Đề tài Thực trạng và giải pháp cho vấn đề nợ nước ngoài tại Việt Nam

Mục lục

Phần mở đầu: 2

I/ Tổng quan về việc quản lý nợ nước ngoài tại Việt Nam 3

1.1/Tổng quan nợ nước ngoài 3

1.1.1/Định nghĩa “nợ nước ngoài” 3

1.1.2/Phân loại nợ nước ngoài 4

1.1.4/Các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài 5

1.1.5/Vai trò của nợ nước ngoài 6

1.2/Vấn đề quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam 7

1.2.1. Khái niệm về quản lý nợ nước ngoài 7

1.2.2/Nội dung quản lý nợ nước ngoài 8

II/Thực trạng về việc quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam 8

2.1/Tình hình vay nợ nước ngoài của VN 8

2.1.1/Các phương thức vay nợ chủ yếu 8

2.2/Tình hình quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam 11

2.2.1/Cơ chế quản lý 11

2.2.2. Đánh giá về tình hình nợ nước ngoài tại Việt Nam 12

2.2.3. Hiệu quả sử dụng nợ vay 13

2.3.ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM 14

2.3.1.Các mặt đạt được 14

2.3.2/Một số tồn tại và nguyên nhân trong quản lý nợ nước ngoài 14

2.3.3/Nguyên nhân dẫn đến những mặt còn tồn tại 16

III/Các giải pháp tăng cường giám sát và quản lý nợ nước ngoài tại VN 16

3.1/Giải pháp đảm bảo khả năng tiếp nhận nợ vay nước ngoài 16

3.2/Các giải pháp giảm chi phí vay nợ 16

3.3. CÁC BIỆN PHÁP SỬ DỤNG VỐN VAY HIỆU QUẢ 17

3.4.CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NỢ VAY NƯỚC NGOÀI 18

3.5. CÁC BIỆN PHÁP HỖ TRỢ 19

 

