Đề tài Thực trạng tỷ giá trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam và một số giải pháp điều chỉnh cơ chế tỷ giá

MỤC LỤC

 Phần mở đầu

Nội dung

Phần I: Những vấn đề chung về tỷ giá hối đoái, chính sách tiền tệ và mối quan hệ giữa chúng

1.Tỷ giá hối đoáí

 1.1 Khái niệm

 1.2 Vai trò của tỷ giá hối đoái

 1.3 Cơ chế của tỷ giá hối đoái

 1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá

 2.Chính sach tiền tệ

 3.Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái với chính sách tiền tệ

Phần II: Thực trạng tỷ giá trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam và một số giải pháp điều chỉnh cơ chế tỷ giá.

1.Nhìn lại sự phát triển của hệ thống tỷ giá ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

 2.Một số những biện pháp điều chỉnh cơ chế tỷ giá cho phù hợp với chính sách tiền tệ .

Kết luận

Tài liệu tham khảo

 

 

 

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1472 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng tỷ giá trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam và một số giải pháp điều chỉnh cơ chế tỷ giá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tệ, thu nội tệ về thì lượng tiền cung ứng trên thị trường sẽ giảm làm cho tỷ giá giảm xuống. Ngân hàng Trung ương thông qua việc tác động vảo tỷ giá để thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ và cả mục tiêu của chính sách kinh tế đối ngoại . Do trình độ phát triển kinh tế mỗi nước khác nhau, do cách thức tổ chức quản lý khác nhau nên có những cơ chế tỷ giá khác nhau. Và vì thế, sự tác động của chính sách tiền tệ với mỗi chế độ tỷ giá cũng khác nhau . + Đối với hệ thống tỷ giá cố định Tỷ giá hối đoái do Ngân hàng Trung ương quy định và giữ ở một mức cố định đã công bố. Khi có sức ép nâng hoặc giảm tỷ giá, Ngân hàng trung ương sẽ dùng dự trữ ngoại tệ để can thiệp cho tỷ giá giữ nguyên mức. Tuy nhiên vì tư bản chuyển động hoàn toàn tự do, Ngân hàng Trung ương sẽ không thể cùng một lúc theo đuổi cả hai mục tiêu ổn định tỷ giá hối đoái và ổn định mức cung tiền. Thực vậy, khi vì một lý do nào đó , lãi suất trong nước tăng lên , tư bản nước ngoài đổ dồn vào trong nước gây sức ép giá đồng nội tệ , tỷ giá tăng. Ngân hàng Trung ương phải đứng ra mua ngoại tệ , tăng dự trữ ngoại tệ vào để tăng cung nội tệ trên thị trường ngoại hối nhằm giữ cho tỷ giá không đổi . Mặt khác, dân chúng trong nước sẽ bán ngoại tệ để đổi lấy nội tệ mua tài sản trong nước. Cả hai trường hợp đều dẫn đến cung nội tệ tăng lên làm cho cung tiền tuột khỏi sự kiểm soát của Ngân hàng trung ương, mục tiêu ổn định giá cả khó thực hiện trong ngắn hạn. Chúng ta sẽ xem xét sự tác động của chính sách tiền tệ đối với cơ chế tỷ giá thả nổi theo mô hình sau: Giả sử, nền kinh tế đang ở trạng thái cân bằng E, Ngân hàng Trung ương quyết định thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng với việc tăng cung tiền danh nghĩa. Với mức giá đã cho, cung tiền thực tế tăng lên, đường LM dịch chuyển đến LM’, lãi suất giảm bằng mức lãi suất thế giới, các nhà đầu tư trong nước sẽ tìm kiếm cơ hội đầu tư ở nước ngoài. Một luồng vốn sẽ chạy ra nước ngoài, Ngân hàng Trung ương phải bán dự trữ ngoại tệ để giữ tỷ giá hối đoái không đổi. Quá trình này kéo dài cho đến khi mức cung i LM tiền và lãi suất trở lại ban đầu . LM’ Như vậy, chính sách tiền tệ tỏ ra kém hiệu quả hơn trong