt là không có em nào hoàn toàn chưa biết. Do đó đây là điều kiện thuận lợi để các em đạt kết quả cao trong quá trình làm bài kiểm tra môn lịch sử bằng phương pháp này. Như vậy, nhìn chung đa số học sinh đã có sự hiểu biết về phương pháp trắc ngiệm trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn lịch sử với nhưũng mức độ khác nhau. Đây là điều kiện thuận lợi để các em có sự nhận thức đúng đắn về vai trò, tác dụng cũng như sự cần thiết của phương pháp này. Bảng 2: Mức độ cần thiết của phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra, đánh giá môn lịch sử TT Mức độ cần thiết Giáo viên Học sinh SL TL (%) SL TL (%) 1 Rất cần thiết 1 20 49 49 2 Cần thiết 4 80 27 27 3 Bình thường 0 20 14 14 4 Không cần thiết 0 0 10 10 Qua bảng 2 cho thấy, đa số giáo viên và học sinh đã có sự nhận thức đúng đắn về sự cần thiết của phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh và sự nhận thức đó ở những mức độ khác nhau. Cụ thể: 5/5 ý kiến của giáo viên (100%) và 76/100 ý kiến của học sinh (76%) cho rằng, trắc nghiệm là phương pháp rất cần thiết và cần thiết để sử dụng vào việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn lịch sử. Từ sự nhận thức đúng đắn về mức độ cần thiết của phương pháp trắc nghiệm sẽ là điều kiện, tiền đề để giáo viên không ngừng nghiên cứu với mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng học tập cho người học, giúp người học sau khi ra trường có thể thích ứng được với sự thay đổi của người học. Mặt khác, sự nhận thức đúng đắn của học sinh sẽ nâng cao hiệu quả làm bài bằng phương pháp trắc nghiệm. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận nhỏ học sinh cho rằng nó là phương pháp bình thường, chiếm (14%). Đặc biệt, có đến 10/100 học sinh lựa chọn mức độ “không cần thiết”, chiếm 10%. Như vậy, đây là những giáo viên và học sinh chưa thật sự nhận thức đúng đắn vai trò của phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra đánh giá môn lịch sử, cũng như sự cần thiết sử dụng phương pháp này vào kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn lịch sử của học sinh. Do vậy sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả dạy học môn lịch sử của giáo viên và chất lượng học tập môn lịch sử của học sinh. Điều này cũng thể hiện ý thức, thái độ học tập của các em. Như vậy, ta thấy rằng sự nhận thức của giáo viên và học sinh về mức độ cần thiết của phương pháp trắc nghiệm là hoàn toàn khác nhau. Điều này dễ hiểu, bởi lẽ mặc dù chưa được sử dụng phổ biến nhưng giáo viên dù ít hay nhiều, dù vững vàng hay còn yếu đã nắm được kỹ thuật soạn thảo phương pháp trắc nghiệm cũng như nhận thức được vai trò của nó khá toàn diện thông qua sách báo và đổi mới phương pháp dạy học, trong khi đó học sinh vừa được tiếp xúc ít lại chưa có được sự tìm hiểu hay hướng dẫn của thầy, cô. Có được số lượng học sinh nhận thức như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho thầy (cô) giáo trong quá trình soạn thảo câu hỏi kiểm tra, đánh giá bằng phương pháp này. Bảng 3: Nhận thức về vai trò của phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra, đánh giá môn lịch sử TT Nội dung Giáo viên Học sinh SL TL (%) SL TL (%) 1 Có khả năng kiểm tra được một khối lượng tri thức rộng lớn 5 100 97 97 2 Đảm bảo tính khách quan, chính xác trong kiểm tra, đánh giá 4 80 55 55 3 Khắc phục tình trạng học tủ, học lệch 5 100 39 39 4 Phát huy được tính tích cực của học sinh trong quá trình học tập 3 60 42 42 5 Tiết kiệm được thời gian cho việc chấm bài, làm bài 5 100 28 28 6 Có khả năng phát triển được năng lực trí nhớ, tư duy của HS 4 80 47 47 8 Ý kiến khác 1 20 13 13 Kết quả điều tra chỉ ra rằng, nhận thức của giáo viên và học sinh về vai trò, tác dụng của phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra đánh giá môn lịch sử ở những mức độ khác nhau, số lượng ý kiến không tập trung cao vào một vai trò nào đó, mà nó rải đều và cũng không có vai trò nào là không có ý kiến. Tuy nhiên, qua bảng số liệu chúng ta thấy rằng, số lượng ý kiến của giáo viên và học sinh tập trung khá nhiều vào vai trò thứ nhất đó là có khả năng kiểm tra được một khối lượng tri thức rộng lớn, cụ thể có 5 ý kiến của giáo viên (100%) và 97/100 ý kiến của học sinh (97%). Đây là vai trò nổi bật của phương pháp trắc nghiệm so với loại bài thi luận đề. Một bài trắc nghiệm khách quan có thể bao gồm nhiều câu hỏi liên quan đến nhiều khía cạnh, nhiều lĩnh vực của môn học; có thể kiểm tra được cả tri thức, kĩ năng, thái độ của người học. Chính nhờ vậy mà phần nào khắc phục được tình trạng học lệch, học tủ của học sinh, thể hiện ở chỗ vai trò này có 100% giáo viên lựa chọn và 39% học sinh lựa chọn. Đây là sự nhận thức đúng đắn. Có 4/5 ý kiến của giáo viên và 55/100 ý kiến của học sinh cho rằng đây là phương pháp đảm bảo tính khách quan, chính xác trong kiểm tra, đánh giá. Đây cũng là sự nhận thức đúng đắn, bởi lẽ ngoài tác dụng kiểm tra được khối lượng tri thức rộng lớn, trắc nghiệm sẽ đảm bảo tính khách quan, chính xác trong kiểm tra, đánh giá. Đây là vai trò nổi bật, sự đánh giá không phụ thuộc giữa người chấm và thí sinh, tâm trạng của người chấm thi và các loại kích thích không ảnh hưởng đến kết quả của bài làm. Có 4/5 ý kiến của học sinh và 47/100 ý kiến của giáo viên cho rằng trắc nghiệm là phương pháp có khả năng phát triển được năng lực trí nhớ, tư duy của học sinh. Chúng ta biết rằng, khi kiểm tra được khối lượng tri thức rộng lớn trên nhiều bình diện, nhiều lĩnh vực của môn học đòi hỏi học sinh phải huy động năng lực trí nhớ, phải tư duy nhanh nhẹn, linh hoạt trong khi làm bài thì có thể mới hoàn thành được bài làm đạt kết quả tốt. Ngoài ra, tiết kiệm được thời gian cho việc chấm bài, làm bài; phát huy được tính tích cực của học sinh trong quá trình học tập cũng là những vai trò của phương pháp trắc nghiệm. Đặc biệt có 3/5 ý kiến của giáo viên và 28/100 ý kiến của học sinh cho rằng, trắc nghiệm bao gồm tất cả các vai trò trên. Có thể nói, đây là sự nhận thức đầy đủ, toàn diện và sâu sắc. Tuy số lượng các ý kiến của giáo viên cũng như học sinh là không nhiều nhưng có được sự nhận thức như vậy chứng tỏ họ đã có sự tìm tòi, nghiên cứu, tìm hiểu về phương pháp này, đó là điều kiện thuận lợi cho việc đưa phương pháp này vào sử dụng một cách rộng rãi, phổ biến và đó cũng là điều kiện cần thiết để mỗi giáo viên soạn thảo câu hỏi kiểm tra dánh giá môn lịch sử đạt hiệu quả cao. Như vậy, chúng ta thấy rằng nhìn chung giáo viên và học sinh đã có sự nhận thức đúng đắn về vai trò, tác dụng của phương pháp