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4321 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp cho vấn đề nợ nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính, viện trợ nhân đạo bằng hiện vật 1.1.4/Các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài Dựa trên tầm quan trọng của vấn đề quản lý nợ nước ngoài trong việc xây dựng chính sách phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia,hệ thống các chỉ số đánh giá nợ nước ngoài đã được đưa ra nhằm xác định mức độ nghiêm trọng của nợ nước ngoài đối với an ninh tài chính quốc gia. 1.1.4.1/Các chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ nước ngoài Các chỉ tiêu thường được các tổ chức quốc tế dùng là trong việc đánh giá nợ nước ngoài của một quốc gia: Khả năng hoàn trả nợ vay nước ngoài Chỉ tiêu này được xác định bằng tỉ lệ Tổng nợ/Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa,dịch vụ. Ý tưởng sử dụng chỉ tiêu này là nhằm phản ánh nguồn thu xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ là phương tiện mà một quốc gia có thể sử dụng để trả nợ nước ngoài.Tuy nhiên việc sử dụng chỉ tiêu gặp một số khó khăn:nguồn thu xuất khẩu là một nhân tố biến động qua các năm và một quốc gia có thể sử dụng nhiều biện pháp khác ngoài nguồn thu từ xuất khẩu để trả nợ nước ngoài Tỷ lệ nợ nước ngoài so với thu nhập quốc gia (Nợ/GNI) Chỉ tiêu đánh giá khả năng trả nợ thông qua tổng thu nhập quốc dân của một quốc gia.Nói cách khác,nó phản ánh khả năng hấp thụ vốn vay nước ngoài.Tuy nhiên,các nước đang phất triển thường đánh giá cao giá trị đồng nội tệ hoặc sử dụng chế độ đa tỉ giá làm giảm tình trạng trầm trọng nợ khiến cho việc sử dụng chỉ tiêu trên không đánh giá đúng mức tình trạng nợ. Tỷ lệ trả nợ (Tổng nợ phải trả hàng năm/Kim ngạch thu xuất khẩu) Tiêu chí phản ánh quan hệ giữa nghĩa vụ nợ phải trả so với năng lực xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của quốc gia đi vay Tỷ lệ trả lãi(Tổng lãi phải trả hàng năm/Kim ngạch thu xuất khẩu) Một quốc gia mắc nợ trong quá khứ thì họ sẽ phải trích nguồn thu từ xuất khẩu để trả lãi càng nhiều gây hạn chế đối với lượng ngoại tệ dành cho nhập khẩu Đây là chỉ tiêu hay được dùng nhất để đánh giá nợ vì không đề cập đến gánh nặng nợ mà còn chỉ ra chi phí vay nợ, điều này ngầm hiểu như hiệu quả sử dụng vốn vay có cao hơn chi phí lãi vay hay không. 1.1.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nợ nước ngoài Cơ cấu nợ hàm chứa những thông tin quan trọng về mức độ rủi ro của việc vay nợ.Thông thường rủi ro sẽ cao khi tỷ trọng nợ ngắn hạn, tỷ lệ nợ thương mại và tỷ lệ nợ song phương cao. Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu gồm: Nợ ngắn hạn/Tổng nợ: Phản ánh tỷ trọng các khoản nợ cần thanh toán trong thời gian nhỏ hơn một năm trong tổng nợ. Tỷ lệ này càng cao, áp lực trả nợ càng lớn. Nợ ưu đãi/Tổng nợ: Tỷ lệ này càng cao,gánh nặng nợ nước ngoài càng nhẹ. Nợ đa phương/Tổng nợ: Các khoản nợ đa phương thường nhằm mục đích hỗ trợ, ít mưu cầu về lợi nhuận, do đó việc tăng cường nợ đa phuơng trong tổng nợ phản ánh tình hình nợ nước ngoài của một nước thay đổi theo chiều hướng tốt. 1.1.5/Vai trò của nợ nước ngoài Nguồn vốn vay từ nước ngoài chiếm vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia.Vai trò của nó được thể hiện qua các đặc điểm sau: 1.1.5.1/Đáp ứng các nhu cầu về vốn đầu tư Vốn vay nước ngoài đóng vai trò là một nguồn bổ sung cho nguồn vốn phát triển KT-XH của mỗi quốc gia đặc biệt đối với các nước đang phát triển luôn trong tình trạng “thiếu thốn” về vốn.Với việc đi vay nước ngoài,một quốc gia có cơ hội đầu tư phát triển ở mức cao hơn.Tuy nhiên việc vay nợ chỉ có thể có hiệu lực nếu như bản thân nó đảm bảo không ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiêu dùng của thế hệ tương lai 1.1.5.2/Góp phần chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực quản lý Thông qua việc vay vốn nước ngoài góp phần bổ sung thêm nguồn vốn nhập khẩu máy móc,công nghệ hiện đại cùng kỹ năng quản lý tiên tiến từ nước ngoài. 