nền E E’’ kinh tế đóng; ở đây sự tác động i = i’ của sự mở rộng tiền tệ đã bị triệt E’ tiêu bởi luồng vận động của tư IS bản ra nước ngoài do lãi suất giảm đi, mặc dù đầu tư cá nhân có tăng lên. Y + + + Đối với hệ thống tỷ giá thả nổi i: Lãi suất trong nước hoàn toàn với sự vận động của tu bản là tự do : i’: Lãi suất thế giới Trường hợp này tỷ giá linh hoạt được E, E’, E’: Tỷ giá cân bằng xác định trên thị trường ngoại hối và thay trong từng thời điểm đổi theo cung cầu trên thị trường. Khi 1 LM : Cân bằng thị trường luồng vốn từ nước ngoài đổ vào trong tiền tệ nước , cầu về ngoại tệ tăng , đồng nội tệ IS: Cân bằng thị trường tăng giá, tỷ giá giảm . Sự tăng giá của hàng hoá đồng nội tệ ảnh hưởng trực tiếp đến cán cân thương mại : xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng, cán cân thương mại bị thâm hụt. Nếu chính sách tiền tệ làm tăng cung tiền , đường LM dịch chuyển đến LM’ , lãi suất giảm làm đồng tiền mất giá . Tỷ giá giảm làm tăng khả năng cạnh tranh , xuất khẩu ròng tăng lên, đường IS dịch chuyển đến IS’; lãi suất trở về mức cân bằng với thế giới. Chính sách tiền tệ mở rộng làm tăng sản lượng. Tuy nhiên, về mặt i LM dài hạn, sản lượng tăng làm giá cả tăng. Cân bằng tiền tệ thực tế giảm. LM’ dịch LM’ chuyển về vị trí ban đầu, lãi suất tăng E dần , đồng nội địa tăng giá, tỷ giá tăng i=i’ E’’ IS’ dần trở về IS. Cân bằng được thiết lập ở IS’ vị trí cũ. Như vậy, chính sách tiền tệ có E’ tác động lớn trong nền kinh tế mở, tỷ giá IS linh hoạt, tư bản vận động tự do nhưng tác động đó bị hạn chế về mặt dài hạn. + Đối với hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý: Đây là cách quản lý tỷ giá phổ biến nhất hiện nay, nó khắc phục hạn chế của cả hai loại cơ chế tỷ giá trên. Nó cho phép tỷ giá dao động trong i một khoảng tuỳ theo yêu cầu của chính LM sách quản lý kinh tế sao cho phù hợp với i E’ thực trạng. Nếu tỷ giá vượt quá khoảng E giới hạn cho phép thì chính sách tiền tệ E mới tác động để đẩy tỷ giá về khoảng IS giới hạn đó. i’ E’’ Y Phần II Thực trạng tỷ giá trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam và một số giải pháp điều chỉnh cơ chế tỷ giá 1. Nhìn nhận về cơ chế điều hành tỷ giá tại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới : Phải thừa nhận rằng trong thời gian qua Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đưa ra những bước đi thích hợp trong việc điều hành tỷ giá và đã gặt hái được những thành công nhất định, đặc biệt là trong lĩnh vực ổn định thị trường ngoại tệ, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của nền kinh tế. Kể từ sau lần lạm phát phi mã ở Việt Nam năm 1986, cùng với việc thay đổi quan điểm nhìn nhận nền kinh tế nước ta. Đảng và Nhà nước đã đưa nền kinh tế đi đúng hướng phù hợp với thực tế khách quan, đưa ra những chính sách kinh tế vĩ mô thích hợp qua từng thời kỳ. Trong đó phải kể đến chính sách tiền tệ về quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá. Đầu tiên phải nói đến chính sách điều hành tỷ giá của Ngân hàng Trung ương luôn theo sát và phù hợp với thực tế biến đoọng của tỷ giá. Thực thi theo cơ chế mới, tỷ giá được hình thành trên quan hệ cung cầu, rõ ràng là mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn, vì thế nó phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần tăng cường sự hoà nhập của nền kinh tế nước ta vào cộng đồng kinh tế thế giới. Cơ chế này khác hẳn với cơ chế tỷ giá trước kia, khi mà tỷ giá không xuất phát từ quan hệ cung cầu thì mỗi lần Nhà nước điều chỉnh tỷ giá đều tạo sức ép tâm lý nặng nề, nhất là khi tỷ giá không được điều chỉnh thường xuyên, đến khi điều chỉnh sẽ tạo ra một bước nhảy đột ngột; lòng tin vào đồng tiền có thể vì thế mà dao động, tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ sẽ có cơ hội phát triển. Điều hành theo cơ chế mới, những năm đầu của thời kỳ đổi mới Ngân hàng Trung ương vẫn kiểm soát, điều hành tỷ giá theo tỷ giá chính thức nên vẫn không sát với tỷ giá thị trường. Chính vì vậy, qua quyết định số 64-65/1999/QĐ-NHNN7 đã bỏ việc công bố tỷ giá chính thức, thay bằng tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của VND so với USD và được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng thay cho việc công bố trực tiếp trên thị trường ngoại tệ LNH như trước đây. Tỷ giá này do Ngân hàng Nhà nước công bố hàng ngày được xác định trên cơ sở tỷ giá thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó; các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá mua bán giao ngay của VNĐ so với USD không vượt quá 0,1% so với tỷ giá này. Đây là một bước thay đổi cơ bản về chất trong cơ chế quản lý và điều hành tỷ giá , phản ánh một cách khách quan sức mua của VND so với ngoại tệ, đồng thời NHNN vẫn thể hiện được vai trò kiểm soát thị trường thông qua biên độ giao dịch. Tại Việt Nam, tỷ giá hối đoái cũng đã từng rơi vào tình trạng mất cân bằng, nhất là trong thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á vừa qua. Sự mất cân bằng này càng trầm trọng thêm do những biến động quá lớn từ bên ngoài và những thay đôỉ nội tại nền kinh tế Việt Nam. Chủ trương điều hành tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt theo tình hình quốc tế và trong nước với mục tiêu khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, tăng dự trữ ngoại hối là một chủ trương đúng đắn và hợp lý của Nhà nước trong tình hình thị trường tài chính quốc tế còn biến động phức tạp và bất ổn. Trong thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, trước sức ép phá giá tiền tệ của nhiều nước, Việt nam đã thận trọng và nhiều lần điều chỉnh tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam so với các loại ngoại tệ , bằng nhiều hình thức, giá trị danh nghĩa của đồng Việt Nam đã giảm 20%. Phương thức xử lý linh hoạt này đã khắc phục tình trạng mất cân bằng tỷ giá hối đoái của VNĐ so với các đồng tiền trong khu vực và thế giới vốn đã tồn tại trong một thời kỳ khá dài, đặc biệt trong điều kiện thị trường quốc tế và trong nước đã thay đổi lớn. Kết quả là đã giảm nhanh cơn sốt về tỷ giá ,giảm sức ép lên dự trữ ngoại hối, không gây đột biến trên thị trường tiền tệ và đảm bảo ổn định kinh tế -chính trị -xã hội nói chung. Thứ hai phải kể đến là sau khi khắc phục được hậu quả suy thoái kinh tế 1986 , kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh chóng mọi mặt, giữ vững ổn định tỷ giá trong nhiều năm ; cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và làm tăng dự trữ ngoại tệ. Có thể nói, qua các năm tỷ lệ xuất khẩu hàng năm ngày càng tăng : 1995 tăng 5,4% , 1996 tăng 7,2% ; 1997 tăng 9,1% ; 1998 tăng 19,3% ; 1999 tăng 11,5% ; 2000 tăng 14,3%. Tỷ lệ hàng nhập khẩu ngày càng giảm ,do đó tỷ lệ nhập siêu cũng giảm qua các năm : 1995 là 49,7% ; 1996 = 53,6% ; 1997 = 26,2% ; 1998 = 23,1% ; 1999 = 0,7% ; 2000 = 6,3%. Nhìn qua số liệu các năm, ta thấy tỷ lệ xuất khẩu vẫn tăng lên những vẫn xảy ra nhập siêu(cao nhất từ trước tới nay vào năm 1995, 1996). Điều này thực tế thấy được, vì nước ta đang trong thời kỳ CNH, HĐH nền kinh tế cần phải có cơ sở hạ tầng hiện đại. Vì thế chúng ta đã nhập chủ yếu là nguyên liệu và công nghệ (90%), nên xảy ra nhập siêu lớn hơn. Song tỷ lệ này đang ngày càng giảm dần. Một yếu tố nữa cũng góp phần quan trọng vào việc ổn định tỷ giá hối đoái là sự mở cửa hội nhập quốc tế về ngân hàng, nó làm nâng cao uy tín, danh tiếng cho hệ thống ngân hàng trên trường quốc tế. Sau nữa, phải nói rằng chiến lược trong chinh sách kinh tế mô của Việt Nam hiện nay đối với cơ chế tỷ giá. Nhà nước liên tục tăng giá qua các phiên giao dịch trong năm 2000( tính trung bình mỗi phiên tăng 7 VNĐ. Tuy không gây ảnh hưởng lớn lắm nhưng phần nào đã kích thích được xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tăng nguồn dự trữ ngoại tệ và đã làm cho đầu tư nước ngoài tăng lên so với mấy năm trước. Đặc biệt là sự tăng giá liên tục này không gây khủng hoảng tiền tệ, lạm phát, thậm chí còn đang ở tình trạng thiểu phát. Cơ chế tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của Nhà nước, chính sách này phù hợp với Việt Nam, nó đã bắt đầu dựa trên cung cầu thông qua thị trường liên ngân hàng. Đây là một trong những yếu tố thuận lợi để đồng tiền Việt Nam có thể trở thành đồng tiền chuyển đổi. Sau cùng là việc tăng tỷ giá khá cao trong năm 2000 làm cho đồng tiền Việt Nam bị mất giá đã chuyển dịch được một lượng lớn ngoại tệ vào Việt Nam, ngoại tệ vào bằng con đường kiều hối cũng khá nhiều. Gắn liền với công cuộc đổi mới và mở cửa ở nước ta, có nhiều yêu cầu phải giải quyết cùng một lúc: vừa ổn định, vừa phát triển kinh tểtong nước, vừa mở rộng giao lưu thương mại quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài... Nhu cầu mở rộng lượng tiền cung ứng ngày càng lớn, dẫn đến sự xác lập quan hệ cung cầu mới về tiền tệ, bắt đầu có tác động mạnh hơn đến sự vận động của tỷ giá hối đoái, trong khi đó vẫn tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô với hạt nhân là ổn định tiền tệ, tạo lập nền tảng cho phát triển chung. Tình hình tỷ giá biến chuyển không kém phần phức tạp kể từ sau năm 1992, một thời kỳ mà lạm phát đã nằm trong vòng kiểm toả của NHNN .Tuy thời kỳ này ta đã đạt được không ít hành tựu trong việc ổn định tỷ giá nhưng nó vẫn có những nhược điểm tồn tại . Thứ nhất, sự ổn định tỷ giá hối đoái là xu hướng cố định hoá tỷ giá hối đoái. Do vẫn bị tác động bởi nỗi ám ảnh về sự bùng nổ lạm phát trở lại, chính sách của NHNN là chú trọng duy trì sự ổn định bền vững tỷ giá hối đoái; mọi yêu cầu điều hành tiền tệ lúc này chủ yếu hướng vào sự ổn định sức mua đồng tiền là chính, bảo toàn tích luỹ, khuyến khích cho đầu tư phát triển. Tỷ giá được hình thành trên cơ sở thiên về cố định hơn là thả nổi , mặc dù có sự điều tiết không thường xuyên của NHNN nhằm khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát hợp lý nhập khẩu. Nói chung chính sách tỷ giá hối đoái (thời kỳ 1992-1996) đã đóng góp đáng kể vào việc thực hiện những mục tiêu trên, nhưng chủ yếu mới thiên về ‘’hướng nội’’, nổi bật là khuyến khích tích luỹ giá trị dưới dngj nội tệ hơn là ngoại tệ. Bên cạnh đó, xu hướng cố định hoá tỷ giá hối đoái từ năm 