Đề tài Thực trạng và giải pháp cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam

Lời mở đầu 4

Chương 1. Thực trang thị trường chứng khoán Việt Nam 5

1.1. Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam 5

1.1.1. Quá trình chuẩn bị 5

1.1.2. Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam 6

1.2. Thực trạng hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam 7

1.2.1. Các phiên giao dịch 7

1.2.2. Quy mô của thị trường chứng khoán Việt Nam 8

1.2.3. Các chủ thể tham gia 11

1.3. Đánh giá chung về thị trường chứng khoán Việt Nam 13

1.3.1. Những thành công 13

1.3.2. Những hạn chế 15

 

Chương 2. Giải pháp cho sự phát triển thị trường CK Việt Nam .17

2.1. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 17

2.1.1. Yêu cầu hoàn thiện và phát triển 17

2.1.2. Những định hướng cơ bản 19

2.2. Một số giải pháp cho sự phát triển của

thi trường chứng khoán Việt Nam 21

2.2.1. Hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý cho thị trường 21

2.2.2. Tạo hàng hoá có chất lượng cho thị trường chứng khoán 22

2.2.3. Mở rộng và nâng cao chất lượng các tổ chức tài chính trung gian 24

2.2.4. Xây dựng hệ thống giao dịch mới đáp ứng yêu cầu

phát triển của thị trường 25

2.2.5. Tăng cường công tác quản lý và giám sát 26

2.2.6. Đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ 27

Kết luận 28

Tài liệu tham khảo 29

doc23 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1138 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hực hiện. Từ phiên giao dịch đầu tiên đến hết năm 2000 có 66 phiên giao dịch. Năm 2001 có 152 phiên giao dịch và năm 2002 con số phiên giao dịch là 218 phiên. Ban đầu trung tâm giao dịch chứng khoán chỉ tiến hành giao dịch 3 phiên 1 tuần. Từ ngày 1/3/2002 đã nâng lên thành 5 phiên một tuần. Thời gian giao dịch trong các phiên từ 9 đến 10 giờ các buổi sáng từ thứ hai đến thứ sáu hàng tuần. Việc tăng phiên giao dịch này đã có tác dụng tích cực tới việc giao dịch và niêm yết các chứng khoán trên thị trường. 1.2.2. Quy mô của thị trường chứng khoán Việt Nam Thị trường chứng khoán Việt Nam ban đầu chỉ có 4 loại cổ phiếu với tổng giá trị cổ phần vào khoảng hơn 300 tỷ đồng và 2 loại trái phiếu Chính phủ.Tính đến hết năm 2002 số lượng cổ phiếu đã lên tới con số 20. Các nhà đầu tư đã có thể tiếp cận với 41 loại trái phiếu, trong đó có 39 loại trái phiếu Chính phủ và 2 loại trái phiếu doanh nghiệp với tổng giá trị trái phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán đạt 4.276.338 tỷ đồng. Hiện nay có 9 công ty chứng khoán hoạt động trên thị trường, trong đó có 3 công ty cổ phần và 6 công ty trách nhiệm hữu hạn. Có 20 công ty niêm yết trên thị trường với các mã chứng khoán như sau: REE, SAM, HAP, TMS, LAF, SGH, CAN, DPC, BBC, TRI, GIL, BTC, BPC, BT6, GMD, AGF, SAV, TS4, KHA, HAS. Tuy nhiên quy mô của thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhỏ bé so với tổng giá trị thị trường, chưa đạt được 0,5% GDP. Khối lượng giao dịch trong năm 2001 và năm 2002: Năm Tổng khối lượng giao dịch Giao dịch khớp lệnh Giao dịch thoả thuận 2001 19.721.930 17.811.430 1.910.500 Tỷ trọng(%) 100 90,31 9,69 2002 36.818.849 29.558.290 7.260.559 Tỷ trọng(%) 100 80,28 19,72 Bảng 1: Khối lượng giao dịch năm 2001 và 2002 Nguồn: Tổng cục thống kê Giá trị giao dịch trong năm 2001 và năm 2002: Năm Tổng giá trị giao dịch (1000đ) Giao dịch khớp lệnh (1000đ) Giao dịch thoả thuận (1000đ) 2001 1.034.721.064 931.151.629 103.569.435 Tỷ trọng(%) 100 89, 99 10,01 2002 2.076.731.706 785.397.325 291.334.471 Tỷ trọng(%) 100 72,94 27,06 Bảng 2: Giá trị giao dịch năm 2001 và 2002 Nguồn: Tổng cục thống kê Đó là tình hình giao dịch của thị trường chứng khoán Việt Nam trong các năm 2001 và 2002. Ta sẽ thấy được sự chênh lệch về quy mô giữa thị trường chứng khoán Việt Nam và một số thị trường chứng khoán khác. Trong khi quy mô của thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá nhỏ bé so với tổng giá trị thị trường, chưa đạt được 0,5% GDP thì theo số liệu từ năm 1994, các thị trường chứng khoán của các quốc gia khác đã đạt được quy mô rất lớn. Dưới đây là bảng tổng hợp các chỉ số chủ yếu của các thị trường chứng khoán quan trọng của thế giới năm 1994. Các chỉ số chủ yếu của thị trường chứng khoán một số nước năm 1994 (đơn vị tỷ USD) Nước và khu vực Thị trường cổ phiếu Thị trường trái phiếu USD GDP% USD GDP% China 44 9 33 7 Hongkong 270 205 11 9 Indonesia 47 30 9 6 Korea 192 51 161 43 Malaysia 199 283 40 56 Philippines 56 87 25 39 Singapore 135 217 45 72 Thailand 132 94 14 10 Germany 471 25 1719 90 Japan 3720 80 3443 74 UK 1210 116 366 35 USA 5082 75 7429 110 Bảng 3: Các chỉ số chủ yếu của thị trường chứng khoán một số Quốc gia Nguồn: The emerging Bond Market 6/1995/ của WB Ta thấy so với thị trường chứng khoán của các Quốc gia phát triển trên thế giới thì thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá nhỏ bé so với tổng giá trị thị trường, chưa có một vị thế xứng đáng trong hệ thống tài chính với tư cách là kênh huy động vốn trực tiếp cho nền kinh tế. Song đây mới chỉ là sự khởi đầu, không thể trong một thời gian ngắn lại đáp ứng ngay mục tiêu huy động vốn. Vấn đề là ở chỗ phải xác định, xây dựng được chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đáp ứng nhu cầu cho nền kinh tế. 1.2.3. Các chủ thể tham gia Các thành viên tham gia thị trường chứng khoán gồm có: Trung tâm giao dịch chứng khoán, Các công ty niêm yết, các công ty chứng khoán, các nhà quản lý, các nhà đầu tư… Trung tâm giao dịch chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch chứng khoán. Để thị trường chứng khoán có thể hoạt động minh bạch, hiệu quả và an toàn , không thể thiếu các tổ chức tài chính trung gian, trong đó có các công ty chứng khoán, nhờ các công ty chứng khoán mà các cổ phiếu, trái phiếu lưu thông tấp nập trên thị trường, qua đó một lượng vốn nhàn rỗi được đưa vào đầu tư cho phát triển kinh tế từ những nguồn vốn lẻ tẻ trong công chúng. Các công ty chứng khoán là một tổ chức kinh doanh chứng khoán, có tư cách pháp nhân, có vốn riêng hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế, hoạt động theo giấy phép của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp. Các công ty chứng khoán có chức năng của người môi giới, người chuyên viên và bảo lãnh chứng khoán. Để có thể hoạt động, các công ty chứng khoán phải hội đủ các điều kiện do luật định và phải đăng ký kinh doanh. Theo quy chế dự thảo về chức năng công ty chứng khoán Việt Nam có thể bao gồm như sau: - Công ty chứng khoán là người môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Công ty là người trung gian mua bán chứng khoán nợ, chứng khoán vốn, chứng quyền, bảo chứng phiếu và hợp đồng quyền lựa chọn. Công ty chứng khoán thực hiện các lệnh mua bán chứng khoán tại sàn giao dịch. Các công ty chứng khoán nắm giữ một khối lượng tiền bạc và chứng khoán của khách hàng. - Chức năng thứ hai của công ty chứng khoán là tự doanh, có nghĩa là kinh doanh mua bán cho mình theo nguyên tắc ưu tiên cho khách hàng trước rồi đến mình sau. Tuyệt đối cấm những giao dịch của công ty chứng khoán mà thanh toán bằng tiền của khách hàng. - Chức băng thứ ba của công ty chứng khoán làbảo lãnh phát hành. Nhờ vào chức năng trung gian của mình mà công ty chứng khoán có mối quan hệ rộng rãi với khách hàng, nhất là các nhà đầu tư để triển khai hoạt động bảo lãnh chứng khoán mới phát hành. - Chức năng thứ tư của công ty chứng khoán là cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán cho khách hàng. Hoạt động tư vấn đòi hỏi có nhiều kiến thức chuyên môn mà không cần có nhiều vốn. Hiện nay ở Việt Nam có 9 công ty chứng khoán hoạt động trên thị trường, trong đó có 3 công ty cổ phần và 6 công ty trách nhiệm hữu hạn. Một trong những thành viên không thể thiếu