trắc nghiệm tuy chưa được toàn diện nhưng nó sẽ là điều kiện, cơ sở để có sự nhận thức ngày càng toàn diện hơn về vai trò của phương pháp này. Bảng 4: Đánh giá hạn chế của phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra đánh giá môn lịch sử TT Nội dung Giáo viên Học sinh SL TL% SL TL% 1 Học sinh dễ đoán mò 5 100 88 88 2 Không phát triển các kĩ năng ngôn ngữ cho học sinh 5 100 73 73 3 Dễ hình thành cho học sinh những biểu tượng sai 0 0 2 2 4 Gây cho học sinh sự căng thẳng, mệt mỏi trong khi làm bài 1 20 7 7 5 Nếu sử dụng thường xuyên sẽ làm cho học sinh trở nên máy móc, xơ cứng 3 60 59 59 6 Giáo viên chỉ biết được kết quả chứ không biết được quá trình hình thành kết quả đó 5 100 60 60 7 Ý kiến khác 1 20 0 0 Qua bảng 4, ta thấy đa số giáo viên cho rằng sử dụng phương pháp nào vào kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn lịch sử của học sinh có những hạn chế nổi bật như: “làm cho học sinh dễ đoán mò”; “giáo viên chỉ biết được kết quả chứ không biết được quá trình hình thành kết quả đó” và “không phát triển các kĩ năng ngôn ngữ cho học sinh”, cùng chiếm 100% ý kiến của giáo viên. Nhìn chung, đa số học sinh cũng trùng với ý kiến của giáo viên về những mặt hạn chế nổi bật của phương pháp trắc nghiệm khách quan trong kiểm tra đánh giá môn lịch sử, song có sự chênh lệch nhau giữa các mức độ của các mặt hạn chế. Cụ thể, hạn chế “học sinh dễ đoán mò” được học sinh lựa chọn nhiều nhất, chiếm 88%. Đây là nhận thức đúng đắn về hạn chế phương pháp trắc nghiệm, do đó nó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng và kết quả học tập của học sinh. Điều này cũng phản ánh phần nào về mức độ sử dụng các loại câu hỏi trắc nghiệm. Chứng tỏ giáo viên thường sử dụng loại trắc nghiệm đúng – sai, hoặc những câu hỏi với mức độ khó không cao cho nên học sinh rất dễ đoán mò. Tiếp theo là hạn chế “không phát triển các kĩ năng ngôn ngữ cho học sinh”, chiếm 73%. Đây cũng là nhược điểm nổi bật của trắc nghiệm. Điều này dễ nhận thấy bởi lẽ khi làm bài học sinh chỉ đánh dấu vào đáp án đúng nhất đã được cho sẵn các lựa chọn, mà không cần phải viết ra. Có 60% ý kiến sinh viên cho rằng, sử dụng phương pháp này giáo viên chỉ biết kết quả chứ không biết quá trình hình thành của kết quả đó. Có thể nói rằng đây cũng là hạn chế lớn của phương pháp này, điều này có ảnh hưởng rất lớn đến việc điều chỉnh hành vi, thái độ học tập của học sinh; giáo viên không biết được năng lực, nguyện vọng, sự sáng tạo của người học chỉ trừ khi có các câu hỏi dành cho học sinh giỏi. Ngoài ra, kết hợp với phương pháp phỏng vấn và quan sát, chúng tôi nhận thấy nhiều có ý kiến cho rằng sử dụng phương pháp này trong kiểm tra, đánh giá học sinh dễ xem bài của nhau. Nhiều học sinh cho rằng chỉ cần khoảng 2 phút là các em có thể “coppy” cả bài của bạn mình. Để khắc phục những hạn chế đó, giáo viên cần phải sử dụng nhiều loại câu trắc nghiệm, đặc biệt là câu hỏi nhiều lựa chọn. Mặt khác, cần phải soạn thảo câu hỏi dưới nhiều dạng khác nhau. Đặc biệt, giáo viên cần ứng dụng phần mềm “xáo trắc nghiệm” để ngăn chặn, hạn chế tình tình bất cập này. “Gây cho học sinh sự căng thẳng, mệt mỏi trong khi làm bài” và “Dễ hình thành cho học sinh những biểu tượng sai” cũng là những hạn chế của phương pháp