1992 đến nửa cuối năm 1997 (trước khủng hoảng tiền tệ ĐNA) cũng góp phần thúc đẩy làn sóng Dollars hoá, khuyến khích đầu cơ ngoại tệ qua ngân hàng, tăng rủi ro tỷ giá hối đoái và khả năng thanh toán quốc tế. Ta thấy chính sách tỷ giá trên chỉ có tác dụng trước mắt sau đó nó lại đem hậu quả tới. Khi chính phủ duy trì tỷ giá hối đoái danh nghĩa cố định, đồng tiền ổn định, lãi suất trong nước lớn hơn lãi suất quốc tế đã kích thích đầu tư làm cho luồng vốn đầu tư vào nước ta tăng lên khiến thay đổi tương quan về cung cầu tiền tệ cũng như ngoại tệ. Nếu Chính phủ vẫn cố gắng duy trì tỷ giá hối đoái cố định, mà không có biện pháp đẩu nhu cầu ngoại tệ lên thì đồng tiền trong nước dễ dàng trở nên bị đánh giá quá cao và kết quả sẽ là hạn chế xuất khẩu, khuyến khích nhập khẩu. Khi đó, Nhà nước sẽ phải áp dụng chính sách kìm chế nhập khẩu, thực hiện nhiều biện pháp bảo hộ hơn nữa, gây méo mó trong việc phân bổ nguồn lực của xã hội như mở rộng mặt hàng nhập khẩu theo hạn ngạch, tăng thuế nhập khẩu...Nếu tình trạng đánh giá cao đồng tiền trong nước keo dài mà vốn nước ngoài tiếp tục đổ vào, đến một lúc nào đó Chính phủ phải phá giá danh nghĩa đồng tiền trong nước, làm cho những người vay nợ nước ngoài bị thiệt hại rất lớn, đồng thời gây tác động mạnh đến lạm phát; lúc đó việc ổn định kinh tế càng trở nên khó khăn hơn. Phù hợp với lý thuyết, thực tế Việt Nam cho thấy, từ sau năm 1990 luồng vốn FDI tăng liên tục đã ảnh hưởng đến tỷ giá giữa VNĐ và ngoại tệ giao dịch chủ yếu là USD: từ 6650đ/USD năm 1990 tăng lên 12720đ/USD năm 1991, sau đó giảm xuống 10720đ/USD năm 1992 và trở nên ổn định liên tục đến 1996. Đặc biệt trong 3 năm 1994-1996 khi luồng vốn FDI vào Việt Nam tăng khá nhanh thì tỷ giá danh nghĩa giữa USD/VND hầu như không tăng trên thị trường, tức là VNĐ bị đánh giá cao một cách giả tạo so với USD, trong khi USD cùng thời gian đã lên giá khoảng 20% trên thị trường tiền tệ thế giới . Kết quả ngoài như đã phân tích còn đưa đến giảm ý nghĩa mọi sự khuyền khích xuất khẩu, tăng tỷ lệ nhập siêu, gây thâm hụt cán cân vãng lai (khoảng 13-14% GDP năm 1995,1996) nợ nước ngoài gia tăng, dự trữ ngoại tệ tăng chậm so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, sự đổ vỡ cán cân thanh toán luôn rình rập. Trước xu thế toàn cầu hoá, tự do hoá thị trường tài chính , tiền tệ thế giới dấy lên hết sức mạnh mẽ từ đầu thập niên 90 đến nay, ngày càng cho thấy những mặt trái không thể xem thường của nó. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam cũng bắt đầu bộc lộ những yếu kém từ cuối năm 1996, rõ rệt hơn là từ năm 1997 đến nay (nợ quá hạn chung ngân hàng gia tăng, đầu tư nước ngoài bắt đầu giảm tốc độ tăng tưởng GDP tụt dần cùng thời gian...). Tất cả cho thấy chính sách tỷ giá lúc đó hết sức bất lợi cho nền kinh tế, cần phải có sự thay đổi căn bản, hoàn thiện không ngừng để thích ứng tình hình và yêu cầu mới của nền kinh tế. Thứ hai, việc xác định tỷ giá hối đoái tỏ ra cứng nhắc và bị neo giữ, quy đổi VNĐ theo USD qua một tổ ngoại tệ hẹp( USD, DEM, FRF, GPP, JPY), trong đó chuyển đổi qua USD là chính. Do đó, nó không phản ánh đúng quan hệ kinh tế của các đồng tiền các nước với VNĐ. Sự chuyển đổi VNĐ ra ngoại tệ khác qua trung gian là USD sẽ làm sai lệch tỷ giá hối đoái. Vì thế mà ý nghĩa của tỷ giá hối đoái trong phân tích hoạt động kinh tế cũng bị giảm bớt. Mặc dù vẫn biết USD