được của thị trường chứng khoán đó là các công ty niêm yết chứng khoán. Các công ty niêm yết có nhiệm vụ phát hành chứng khoán và công bố thông tin. Cũng như các công ty chứng khoán, các công ty niêm yết muốn hoạt động cũng phải hội đủ các điều kiện về pháp lý cũng như về tài chính. Tính đến hết năm 2002, ở Việt Nam có 20 công ty niêm yết chứng khoán. Các nhà quản lý ở đây chính là Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng và vận hành thị trường chứng khoán. Một trong các thành viên tham gia thị trường chứng khoán đó là các nhà đầu tư, bao gồm các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Đây là một lực lượng rất quan trọng và không thể thiếu được. 1.3. Đánh giá chung về thị trường chứng khoán Việt Nam Những thành công Thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được sự hoạt động ổn định và tạo ra xu thế thuận lợi cho sự tiếp tục phát triển. Thị trường chứng khoán Việt Nam đã được dựa trên căn bản một môi trường kinh tế và đầu tư của đất nước ngày càng được cải thiện, đồng thời là sự chỉ đạo sát sao của Đảng và Chính phủ trong chủ trương quyết tâm và kiên trì xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với những chỗ dựa vững chắc đó, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước phối hợp cùng các Bộ, ngành liên quan đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành được một hệ thống văn bản pháp luật và hướng dẫn hoạt động, quản lý thị trường tương đối đầy đủ, đảm bảo cho sự vận hành ban đầu một thị trường còn mới mẻ của Việt Nam. Trải qua thời gian, hoạt động quản lý vận hành của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ngày càng sâu sát và từng bước hoàn thiện trên cơ sở rút kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn. Trong quá trình quản lý loại hình thị trường chứng khoán mới mẻ và phức tạp này, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã đề ra những biện pháp, chính sách thích hợp, kịp thời, nhằm đảm bảo cho thị trường hoạt động ổn định, công khai, công bằng và hiệu quả , không để xảy ra những hậu quả bất ổn đáng tiếc. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán như trung tâm giao dịch, công ty niêm yết, công ty chứng khoán, các nhà quản lý, các nhà đầu tư… trải qua những bước đầu làm quen nay đã trưởng thành một bước và tham gia thị trường với vai trò ngày càng tích cực hơn. Các công ty niêm yết đã bắt đầu có chuyển biến trong việc hiểu biết, tiếp cận và sử dụng Thị trường chứng khoán để huy động và lưu thông vốn, hiểu được sự cần thiết và lợi thế của việc công khai thông tin công ty và cải tiến cơ chế quản lý và quản trị công ty theo hướng phù hợp với chuẩn mực quốc tế để nâng cao chất lượng và uy tín. Việc công bố thông tin của công ty niêm yết ngày càng đi vào nề nếp. Các công ty chứng khoán đều đã hoạt động có lãi sớm hơn dự tính và hầy hết đã tăng vốn hoạt động, mở rộng phạm vi hoạt động, mở thêm nhiều chi nhánh và đại lý nhận lệnh tại 7 tỉnh, thành phố là: Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Đồng Nai, Bình Dương, Long An. Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức và vận hành thị trường ổn định. So với thời gian đầu khá khiêm tốn, sau hơn hai năm hoạt động đến nay thị trường đã từng bước phát triển một cách khá chắc chắn. Trên nền tảng của những bước phát triển đó, nhằm xây dựng một thị trường chứng khoán Việt Nam hoàn thiện, theo quyết định và chỉ đạo của Chính phủ, chúng ta đang triển khai thị trường giao dịch cổ phiếu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Công tác đào tạo nhân lực và kiến thức ngành chứng khoán như công tác thông tin, tuyên truyền luôn được chú trọng và triển khai thường xuyên, đã đóng góp đáng kể trong việc phát triển thị trường về mọi mặt. 1.3.2.Những hạn chế Bên cạnh những mặt được cơ bản nói trên, hoạt động của thị trường chứng khoán trong thời gian qua đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Một