1.1.5.3/Ổn định tiêu dùng trong nước Khi xảy ra những “cú sốc” đột ngột đối với nền kinh tế như ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính hay những thiên tai bất ngờ ảnh hưởng đến nền sản xuất của mỗi quốc gia,bên cạnh các khoản viện trợ quốc tế thì vay nợ nước ngoài đóng vai trò là biện pháp giúp góp phần ổn định tiêu dùng trong nước trong ngắn hạn,trong khi nền kinh tế được phục hồi 1.1.5.4/Bù đắp cán cân thanh toán Cán cân thanh toán của một nước có thể tạm thời bị thâm hụt do nhiều nguyên nhân bất lợi trong thương mại quốc tế. Khi đó, quốc gia đó có thể sử dụng biện pháp vay nợ nước ngoài để bù đắp phần thâm hụt này. Tuy nhiên, đây là giải pháp có tính rủi ro cao do không có gì chắc chắn rằng việc các nước đi vay sẽ có thu nhập khá hơn khi đến kì trả nợ. Hơn nữa, các khoản vay nợ bù đắp cán cân thương mại thường là các khoản vay nợ ngắn hạn có lãi suất cao mà các nước đi vay phải gánh chịu. 1.2/Vấn đề quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam Việc quản lý nợ nước ngoài trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều biến động như hiện nay là một vấn đề cần đặc biệt quan tâm. Việc quản lý không chỉ dừng lại ở việc sử dùng, giám sát yếu tố nợ nước ngoài sao cho hợp lý, mà còn phải dựa trên khiá cạnh đảm bảo tính ổn định của yếu tố nợ nước ngoài. 1.2.1. Khái niệm về quản lý nợ nước ngoài Việc quản lý nợ nước ngoài theo cách hiểu chung nhất của Việt Nam là “việc quản lý nợ nước ngoài hàm chứa trong nó hệ thống điều hành vĩ mô sao cho vốn nước ngoài được sử dụng có hiệu quả và không gia tăng đến mức vượt quá khả năng thanh toán để không làm tích luỹ nợ. Hay nói cách khác, quản lý nợ nước ngoài là bảo đảm một cơ cấu vốn vay thích hợp với các yêu cầu phát triển của nền kinh tế, thực hiện phân bổ vốn một cách hợp lý và kiểm soát nợ và sự vận hành vốn vay”. Theo cách hiểu chung của cộng đồng tài chính quốc tế “quản lý nợ nước ngoài là một phần của công tác quản lý nền kinh tế vĩ mô. Nó bao gồm việc hoạch định, triển khai, duy trì và từ bỏ các khoản nợ nước ngoài để tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế, giám sát tình trạng đói nghèo và tiếp tục duy trì sự phát triển mà không tạo ra những khó khăn trong thanh toán”. Như vậy theo cả hai cách hiểu trên thì quản lý nợ nước ngoài luôn gắn liền với quản lý chính sách vĩ mô.Quản lý nợ nước ngoài hiệu quả đòi hỏi phải có sự kết hợp của cả chính sách tốt và thể chế lành mạnh nhằm thực hiện,điều hành các hoạt động. 1.2.2/Nội dung quản lý nợ nước ngoài Việc quản lý nợ nước ngoài không đơn thuần là việc vay và trả nợ mà là vay và trả sao cho đảm bảo nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế,duy trì sự ổn định trong phát triển kinh tế.Việc quản lý phải được tiến hành một cách đồng bộ trên cơ sở phối hợp các nhóm chiến lược vay và trả nợ nước ngoài trong ngắn,trung và dài hạn.Nội dung quản lý cần được nghiên cứu,xây dựng cẩn thận,trên cơ sở xem xét các khung giải pháp chuẩn đã được Chính phủ ban hành trong các năm qua. Xây dựng chiến lược và kế hoạch vay trả nợ nước ngoài Chiến lược vay trả nợ nước ngoài là văn kiện đưa ra mục tiêu, định hướng, các giải pháp, chính sách đối với quản lý nợ nước ngoài của quốc gia, được xây dựng trong chiến lược tổng thể về huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và 10 năm của đất nước. Ban hành khung chể thế, xây dựng cơ chế, tổ chức bộ máy quản lý nợ nước ngoài Một trong những nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý nợ nước ngoài là xây dựng được một khuôn khổ pháp lý và thể chế cho quản lý nợ nước ngoài, trong đó có sự phân định rõ ràng giữa trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan chức năng được ủy quyền thay mặt Chính phủ trong việc vay, trả nợ, phát hành bảo lãnh và thực hiện các giao dịch tài chính như cho vay lại.Sự phân định được luật hóa thông qua các văn bản pháp luật như Luật Ngân sách Nhà nước,Luật Quản lý nợ nước ngoài…và các quy chế cụ thể. Đánh giá tính bền vững của nợ nước ngoài Theo Cơ quan Phát triển Quốc tế (thuộc Ngân hàng Thế giới) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF): “Tính bền vững của việc vay nợ nước ngoài là khái niệm dùng để chỉ trạng thái nợ của một quốc gia tại đó nước vay nợ có đủ khả năng đáp ứng các nghĩa vụ nợ - cả vốn gốc lẫn lãi - một cách đầy đủ, không phải nhờ đến biện pháp miễn giảm hoặc cơ cấu lại nợ nào, cũng như không bị tích tụ tình trạng các khoản nợ chậm trả, đồng thời vẫn cho phép nền kinh tế đạt được một tỷ lệ tăng trưởng chấp nhận được”. II/Thực trạng về việc quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam 2.1/Tình hình vay nợ nước ngoài của VN 2.1.1/Các phương thức vay nợ chủ yếu Hiện nay nợ nước ngoài của VN xuất phát từ ba nguồn chủ yếu sau: _Nợ ODA _Vay thương mại qua các hợp đồng song phương và đa phương _Phát hành trái phiếu quốc tế NỢ ODA Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là một trong những "kênh" vốn đầu tư phát triển quan trọng đối với các nước đang phát triển, trong đó có VN. Thực tế trong nhiều năm gần đây, nguồn vốn ODA đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển, tăng trưởng của nền kinh tế - xã hội nước ta. Với những nước có xuất phát điểm kinh tế thấp như VN hiện nay, nguồn vốn ODA có ý nghĩa hết sức quan trọng .Quan hệ hợp tác phát triển giữa Chính phủ Việt Nam với các tổ chức tài chính thế giới và Chính phủ các nước được xây dựng và phát triển từ rất sớm. Việt Nam nhận được nhiều khoản hỗ trợ phục vụ cho quá trình ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện các mục tiêu mà Quốc hội đã đặt ra trong các giai đoạn khác nhau. Trong giai đoạn từ 1993-2010, tổng số vốn ODA được các nhà tài trợ cam kết dành cho VN đạt tới hơn 64 tỉ USD. Riêng vốn cam kết của các nhà tài trợ tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho VN (CG) năm 2010 vào đầu tháng 12.2010 là 7,88 tỉ USD Trong số 51 nhà tài trợ thường xuyên cho Việt Nam, có 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương, có 3 nhà tài trợ cung cấp chủ yếu là Nhật Bản,Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), chiếm khoảng 80% tổng giá trị ODA đã ký kết. Hiện nay, đối tác lớn tài trợ vốn ODA cho VN bao gồm: Nhật Bản, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), các tổ chức của Liên Hợp Quốc (UN), các tổ chức phi chính phủ (NGO) và nhiều nhà tài trợ song phương khác. Nhật Bản đang là nhà tài trợ vốn ODA song phương lớn nhất cho VN trong hơn 17 năm qua (trong 7,88 tỉ USD vốn cam kết đầu tháng 12.2010, Nhật Bản có mức cam kết là 1,76 tỉ USD). WB giữ vị trí là nhà cung cấp ODA đa phương lớn nhất. Mức cam kết trong hội nghị tháng 12.2010 đạt tới 2,6 tỉ USD. ADB là 1,5 tỉ USD. Tuy nhiên, sự phụ thuộc của Việt Nam vào ODA nhằm duy trì tăng trưởng dựa vào đầu tư sẽ ngày càng khó khăn hơi bởi sự giảm viện trợ ODA trên toàn thế giới cũng như tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới. VAY THƯƠNG MẠI Bảo lãnh Chính phủ đối với các khoản vay nước ngoài của các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng Bảo lãnh Chính phủ đối với các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khi vay nước ngoài được thực hiện nhằm mục đích hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh Các doanh nghiệp vay nợ có bảo lãnh gồm các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI) và