là đồng tiền mạnh nhất trong rổ ngoại tệ mạnh của thị trường tiền tệ thế giới, nó được làm phương tiện thanh toán cho phần đông các nước. Nhưng do VNĐ của ta gắn chặt với sự chuyển đổi qua USD là chính nên bất cứ một biến động giá nhỏ của đồng USD cũng ảnh hưởng tới VNĐ. Trong năm qua, các ngân hàng thương mại Việt Nam phải đồng loạt điều chỉnh tăng lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ là do từ tháng 6/1999 đến nay, Cục dự trữ liên bang Mỹ liên tục 6 lần tăng lãi suất chủ dạo khiến thị trường tiền tệ thế giới biến động mạnh; NHTƯ Châu Âu cùng lúc cũng tăng mức lãi suất chủ đạo lên 0,5%, đưa lãi suất tái cấp vốn lên 4,25%; gần đây NHTƯ Trung Quốc cũng đã nâng lãi suất tiền gửi từ 4,4375% lên 5%. Trong khi đó lãi suất huy động ngoại tệ ở nước ta lại thấp hơn đáng kể so với lãi suất thị trường thế giới , mức chênh lệch lãi suất khoảng 1,5%-2%/năm. Điều này đã gây sức ép lớn đối với mặt bằng lãi suất trong nước làm cho việc đầu tư tại nước ngoài đối với các ngân hàng trở nên vô cùng hấp dẫn. Loại kinh doanh chênh lệch lãi suất này không tạo ra rủi ro cho các ngân hàng mà vẫn hợp pháp, nó dẫn đến hiện thực là các ngân hàng huy động ngoại tệ để đưa ra nước ngoài gửi , trong khi dự trữ ngoại tệ quốc gia lại đang khan hiếm cho các khoản đầu tư phát triển đất nước. Mặt khác, lãi suất của USD tăng kéo theo lãi suất trên thị trường thế giới tăng hơn lãi suất trong nước gây cho Việt nam một áp lực phá giá đồng tiền để có thể cạnh tranh xuất khẩu với các nước khác. Thư ba, việc xác định tỷ giá thực của đồng Việt Nam so với ngoại tệ, với chủ tệ chính là USD, lâu nay các chính giới kinh tế -tài chính nước ta có đề cập tới, nhưng vẫn gặp bế tắc về cứ liệu kinh tế , giá cả và cả phương pháp luận tính toán...Nước ta tình trạng mất cân bằng tỷ giá hối đoái là thường xuyên xảy ra. Việc thiết lập một tỷ giá hối đoái sai lệch so với mức cân bằng vốn có của nó đã phải trả bằng một chi phí xã hội khá lớn như sự mất ổn định kinh tế, thất nghiệp gia tăng... Để hiểu rõ về sự cân bằng tỷ giá hối đoái thực trước hết ta phải hiểu tỷ giá hối đoái thực được gọi là cân bằng khi tại đó mức giá tương đối của hàng hoá mậu dịch và các hàng hoáphi mậu dịch mang lại sự cân bằng đồng thời ở cả khu vực kinh tế đối ngoại và kinh tế trong nước của một nền khin tế. Tỷ giá hối đoái thực cân bằng không phải là bất di bất dịch. Khi có bất kỳ biến số nào ảnh hưởng tới mức cân bằng đối nội và mức cân bằng đối ngoại thì tỷ giá này cũng thay đổi theo. Tỷ giá hối đoái cân bằng biến động khi những yếu tố cơ bản chi phối thay đổi. Thực tế này gây ra nhiều hậu quả đối với việc hoạch định chính sách. Tại bất kỳ thời điểm nào tỷ giá hối đoái thực đều phụ thuộc vào giá trị của những yếu tố chi phối cơ bản và chịu ảnh hưởng từ toàn bộ các sức ép kinh tế vĩ mô như cung tiền tệ quá mức cầu, thâm hụt tài chính... Làm thế nào để các nhà hoạch định chính sách, điều hành tỷ giá có thể đối phó với tình trạng mất cân bằng tỷ giá hối đoái? Với tình trạng mất cân bằng do các chính sách kinh tế vĩ mô, một bước đi có thể phải loại trừ sự mâu thuẫn giữa chính sách vĩ mô và tỷ giá hối đoái. Ngay cả khi những chính sách gây mất cân bằng được kiểm soát, tỷ giá hối đoái thực vẫn khác biệt với tỷ giá cân bằng. Vấn đề là làm thế nào để tỷ giá hối đoái thực quay trở lại giá trị cân bằng. Trong nhiều trường hợp mất cân bằng tỷ giá