trắc nghiệm, song chiếm tỉ lệ thất nhất, không đáng kể . Như vậy ta thấy rằng, đa số giáo viên đã có sự nhận xét, đánh giá đúng đắn về hạn chế của phương pháp trắc nghiệm từ đó có thể có những biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế trên để đạt được mục đích dạy học. Tuy nhiên, sự nhận thức trên chưa phải là đầy đủ và toàn diện. Vì vậy, để soạn thảo một bài trắc nghiệm có giá trị thì mỗi giáo viên phải không ngừng tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi, sáng tạo. Bảng 5: Tình hình kiểm tra đánh giá môn lịch sử của giáo viên trong trường hiện nay TT Nội dung Giáo viên SL TL% 1 Chưa kiểm tra được toàn diện nội dung đã học 5 100 2 Giáo viên giới hạn nội dung học tập nên học sinh có thể học tủ, học lệch 3 60 3 Việc đánh giá còn mang tính chủ quan 1 20 4 Mất nhiều thời gian cho việc chấm bài 3 60 5 Ưu tiên sử dụng phương pháp tự luận mà ít quan tâm phương pháp trắc nghiệm 5 100 6 Ý kiến khác 0 0 Từ kết quả điều tra cho thấy, tất cả các giáo viên đều lựa chọn hai nội dung đó là: “Chưa kiểm tra được toàn diện nội dung đã học” và “Ưu tiên sử dụng phương pháp tự luận mà ít quan tâm phương pháp trắc nghiệm” chiếm 100%. Đây là những bất cập trong kiểm tra đánh giá có ảnh hưởng lớn đến chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh. Kết hợp với phỏng vấn và tìm hiểu các đề thi lịch sử của các em, chúng tôi thấy rằng, những năm qua, việc kiểm tra, đánh giá môn lịch sử thường chỉ sử dụng phương pháp tự luận truyền thống cho nên chỉ kiểm tra được vài ba câu không thể bao trùm hết nội dung dạy học, thỉnh thoảng mới có những đề kết hợp trắc nghiệm với tự luận. Do đó đã gây nên tình trạng “nước đến chân mới nhảy”, tính tích cực, tự giác trong học tập vì thế mà giảm sút, chất lượng dạy học khó đạt kết quả tối ưu. Có 3/5 ý kiến giáo viên cho rằng “Giáo viên giới hạn nội dung học tập nên học sinh có thể học tủ, học lệch” và “Mất nhiều thời gian cho việc chấm bài”, chiếm 60%. Nội dung “Việc đánh giá còn mang tính chủ quan” chỉ được 1 giáo viên lựa chọn. Song, trên thực tế phỏng vấn, chúng tôi được đa số học sinh cho biết giáo viên thường hay thiên vị cho những học trò thân thiết và đi học thêm ở họ. Mặt khác, việc chấm bài của giáo viên còn phụ thuộc vào tâm trạng, sức khoẻ... lúc chấm. Như vậy, đa số giáo viên chưa đánh giá đúng đắn “tính chủ quan” trong kiểm tra đánh giá môn lịch sử hiện nay trong nhà trường, tuy nhiên cũng có thể đa số giáo viên biết tình hình này song cố ý giấu vì ảnh hưởng đến uy tín bản thân. Tiểu kết: Như vậy, đa số học sinh và giáo viên đều có sự nhận thức đúng đắn về sự cần thiết cũng như vai trò, hạn chế của phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra, đánh giá môn lịch sử. Đồng thời, đa số giáo viên đã có nhận xét, đánh giá được tình hình kiểm tra, đánh giá môn lịch sử trong trường THPT Đông Hà hiện nay. Điều đó có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp kiểm tra, đánh giá nói riêng. 