các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn trong các ngành bưu chính viễn thông, dầu khí, điện lực, xi măng, hàng không và dệt. DƯ NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA CHÍNH PHỦ VÀ ĐƯỢC CHÍNH PHỦ BẢO LÃNH 2005-2010 (Nguồn:Bộ Kế hoạch-Đầu tư) Vay và trả nợ nước ngoài của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Bên cạnh khoản vay trực tiếp của chính quyền trung ương, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khi muốn gia tăng nguồn vốn đầu tư phát triển cũng tiến hành hoạt động vay nợ dưới hai hình thức, phát hành trái phiếu chính quyền địa phương và vay nước ngoài. Trên thực tế, vốn vay nước ngoài của các địa phương chủ yếu là vốn ODA trực tiếp cho các dự án đầu tư tại các khu vực và phần thụ hưởng gián tiếp từ các dự án của các cơ quan trung ương thực hiện trên địa bàn. Vốn vay nước ngoài của các vùng, miền Từ đồ thị trên ta thấy nguồn vốn vay của địa phương chủ yếu là ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ(34,4%).Nó phù hợp với quy hoạch phát triển vùng,miền trên địa bàn cả nước vì khu vực này có tiềm năng kinh tế lớn nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Phát hành trái phiếu quốc tế Ngày 27/10/2005, Chính phủ đã chính thức phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán New York với tổng số vốn huy động được là 750 triệu USD, lãi suất 7,125%/năm, thời hạn 10 năm. Toàn bộ số tiền huy động được giao cho Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) sử dụng để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Trái phiếu quốc tế của Chính phủ đã thu hút được sự quan tâm rất lớn của các nhà đầu tư nước ngoài trên khắp thế giới. Trong so 255 nhà đầu tư mua trái phiếu có 51% là các quỹ đầu tư tài chính, ngân hàng là 25%, các công ty bảo hiểm là 17% và 7% là các tổ chức đầu tư khác. Số trái phiếu này được phát hành rộng rãi ở châu Á (nắm giữ 38%), châu Âu (32%) và châu Mỹ (30%). Nợ nước ngoài của Chính phủ gia tăng qua các năm, phần nào đáp ứng nhu cầu hỗ trợ vốn cho quá trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Điều này được lý giải một phần cho những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế và chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Bên cạnh đó, hoạt động trả nợ duy trì đều đặn, đảm bảo uy tín trong quá trình thanh toán cũng góp phần vào việc gia tăng số lượng nợ nước ngoài. 2.2/Tình hình quản lý nợ nước ngoài của Việt Nam 2.2.1/Cơ chế quản lý Hiện nay cả Bộ Tài chính (Bộ TC), Bộ Kế hoạch - Đầu tư (Bộ KH & ĐT), Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và một số cơ quan khác cùng được giao nhiệm vụ quản lý nợ Chính phủ mà không xác định được chính xác phạm vi hoạt động của từng đơn vị. Luật Ngân sách Nhà nước quy định Bộ Tài chính là cơ quan xây dựng chiến lược, kế hoạch vay nợ, trả nợ trong và ngoài nước (điều 21), Quy chế Quản lý vay và trả nợ nước ngoài quy định, Bộ KH & ĐT chịu trách nhiệm xây dựng chiến lược quốc gia và trả nợ nước ngoài (điều 6). Luật Tổ chức Các Tổ chức Tín dụng quy định NHNN phối hợp với Bộ TC xây dựng chiến lược điều hành nợ Chính phủ trong từng giai đoạn để đảm bảo sự phù hợp trong việc thực thi chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ, tham gia giải quyết các vấn đề liên quan đến nợ nước ngoài. Quỹ Hỗ trợ Phát triển là cơ quan thuộc Văn phòng Chính phủ và Bộ Tài chính (nay tách ra thành Ngàn hàng Phát triển Việt Nam) huy động vốn và giải ngân cho các dự án phát triển ưu tiên của Chính phủ. Một số mâu thuẫn trong quản lý nợ tại các đơn vị liên quan: Quyết định số 151/2003/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định nhiệm vụ của Vụ Ngân sách Nhà nước, đó là “Chủ trì phối hợp các đơn vị thống nhất quản lý nợ quốc gia”. Tuy nhiên, quy định này lại