hối đoái thực sẽ có dạng đồng tiền bị định giá cao quá mức và mất khả năng cạnh tranh quốc tế. Nếu tỷ giá hối đoái danh nghĩa cố định , việc quay trở lại với mức cân bằng chỉ có thể thực hiện bằng cách giảm mức giá trong nước của hangf hoá phi mậu dịch. Điều này rất khó thực hiện trong thời gian ngắn, chính vì vậy mà tình trạng mất cân bằng sẽ kéo dài cùng với những tác hại của nó. Những tác hại này nhanh chóng gia tăng khi chính sách giá cả và tiền lương không linh hoạt. Kết quả là tình trạng thất nghiệp tăng lên đồng thời với sự thu hẹp sản lượng đầu ra. Thứ tư, hiện nay chính sách của Nhà nước là nâng tỷ giá lên làm đồng tiền Việt Nam mất giá nhằm mục đích khuyến khích xuất khẩu, kích thích đầu tư, hạn chế nhập khẩu, nhất là hàng tiêu dùng. Nhưng ai cũng biết rằng nhập khẩu nước ta còn phải đáp ứng nhu cầu trên 65% của sản xuất, lưu thông trong nền kinh tế . Đối với giá hàng nhập bằng đồng tiền hiện nay đã là một thách thức cho rất nhiều sản phẩm Việt Nam, vừa cả trong nội tiêu, vừa trên thị trường hướng ngoại. Ngay trong việc nhập siêu của nền kinh tế cũng đang có nhiều yếu tố chi phối, tỷ giá tuy có tác động điều chỉnh kim ngạch nhập khẩu, nhưng yêu cầu đảm bảo các cân đối của nền kinh tế lại có ý nghĩa quyết định hơn hết. Thứ năm, trong cơ chế tỷ giá thị trường được xác lập ở nước ta theo nguyên tắc “một tỷ giá’’ luôn luôn gặp đối kháng giữa các lợi ích. Giải quyết hài hoà là hết sức khó. Chính vì vậy mà đã từng có ý kiến đề nghị Nhà nước cho áp dụng chế độ trợ cấp tỷ giá đối với xuất khẩu, kiều hối và các nguồn thu ngoại tệ của dân cư Việt Nam, còn đối với đối tượng “người không cư trú’’ thì tỷ giá hiện hành là thích hợp, đảm bảo lợi ích quốc gia trong trao đổi ngang giá quốc tế. Nhưng làm như vậy, thì vô hình chung chúng ta lại đi theo con đường cũ của thời “đa giá’’ ,”đa tỷ giá” , có khi lợi bất cập hại ,xét trên bình diện vĩ mô toàn cục, vì điều đó sẽ không phù hợp với con đường nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong các quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng mở cửa, hội nhập vào tiến trình khu vực hoá, toàn cầu hoá. Thứ sáu, việc bỏ hẳn ấn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa sẽ đưa đến khó khăn nhất định trong dự báo một số cân đối lớn của nền kinh té như: cán cân vay, trả nợ nước ngoài, cán cân thanh toán vãng lai, tổng cung, tổng cầu tiền tệ của nền kinh tế, thu chi ngân sách... Đặc biệt là sẽ khó tính toán các mức lãi suất danh nghĩa, trong khi chính sách lãi suất rất cần ổn định lúc này để khuyến khích đầu tư. Thứ bảy, không nên mở rộng biên độ giao dịch tỷ giá, tức là quá ỉ lại vào biên độ tỷ giá, thay cho việc điều chỉnh hợp lý tỷ giá chính thức sẽ khiến việc điều hành của NHNN cứng nhắc về kỹ thuật và ít có tác dụng khi tình hình tiền tệ bất ổn, buộc NHNN thường xuyên phải điều chỉnh biên độ này. Điều này vô hình chung tạo kẽ hở lợi dụng cho các lực lượng thị trường. Các ngân hàng đua nhau giao dịch theo tỷ giá sát trần mà NHNN khó kiểm soát trạng thái ngoại hối của họ. Hơn nữa các nguồn ngoại tệ trong và ngoài luồng chính thức thường xuyên hoà trộn nhau, đầu cơ chênh lệch tỷ giá kiếm lời nảy sinh. Đành rằng mở rộng biên độ giao dịch là để tìm ra một tỷ giá phù hợp phản ánh đúng hơn thị trường và quy luật cung cầu song sự điều chỉnh bằng việc mở rộng biên độ quá lớn sẽ tạo cú sốc tâm lý khoong tích