là, khuôn khổ pháp ký hiện nay chưa đầy đủ và đồng bộ. Nghị định 48/1998/ NĐ-CP là văn bản pháp luật cao nhất về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nghị định này được nghiên cứu và ban hành vào thời điểm mà nước ta còn chưa có thị trường chứng khoán, vì vậy khi triển khai có những hạn chế nhất định như: chưa phân định rõ về phát hành chứng khoán ra công chúng và niêm yết chứng khoán, chưa thể hiện rõ nguyên tắc và cơ chế giao dịch, chưa phân định cụ thể vai trò của trung tâm giao dịch chứng khoán và của uỷ ban chứng khoán Nhà nước trong việc quản lý, giám sát thị trường. Mô hình tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản ký quỹ chưa phân định rõ ràng và thiếu tính hiện thực. Một số chính sách về quản lý tà chính và hạch toán kế toán đối với công ty cổ phần chưa được ban hành đồng bộ, quy định về chính sách thuế và quản lý ngoại hối đối với các nhà đầu tư nước ngoài chưa được ban hành. Hai là, số lượng và chủng loại hàng hoá trên thị trường còn ít. Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước còn khó khăn, phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong khi đó điều kiện niêm yết khá cao; bên cạnh đó nhiều doanh nghiệp chưa có nhu cầu huy động vốn do thiếu dự án đầu tư hoặc không thấy hết được việc niêm yết; chính vì vậy chỉ một số ít các công ty tham gia niêm yết trên thị trường. Số lượng hàng hoá ít, quan hệ cung cầu mất cân đối, từ đó làm cho hoạt động thị trường chưa thực sự ổn định. Ba là, hệ thống giao dịch thị trường còn hạn chế. Hệ thống giao dịch hiện nay là đấu lệnh tập trung, khớp lệnh định kỳ. Hệ thống này chỉ hợp với giai đoạn đầu của thị trường chứng khoán. Mặt khác, hệ thống này chưa có các chức năng cảnh báo, giám sát, vì vậy phần nào cũng có hạn chế trong việc quản lý. Bốn là, các tổ chức trung gian còn ít và hoạt động đơn điệu. Các công ty chứng khoán hiện nay mới chỉ tập trung vào nghiệp vụ môi giới trong phạm vi các địa bàn nơi công ty đóng trụ sở. Các nghiệp vụ khác như bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư chưa được triển khai đồng bộ. Cho đến nay chưa có một quỹ đầu tư chứng khoán nào được thành lập; các công ty quản lý quỹ đầu tư, công ty xếp hạng tín nhiệm chưa được hình thành. Năm là, vai trò quản lý và điều hành của Nhà nước cần được xem xét và phân định rõ. Phải nói rằng trong thời gian qua, Nhà nước có vai trò quam trọng trong việc xây dựng và vận hành thị trường chứng khoán. Tuy nhiên về lâu dài, cần xác định rõ hơn vai trò của Nhà nước đối với hoạt động thị trường. Nếu như Nhà nước can thiệp quá sâu sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển và mất đi khả năng tự điều chỉnh của thị trường. Hoạt động giao dịch chứng khoán chưa niêm yết trên thị trường tự do không có văn bản pháp lý điều chỉnh, trong khi đây là đối tượng quan trọng, bởi vì có rất nhiều cổ phiếu của các công ty cổ phần không đủ điều kiện niêm yết đang giao dịch trên thị trường này. Với vai trò định hướng, hướng dấn , Nhà nước cần phải có chính sách thích hợp. Có thể nói qua hơn 2 năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được một số thành công rất đáng khích lệ. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những hạn chế. Để thị trường có được sự phát triển và ổn định lâu dài, cần phải có các giải pháp khắc phục. Chương 2 Giải pháp cho sự phát triển thị trường chứng khoán ở Việt nam 2.1 Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 2.1.1. Yêu cầu hoàn thiện và phát triển Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9 đã xác định “Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường bao gồm thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường tiền tệ…., kể cả trong nước và ngoài nước” Trên cơ sở đó, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cần xây dựng chiến lược phát triển với mục tiêu tổng quát là: “củng cố, phát triển