chồng chéo với nhiệm vụ quản lý nợ nước ngoài mà Bộ trưởng Bộ Tài chính đã phân công cho Vụ Tài chính Đối ngoại tại Quy định số 163/2003/QĐ-BTC, theo đó Vụ Tài chính Đối ngoại có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính là “Thống nhất quản lý vay và trả nợ nước ngoài của Chính phủ, vay và trả nợ nước ngoài của quốc gia”. Quyết định số 209/2003/QĐ-BTC, Kho bạc Nhà nước có nhiệm vụ “Nghiên cứu xây dự thảo đề án, chính sách, chế độ về huy động vốn trong nước và ngoài nước thông qua phát hành công phiếu,trái phiếu chính phủ”,trong khi đó Quyết định số 163/2003 lại quy định một trong những nhiệm vụ của Vụ Tài chính Đối ngoại là “nghiên cứu,đề xuất và tổ chức thực hiện các phương án huy động vốn ngước ngoài trên thị trường vốn quốc tế của Chính phủ”. Trách nhiệm trong quản lý tài chính các doanh nghiệp FDI tại Bộ Tài chính còn nhiều bất cập, nhất là trong khâu thẩm định giấy phép, phân công quản lý các lĩnh vực còn chồng chéo… dẫn đến khó khăn trong công tác quản lý tài chính nhà nước các doanh nghiệp FDI Bên cạnh đó, một trong những vấn đề quan trọng trong quá trình quản lý nợ Chính phủ là theo dõi và đánh giá các khoản nợ cũng bị chia sẻ giữa các cơ quan quản lý. Bộ KH & ĐT theo dõi, thống kê và đánh giá về ODA, trong đó có nợ, Vụ Tài chính Đối ngoại (Bộ TC) quản lý nợ nước ngoài, Kho bạc Nhà nước quản lý nợ trong nước. Các đơn vị này đều có sử dụng hệ thống quản lý nợ riêng biệt và thủ công nên các báo cáo về nợ Chính phủ hiện nay được xây dựng hoàn toàn do sự phối hợp số liệu của các đơn vị một cách thủ công và không đảm bảo sự chuấn xác 2.2.2. Đánh giá về tình hình nợ nước ngoài tại Việt Nam Theo quyết định số 231/2006 của Thủ tướng Chính phủ, đánh giá và giám sát tình hình nợ nước ngoài là việc Chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước liên quan thông qua hệ thống chỉ tiêu nợ nước ngoài thực hiện theo dõi, đánh giá thường xuyên tình trạng nợ nước ngoài, phân tích danh mục nợ để kịp thời phát hiện những dấu hiệu mất cân đối trong thanh toán quốc tế của nền kinh tế, các khó khăn tài chính trong việc trả nợ nước ngoài của khu vực công và tư nhân, quản lý tốt rủi ro nhằm điều chỉnh chính sách vay nợ và danh mục nợ phù hợp, kịp thời, đảm bảo bền vững nợ theo các ngưỡng an toàn và an ninh tài chính quốc gia. Cơ quan chủ trì đánh giá, giám sát nợ là Bộ Tài chính. Cơ quan phối hợp thực hiện việc đánh giá, giám sát là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Kế hoạch – Đầu tư, Tổng Cục thống kê, Bộ Công thương; các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có sử dụng vốn vay nước ngoài của Chính phủ Các chỉ tiêu chính đánh giá, giám sát theo ngưỡng an toàn nợ bao gồm: Giá trị hiện tại của nợ nước ngoài so với GDP (PV FD/GDP); Giá trị hiện tại của nợ nước ngoài so với kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ (PV FD/EX); Giá trị hiện tại của nợ nước ngoài so với thu ngân sách nhà nước (PV FD/GR); Nghĩa vụ trả nợ hàng năm so với kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ (DS/EX); Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài hàng năm so với thu ngân sách nhà nước (DS/GR); Dự trữ ngoại hối nhà nước so với tổng số nợ nước ngoài ngắn hạn (FR/STD). Ngoài ra còn một số chỉ tiêu phụ trợ khác như: Tổng nợ nước ngoài, cơ cấu nợ nước ngoài; Lãi suất vay bình quân của các khoản vay nước ngoài; Kỳ hạn vay bình quân của các khoản vay nước ngoài. Các chỉ tiêu giám sát, đánh giá nợ nước ngoài của Chính phủ, khu vực công và khu vực tư được xác định trên cơ sở đặc điểm của từng khu vực. Tình hình nợ nước ngoài của Việt Nam từ 2003-2010 (ĐVT:Triệu USD) Từ bảng số liệu trên có thể thấy rằng các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài đang có xu hướng giảm dần qua các năm,năm sau giảm hơn năm trước(ngoại trừ chỉ tiêu nợ dịch vụ).