cực của người dân đối với chính sách tỷ giá của Nhà nước. Chẳng hạn, vào quí IV/1997, tỷ giá công bố của NHNN suốt hơn 1 năm là 11170-11175 VNĐ/USD, với biên độ được phép là 10% thì tỷ giá giao dịch thường xuyên của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là 11175 VNĐ * 1,1 =12292-12293 VNĐ. Chênh lệch thấp tới khoảng 7-8% so với tỷ giá thực tế thị trường (đã vọt lên mức trên 13000 VNĐ/USD từ tháng 11/1997). Các hiện tượng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ, gây căng thẳng giả tạo cung cầu ngoại tệ, làm phức tạp hoá quản lý ngoại hối của Nhà nước, phần nào có nguyên nhân từ sự bất cập của cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái chưa thích ứng với hiẹen trạng VNĐ ở xu hướng bị đánh giá cao quá mức. Mặt khác NHNN thông qua tỷ giá chính thức thấp và biên độ khống chế 10% đã buộc các NH thương mại phải giao dịch với tỷ giá ở mức tối đa sát trần mà vẫn thấp hơn 10% so với thực tế. Sự bất hợp lý này chỉ giải quyết bằng cách điều chỉnh tỷ giá hối đoái danh nghĩa, chứ nới rộng thêm nữa biên độ giao dịch tỷ giá là hết sức nguy hiểm. Kinh nghiệm Thái Lan sau khi mở biên độ giao dịch lên 25%( khoảng trước 1/7/1997) đã nhanh chóng rơi vào hoảng loạn hối đoái thực khiến NHTƯ nước này tiêu tốn gần 12 tỷ USD để can thiệp duy trì biên độ không đem lại kết quả. í thức được hiểm hoạ đó NHNN Việt Nam đã thu hẹp biên độ từ 10% xuống 7% năm 1998. Một nguyên nhân nữa không nên lạm dụng quá biên độ dao động tỷ giá để điều chỉnh, kiểm soát thị trường ngoại tệ vì thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chưa phát triển hoàn hảo, chưa phản ánh được toàn bộ quan hệ cung cầu ngoại tệ của đất nước, nên bản thân liều lượng dự trữ bỏ ra để can thiệp hết sức hạn hẹp của NHNN nhằm kiểm soát dao động của tỷ giá cũng chỉ có tác dụng trong phạm vi hẹp tương ứng. Theo đó , xét cả về mức độ lẫn quy mô vận hành thì cơ chế điều hành mới vẫn còn độ cứng nhắc khá cao. Thứ tám, chính sách của Chính phủ (trong đó có chính sách tỷ giá ) không ổn định luôn thay đổi ,không phù hợp với thực tiễn và quá trình phát triển của nền kinh tế; do nước ta là nước đang phát triển nên có những nhiệm vụ chồng chất, có những mục tiêu mâu thuẫn nhau. Vấn đề là định hướng theo mục tiêu chính, vì mục tiêu dài hạn nên chính sách tỷ giá cũng có phần định hướng theo chủ quan, bị áp đặt làm cho hoạt động không có hiệu quả. Thứ chín, hai năm trở lại đây, Việt Nam thực hiện phá giá đồng tiền để tăng sự cạnh tranh hàng hoá xuất khẩu với các nước khác. nhưng biện pháp này không đạt hiệu quả mấy vì nó không có sự kết hợp phù hợp với chính sách vĩ mô khác, nó mâu thuẫn với chính sách phát triển kinh tế. Vì Nhà nước thực hiện song song với việc mở rộng tín dụng ngân hàng, tăng tiền lương...để kích cầu. Nếu quốc gia thực hiện phá giá vào thời điểm tỷ giá hối đoái thực đang trong tình trạng định giá quá cao thì việc phá giá sẽ hiệu quả trong việc lấy lại mức cân bằng tỷ giá hối đoái. Nếu việc phá giá danh nghĩa được thực hiện đồng thời với các chính sách thắt chặt tiền tệ và tài chính không đi đôi với chỉ số tiền lương thì chắc chắn sẽ đạt được sụ giảm giá tiền thực tế và khiến cho tỷ giá hối đoái thực trở về với mức cân bằng . Những nhược điểm trên bao gồm cả khách quan và chủ quan đều náy sinh trong thời kỳ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29328.doc
Tài liệu liên quan