thị trường chứng khoán Việt nam, bao gồm cả thị trường tập trung và thị trường phi tập trung, hoàn chỉnh môi trường pháp lý, môi trường đầu tư thuận lợi, nhằm thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế, góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ”. Mục tiêu phát triển thị trường trong những năm tới là: tiếp tục củng cố, ổn định hoạt động thị trường, nâng cấp, hiện đại hoá thị trường nhằm bảo vệ người đầu tư có hiệu quả, tạo kênh huy động vốn dài hạn, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu trước mắt là củng cố, nâng cấp hiện đại hoá hệ thống của trung tâm giao dịch chứng khoán, nâng cấp hệ thống giao dịch tiến tới khớp lệnh liên tục. Hiện đại hoá hệ thống công bố thông tin, hệ thống giám sát thị trường, xây dựng hệ thống giám sát tự động kế nối với các hệ thống giao dịch, công bố thông tin, lưu ký thanh toán. Chuẩn bị các điều kiện để hoạt động tài chính. Xây dựng trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội phục vụ cho trung tâm giao dịch vừa và nhỏ. Đầu tư xây dựng trung tâm lưu ký, phục vụ cho cả hai trung tâm giao dịch chứng khoán tiến tới sau năm 2005 có thể thành lập một trung tâm chứng khoán thống nhất, gọi là sở giao dịch chứng khoán. Mục tiêu căn bản của thị trường chứng khoán là huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế. Quy mô của giá trị thị trường phải đạt 6,4 % GDP vào năm 2005 và 20 – 25 % GDP vào năm 2010 mới thực sự đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế. Có thể hình dung thị trường chứng khoán Việt Nam làm hai mảng, gồm thị trường cho các doanh nghiệp lớn có uy tín và thị trường cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức cũng có ý nghĩa là xây dựng thị trường huy động vốn cho các công ty mạo hiểm. Đa chủng loại hàng hoá, ngoài cổ phiếu phổ thông sẽ đưa thêm các loại cổ phiếu ưu đãi, quyền mua cổ phiếu vào giao dịch. Đối với trái phiếu, ngoài trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Ngân hàng đầu tư sẽ đưa thêm trái phiếu công trình, trái phiếu doanh nghiệp vào niêm yết. Thúc đẩy hình thành các quỹ đầu tư chứng khoán. Khuyến khích các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng của các doanh nghiệp cổ phần hoá và các công ty tư nhân, công ty liên doanh với nước ngoài như: chính sách ưu đãi thuế, chính sách ưu đãi cho vay thương mại. Củng cố và phát triển các công ty chứng khoán. Nâng cấp quy mô vốn và mở rộng hoạt động hoạt động nghiệp vụ của các công ty chứng khoán. Khuyến khích các công ty chứng khoán mở rộng nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán. Mở rộng mạng lưới dịch vụ chi nhánh, đại lý nhận lệnh của các công ty chứng khoán. Hiện đại, hoá cơ sở vật chất kỹ thuật thông tin nối mạng giữa công ty chứng khoán với trung tâm giao dịch chứng khoán và người đầu tư. Tăng cường các hoạt động giám sát thị trường nói chung tăng cường việc giám sát thị trường thông qua việc tăng cường tổ chức các hoạt động theo dõi, kiểm tra, thanh tra các hoạt động trên thị trường để kịp thời ban hành chính sách điều chỉnh phù hợp và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Thành lập hiệp hội chứng khoán, xây dựng hiệp hội chứng khoán với sự tham gia chủ yếu là của các công ty chứng khoán, hoạt động như một tổ chức tự quản, có vai trò và chức năng tự quản, tự giám sát đảm bảo hoạt động ổn định của các công ty chứng khoán, phát triển thị trường, thúc đẩy sự phát triển công ty chứng khoán. 2.1.2. Những định hướng cơ bản: Giai đoạn 2003-2005 : Củng cố thị trường chứng khoán, và hoàn thiện xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản cho thị trường, từng bước phát triển quy mô, phạm vi hoạt động thị trường chứng khoán. Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là hoàn thiện khung pháp luật cho hoạt động thị trường chứng khoán, tăng cung hàng hoá, hoàn thiện cơ sở hạ tầng vật chất, kỹ thuật của thị trường, xây dựng và phát triển các chế định trên thị trường. Một số chỉ tiêu cụ thể: Phấn đấu đưa tổng giá trị thị trường đạt tới mức 2-3 % GDP xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán ban đầu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội. Hoàn thiện, nâng cấp hệ thống giao dịch tự động tại thành phố Hồ Chí Minh để thay thế hệ thống giao dịch ban đầu phát triển các công ty niêm yết, công ty chứng khoán thành lập một số công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán. Giai đoạn 2006 – 2010: Tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ của thị trường chứng khoán. Nhiệm vụ chủ yếu là mở rộng và tăng cường năng lực của thị trường, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kinh tế, dịch vụ, khuyến khích tăng cường khả năng cạnh tranh, thúc đẩy hội nhập quốc tế. Một số chỉ tiêu cụ thể: Tổng giá trị thị trường đạt 10-15% GDP Nâng cấp trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh thành sở giao dịch chứng khoán, hệ thống giao dịch, giám sát thị trường, thông tin thị trường tự động hoá hoàn toàn. Nâng cấp trung tâm giao dịch thị trường chứng khoán Hà Nội và chuẩn bị điều kiện đến năm sau: 2010 đưa trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội trở thành trung tâm phi tập trung. Thành lập một trung tâm lưu ký độc lập, cung cấp đồng thời các dịch vụ thanh toán, lưu ký, đăng ký chứng khoán tập trung. Thành lập thí điểm một số công ty định mức tín nhiệm Với những mục tiêu trên cần nghĩ đến những vấn đề mấu chốt để xây dựng thành công ty thị trường này. Thứ nhất, phải có sự nỗ lực của uỷ ban chứng khoán nhà nước trong việc thực thi chiến lựơc phát triển thị trường, phải xây dựng lòng tin của công chúng đầu tư, các công ty chứng khoán phải nhập cuộc, thông qua hiệp hội chứng khoán để hiệp sức lại thúc đẩy việc tạo hàng cho thị trường, đồng thời tạo ra môi trường đầu tư lành mạnh, bình đẳng. Thứ hai, phải có được cơ chế cho thị trường, trước hết Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước nên đóng vai trò là người quản lý Nhà nước vì trên một số phương diện, thị trường chứng khoán phải được chủ động trong việc xây dựng và giám sát. Bộ máy Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cũng phải được tổ chức là cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hoạt động độc lập, đáp ứng yêu cầu quản lý linh hoạt, nhạy bén với thị trường chứng khoán. 2.2. Một số giải pháp cho sự phát triển của thị trường chứng khoán tại Việt Nam 2.2.1. Hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý cho thị trường Về lâu dài cần phải xây dựng luật chứng khoán. Trước mắt, nghiên cứu trình Chính phủ ban hành nghị định mới về chứng khoán và thị trường chứng khoán để thay thế Nghị định 48/1998/NĐ - CP . Nghị định này cần bổ sung vào những nội dung hoạt động giao dịch Bảng 2 theo đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và bổ sung sửa đổi những vấn đề khác có liên quan. Vấn đề quan trọng là phân định rõ tiêu chuẩn niêm yết trên Bảng 1 và Bảng 2, cụ thể như sau: Những cổ phiếu của các công ty có vốn điều lệ từ 10 tỷ trở lên, hoạt động kinh doanh có lãi 2 năm liên tục, có ít nhất 20% số cổ phiếu bán cho trên 100 nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp, sẽ được niêm yết và giao dịch trên Bảng 1 Những cổ phiếu của các công ty có vốn điều lệ từ 5 tỷ trở lên đến dưới, hoạt động kinh doanh có lãi ít nhất một năm, có khả năng phát triển tốt, có ít nhất 1 năm, có khả năng phát triển tốt, có ít nhất 10% cổ phiếu được phát hành ra công chúng, thì được niêm yết ở Bảng 2 Các chứng khoán có đủ tiêu chuẩn niêm yết tại Bảng 1 không được đăng ký giao dịch tại Bảng 2: chứng khoán ở Bảng 2 sau một thời gian nếu đủ điều kiện thì được chuyển lên Bảng 1. Có nội khác như phát hành chứng khoán ra công chúng, niêm yết, giao dịch, thanh toán bù trừ, đăng ký lưu ký, giám sát thanh tra…. được bổ sung sửa đổi phù hợp và áp dụng cho cả hai bảng giao dịch Các văn bản pháp lý khác bao gồm: Luật doanh nghiệp, Luật tổ chức tín dụng, Luật thương mại, Luật thuế, Luật kế toán…. cần có sự đồng bộ và thống nhất với Luật chứng khoán. Trước mắt cần bổ sung và hoàn chỉnh các quy định về quản lý tài chính doanh nghiệp, kế toán, chính sách thuế và quản lý ngoại hối (liên quan đến đầu tư của bên nước). 