2.2.2. Thực trạng sử dụng phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra đánh giá môn lịch sử khối 12 trường THPT Đông Hà Để đánh giá thực trạng sử dụng phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra, đánh giá môn lịch sử; chúng tôi đã tiến hành điều tra trên các mặt sau: Bảng 6: Mức độ sử dụng phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra đánh giá môn lịch sử của giáo viên TT Nội dung SL TL % 1 Sử dụng rất thường xuyên 0 0 2 Thỉnh thoảng mới sử dụng 2 40 3 Đã sử dụng nhưng còn ít và dè dặt 3 60 4 Chưa sử dụng bao giờ 0 0 Kết quả điều tra cho thấy, nhìn chung các ý kiến rất tập trung, chủ yếu vào 2 mức độ “Đã sử dụng nhưng còn ít và dè dặt” và “thỉnh thoảng mới sử dụng”. Điều này thì chúng ta dễ thấy, bởi trong dạy học không phải môn học nào cũng dễ dàng soạn thảo được câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Điều đó cũng chứng tỏ rằng giáo viên đã có sự quan tâm trong việc đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn lịch sử của học sinh. Cùng với sự nhận thức được đúng đắn về sự cần thiết và vai trò của nó nếu như có sự khuyến khích và tạo điều kiện của nhà trường thì họ sẽ sử dụng thường xuyên phương pháp này trong tương lai một cách có hiệu quả. Bảng 7: Kỹ năng sử dụng phương pháp trắc nghiệm TT Nội dung SL TL% 1 Thành thạo 0 0 2 Đã biết cách sử dụng nhưng còn lúng túng 5 100 3 Hoàn toàn chưa có kỹ năng sử dụng 0 0 Dựa vào bảng 7 ta thấy, toàn bộ giáo viên lịch sử đều chọn mức độ: “đã biết cách sử dụng nhưng còn lúng túng”, chiếm 100%. Sự đánh giá này là hoàn toàn chính xác, bởi lẽ ở nước ta phương pháp này sử dụng chưa phổ biến trong môn lịch sử. Kết hợp với phỏng vấn, các thầy (cô) cho biết: “chưa có lớp tập huấn hay bồi dưỡng phương pháp nào cho giáo viên lịch sử về phương pháp này”. Cho nên giáo viên chỉ biết cách sử dụng thông qua tự nghiên cứu, tham khảo sách báo và học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước. Sự yếu kém về mặt kỹ năng này của giáo viên sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của bài trắc nghiệm, độ giá trị của bài trắc nghiệm sẽ không cao. Do đó sẽ không phân biệt được năng lực của học sinh, chất lượng dạy học lịch sử vì thế mà khó có thể nâng cao. Không có ý kiến nào cho rằng giáo viên lịch sử hiện nay đã “thành thạo” hay “hoàn toàn chưa có kỹ năng”. Đây là sự đánh giá đúng đắn bởi vì phương pháp trắc nghiệm mới được đưa vào thử nghiệm trong kiểm tra đánh giá môn lịch sử những năm gần đây, lại không có một chương trình tập huấn nào nên giáo viên không thể sử dụng thành thạo được. Tuy vậy, nhờ vào sự tự nghiên cứu, học hỏi giáo viên cũng đã biết cách sử dụng, không có giáo viên nào là hoàn toàn chưa có kỹ năng. Như vậy, tất cả giáo viên đã có sự nhận xét, đánh giá tập trung và đúng đắn về kỹ năng sử dụng phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra đánh giá môn lịch sử của bản thân, đó là “Đã biết cách sử dụng nhưng còn lúng túng”. Từ đó có thể đề xuất những biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp này. Bảng 8: Các hình thức kiểm tra, đánh giá sử dụng phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra đánh giá môn lịch sử TT Nội dung Giáo viên Học sinh SL TL% SL TL% 1 Kiểm tra 15 phút 1 20 40 40 2 Kiểm tra 1 tiết 3 60 80 80 3 Kiểm tra học kỳ 5 100 100 100 4 Thi học sinh giỏi 0 0 0 0 Qua bảng 8 cho thấy, đa số giáo viên và học sinh cho rằng, hiện nay, trắc nghiệm trong kiểm tra đánh giá môn lịch sử được sử dụng vào nhiều hình thức kiểm tra khác nhau: kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết và kiểm tra học kì. Có sự đồng nhất về số lượng ý kiến của giáo viên và số lượng ý kiến của học sinh về vấn đề sử dụng phương pháp trắc nghiệm vào 3 hình thức kiểm tra. Điều này chứng tỏ các ý kiến trên là đúng đắn với tình hình kiểm tra thực tế. Cụ thể, có 5/5 ý kiến giáo viên và 100/100 ý kiến sinh viên cho rằng nhà trường đã sử dụng phương pháp trắc nghiệm trong thi học kỳ. Có 3/5 ý kiến giáo viên và 80/100 sinh viên cho rằng đã sử dụng phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra 1 tiết. Và có 1/5 ý kiến giáo viên và 20/100 học sinh cho rằng đã sử dụng vào kiểm tra 15 phút. Thi học sinh giỏi chưa sử dụng phương pháp này. Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì đề thi học sinh giỏi phải là đề có độ khó cao, mà như trên chúng ta biết rằng chưa có giáo viên nào có kỹ năng sử dụng trắc nghiệm thành thạo, cho nên khó khăn trong việc soạn thảo đề thi trắc nghiệm. Như vậy, nhìn chung đa số sử dụng phương pháp trắc nghiệm vào 3 hình thức kiểm tra: 15phút, 1 tiết và học kì. Tuy nhiên, mức độ sử dụng các hình thức này của các giáo viên khác nhau thì có sự khác nhau. Bảng 9: Mức độ sử dụng các loại câu hỏi trắc nghiệm TT Nội dung Giáo viên SL TL% 1 Trắc nghiệm Đúng – Sai 3 60 2 Trắc nghiệm nhiều lựa chọn 5 100 3 Trắc nghiệm điền khuyết 2 40 4 Trắc nghiệm trả lời ngắn 2 40 5 Trắc nghiệm ghép đôi 0 0 Qua bảng số liệu ta thấy, mỗi giáo viên sử dụng khác nhau các loại câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn lịch sử của học sinh. Nhìn chung, đa số giáo viên đều sử dụng loại câu hỏi trắc nghiệm lựa chọn chiếm 5/5 số lượng ý kiến. Đây là việc sử dụng rất đúng đắn bởi lẽ trong số các loại câu hỏi đó thì trắc nghiệm nhiều lựa chọn đảm bảo kiểm tra được nhiều khía cạnh của môn học và hạn chế được sự đoán mò của học sinh. Có 3/5 ý kiến cho rằng họ sử dụng trắc nghiệm đúng – sai, việc sử dụng câu hỏi trắc nghiệm đúng – sai sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của các câu soạn thảo, làm cho học sinh dễ đoán mò bởi vì xác xuất đúng là 50/50, do đó khó phân biệt được năng lực học tập của học sinh. Bên cạnh đó, trắc nghiệm điền khuyết và trắc nghiệm trả lời ngắn cũng được 2/5 giáo viên sử dụng. Đặc biệt, trắc nghiệm ghép đôi chưa được giáo viên nào khai thác sử dụng. Như vậy, đa số các giáo viên đã sử dụng nhiều loại câu hỏi trắc nghiệm, trong đó toàn bộ giáo viên đều sử dụng loại trắc nghiệm nhiều lựa chọn. Vấn đề đặt ra là giáo viên cần sử dụng tất cả các loại câu hỏi trắc nghiệm, vì nó sẽ kiểm tra được một khối lượng tri thức rộng lớn với nhiều khía cạnh, nhiều lĩnh vực của môn học. Điều đó sẽ phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập của học sinh. Mặt khác, làm cho bài trắc nghiệm đạt được độ khó và có độ phân biệt để có thể phân hóa được năng lực của người học. Bảng 10: Phương pháp làm bài kiểm tra lịch sử bằng trắc nghiệm của học sinh TT Nội dung SL TL% 1 Đoán mò 10 10 2 Sử dụng phương pháp loại trừ 25 25 3 Học thuộc, hiểu những vấn đề thầy cô cho trước 42 42 4 Chọn nhiều phương án cùng một lúc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng sử dụng phương pháp trắc nghiệm trong kiểm tra, đánh giá môn lịch sử của học sinh khối 11 trường THPT Đông Hà - Quảng Trị.doc
Tài liệu liên quan