Đặc biệt trong giai đoạn 2008-nay,khi thế giới đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế và xảy ra nhiều biến động trên thế giới thì nợ nước ngoài của Việt Nam không những không tăng mà còn có xu hướng giảm. Về chỉ tiêu nợ dịch vụ có xu hướng tăng theo các năm trong giai đoạn gần đây,điều này thể hiện xu thế tất yếu của tình hình kinh tế trong nước cũng như trên thế giới.Đặc biệt trong năm 2006,năm đánh dấu một sự kiện quan trọng đối với nền kinh tế VN,khi VN chính thức trở thành thành viên WTO.Kèm theo đó,các yếu tố thuận lợi từ việc gia nhập WTO đã dần thể hiện rõ nét,đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ. Trong hướng phát triển của nền kinh tế, yếu tố dịch vụ phải ngày càng gia tăng trong tỷ trọng thành phần của nền kinh tế. Nên việc yếu tố nợ dịch vụ ngày càng gia tăng trong nền kinh tế là đều tất nhiên, chúng ta phải “đi trước đón đầu”, phải gia tăng nợ dịch vụ để nền kinh tế tiến kịp với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. 2.2.3. Hiệu quả sử dụng nợ vay Trong những năm qua,nhiều dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA đã hoàn thành và được đưa vào sử dụng góp phần nâng cao,phát triển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế,tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế,về mặt xã hội các dự án góp phần xóa đói,giảm nghèo,gia tăng công ăn việc làm cho xã hội,cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân.Các dự án điển hình: Nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ, Nhà máy Thủy điện sông Hinh, một số dự án giao thông quan trọng như Quốc lộ 5,Quốc lộ 1A, cầu Mỹ Thuận… nhiều trường tiểu học đã được xây mới, cải tạo tại hầu hết các tỉnh, một số bệnh viện ở các thành phố, thị xã như bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), bệnh viện Chợ Rẫy (TP.HCM), nhiều trạm y tế đã được cải tạo hoặc xây mới, các hệ thống cấp nước sinh hoạt ở nhiều tỉnh, thành phố cũng như ở nông thôn, vùng núi.Các chương trình dân số và phát triển,chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em,tiêm chủng mở rộng được thực hiện một cách có hiệu quả. Trong vấn đề sử dụng nợ, một điều đáng quan tâm là mục đích sử dụng nợ lại là yếu tố dẫn đến nợ vay không được sử dụng một cách có hiệu quả. Vấn đề đặt ra là trên thực tế khi tiến hành huy động vốn cần phải xây dựng các kế hoạch chi tiết về vay, sử dụng và trả nợ nhưng sử dụng vốn vay như thế nào lại liên quan đến tình hình thực tế. Điều đó dẫn đến nguồn vốn khi huy động thì rất nhanh, trong một thời gian ngắn có thể đáp ứng nhu cầu về vốn, nhưng tốc độ giải ngân thì chậm, ảnh hướng đến việc sử dụng vốn sao cho vừa đúng mục đích vừa thoả mãn nhu cầu cầu về vốn vừa làm cho đồng vốn sinh lời để trả nợ. Với đồng vốn giải ngân chậm mà không được đưa đồng vốn giải ngân vào sử dụng cho mục đích khác đã làm cho hiệu quả của nợ vay giảm rất nhiều. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), hiện nay tốc độ giải ngân của Việt Nam chỉ đạt khoảng 50%/năm. Thanh toán nợ của Việt Nam chỉ chiếm 28% GDP. Đây chính là một trong những vấn đề mà các nhà tài trợ mong muốn Việt Nam cần quan tâm cải thiện. Việc chậm giải ngân đồng nghĩa với tiến trình thực hiện chậm, vì thế lợi ích thu được hạn chế, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế 2.3.ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM 2.3.1.Các mặt đạt được Quản lý nợ nước ngoài góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế Khung pháp lý quản lý nợ nước ngoài từng bước hoàn thiện Nâng cao năng lực quản lý của cán bộ Hoàn thiện từng bước hệ thống tổ chức quản lý nợ nước ngoài 2.3.2/Một số tồn tại và nguyên nhân trong quản lý nợ nước ngoài 2.3.2.1/Một số tồn tại: Tồn tại trong quản lý vĩ mô Cơ chế bảo lãnh và cho vay lại nguồn vốn ODA của Chính phủ nói chung vẫn có xu hướng tập trung tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp nhà nước,trong khi các doanh nghiệp tư nhân chỉ được tiếp cận một cách hạn chế.Việc phân bổ các nguồn tín dụng ưu đãi như vậy gây tác động cản trở quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước theo hướng giảm bớt tính cạnh tranh và hiệu quả hoạt động.Hơn nữa,việc ưu đãi tín dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước như vậy vi phạm các quy định của WTO.Do vậy yêu cầu đặt ra là cần cân nhắc một cách kĩ lưỡng các chính sách cũng như đối tượng cho vay. Tồn tại trong khung thể chế quản lý nợ nước ngoài -Tồn tại nhiều quy định,quy chế về quản lý nợ nước ngoài -Sự chồng chéo các quy định về quản lý nợ nước ngoài Tồn tại trong hệ thống quản lý nợ nước ngoài Hệ thống tổ chức quản lý nợ nước ngoài vẫn đang trong quá trình xây dựng và chuyển đổi nên còn nhiều bất cập.Tính chất chưa đồng nhất của hệ thống quản lý vẫn còn đang tồn tại. Tương tự với sự tồn tại song song của các quy định về quản lý nguồn vốn ODA và các quy định về quản lý nợ nước ngoài nói chung mà trong đó là phần lớn là nợ ODA là sự theo dõi và làm đầu mối song song của hai ngành cho cùng một chủ thể quản lý. Tồn tại trong cơ chế quản lý nợ nước ngoài -Công tác phân công trách nhiệm quản lý nợ còn nhiều điểm bất hợp lý: Hiện nay tại Việt nam chưa có một cơ quan chuyên biệt nào về quản lý nợ.Nhiệm vụ quản lý nợ được giao cho nhiều cơ quan khác nhau tùy theo chuyên môn chức năng của họ như Bộ Tài chính,Bộ Kế hoạch-Đầu tư,Ngân hàng Nhà nước,Ngân hàng phát triển VN. Thứ nhất, chiến lược xây dựng nợ dài hạn bị phân tán và phân công chồng chéo: chiến lược nợ nước ngoài dài hạn được phân công cho Bộ KH & ĐT chủ trì thực hiện theo Nghị định 134/2005 (Điều 62), trong khi đó Luật Ngân sách Nhà nước 2002 cũng quy định nhiệm vụ của Bộ TC là: “Xây dựng chiến lược, kế hoạch vay nợ trong nước và ngoài nước trình Chính phủ”. Thứ hai, Nghị định 131/2006 về Quy chế quản lý và sự dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức quy định nhiệm vụ tìm kiếm, đàm phán và ký kết vốn vay ODA cho cả 3 cơ quan: Bộ KH & ĐT (đối với hiệp định khung), NHNN (đối với hiệp định vay cụ thế với IMF, WB và ADB), Bộ TC (đối với hiệp định vay khác). Điều này không phù hợp với nguyên tắc tập trung trong quản lý nợ, đồng thời mâu thuẫn với quy định về vai trò của Bộ TC như là “đại diện chính thức cho người vay đối với mọi khoản vay nước ngoài của Nhà nước và Chính phủ tại thoả thuận cụ thể”. -Cơ chế phối hợp giữa các bộ,ngành chưa được quy định rõ ràng Quy trình,cơ chế phối hợp giữa các bộ ,ngành,cơ quan liên quan trong việc quản lý nợ chưa được quy định rõ ràng.Sự thiếu kết hợp gây hạn chế cho các cơ quan trong công tác quản lý,thu thập,tổng kết số liệu dẫn tới khó khăn trong công tác tổng hợp,phân tích,báo cáo và ra quyết định kịp thời -Việc cấp bảo lãnh nợ nước ngoài không khuyến khích người cho vay tham gia đánh giá rủi ro các dự án. Tồn tại trong đánh giá tình hình nợ nước ngoài Công tác đánh giá tình hình là một chức năng trong quản lý nợ nước ngoài.Công tác này đòi hỏi không chỉ thu thập đầy đủ số liệu mà còn cần đến những phương pháp đánh giá có tính khoa học. Hệ thống các chỉ số đánh giá tình trạng nợ nước ngoài của một nước chỉ cho phép đánh giá mức độ nợ trong những khoảng thời gian nhất định,chưa đánh giá được trong một thời gian dài. 2.3.3/Nguyên nhân dẫn đến những mặt còn tồn tại Yếu tố lịch sử Thiếu hụt kinh nghiệm quản lý nợ Thiếu hụt đội ngũ cán bộ chuyên môn Hệ thống kiểm định các dự án đầu tư còn non yếu III/Các giải pháp tăng cường giám sát và quản lý nợ nước ngoà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docno_nuoc_ngoai_cua_vn_091.doc
Tài liệu liên quan