2.2.2.Tạo hàng hoá có chất lượng cho thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán đòi hỏi có những doanh nghiệp lớn, làm ăn có hiệu quả đưa cổ phiếu của mình lên niêm yết và giao dịch trên trung tâm giao dịch chứng khoán, từ đó tạo ra sự phát triển bền vững cho thị trường, tạo lòng tin cho các nhà đầu tư. Để thực hiện được điều đó đòi hỏi các Bộ, ngành cần phải có sự phối kết hợp chặt chẽ trong việc phối kết hợp giữa tiến trình cổ phần hóa với sự phát triển thị trường chứng khoán cụ thể như sau: Bộ tài chính trình Chính phủ sửa đổi Nghị định 44/1998/NĐ - CP về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước nhằm khắc phục những trở ngại về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước hiện nay. Lựa chọn những doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả đê cổ phần hoá gắn với việc đăng ký niêm yết trên thị trường chứng khoán. Cải tiến lại cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp, cải tiến phương thức bán cổ phần theo hướng giành một tỷ lệ nhất định để bán ra công chúng thông qua đấu thầu hoặc bảo lãnh phát hành. Thống nhất tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của các nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phiếu khi cổ phần hoá và tỷ lệ nắm giữ khi đầu tư trên thị trường chứng khoán. Thống nhất mẫu cổ phiếu, từng bước thực hiện phi vật chất hoá cổ phiếu và quy định về đại lý chuyển nhượng cổ phiếu đối với công ty cổ phần Tăng cường công tác quản trị công ty, nhất là quản trị công ty cổ phần niêm yết cần được quan tâm hơn. Chính phủ cần ban hành Nghị định về quản trị công ty, trên cơ sở đó, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước hướng dẫn thông lệ tốt nhất về quản trị công ty cho các tổ chức phát hành và niêm yết. Cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán cần xem xét hoàn chỉnh quy trình xét duyệt hồ sơ phát hành, đăng ký niêm yết để vừa đảm bảo quản lý chặt chẽ, vừa đảm bảo thuận tiện cho các doanh nghiệp giảm bớt thư tục hành chính. Đối với các cổ phiếu niêm yết trên Bảng 1 thực hiện chế độ niem yết. Đối với cổ phiếu niêm yết trên Bảng 2 thực hiện chế độ đăng ký giao dịch với các thủ tục đơn giản hơn, nhưng vẫn phải đảm bảo yêu cầu quản lý. 2.2.3. Mở rộng và nâng cao chất lượng các tổ chức tài chính trung gian Thị trường chứng khoán phát triển tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào các tổ chức tài chính trung gian, vì nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là thực hiện qua các tổ chức tài chính trung gian. Để phát triển hệ thống này cần phải: Mở rộng phạm vi hoạt động của các công ty chứng khoán cho phép thành lập thêm công ty chứng khoán mới và cho phép mở chi nhánh ở các tỉnh, thành phố lớn. Các công ty chứng khoán vừa và nhỏ là thành viên giao dịch Bảng 1 vừa là thành viên thị trường Bảng 2. Nâng cao chất lượng phục vụ của các công ty chứng khoán, tập trung chủ yếu vào chất lượng đội ngũ cán bộ nhân viên phục vụ hành nghề chứng khoán. Đội ngũ này cần phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi, có đạo đức nghề nghiệp cao. Thành lập thêm các tổ chức tài chính trung gian khác như các công ty quản lý quỹ, tổ chức xếp hạng tín nhiệm, cho phép các công ty kiểm toán nước ngoài được tham gia kiểm toán các tổ chức phát hành niêm yết và kiểm toán các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán. Cần xem xét lại điều kiện thành lập và mô hình tổ chức

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0771.doc
Tài liệu liên quan