Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống thông tin phục vụ cho việc ra quyết định trong quá trình quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay

MỤC LỤC

 

A/ LỜI MỞ ĐẦU 3

B/NỘI DUNG 5

I/MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THÔNG TIN VÀ RA QUYẾT ĐỊNH TRONG QUẢN LÝ KINH TẾ. 5

1.Thông Tin 5

1.1.Các khái niệm 5

1.2. Đặc điểm của thông tin kinh tế 6

1.3.Chức năng của thông tin kinh tế: 8

2.Quyết định quản lý kinh tế : 9

2.1.Khái niệm quyết định quản lý kinh tế: 9

2.2.Chức năng của quyết định quản lý kinh tế. 10

3.Mối quan hệ giữa thông tin và ra quyết định trong quản lý 12

3.1.Thông tin là nguyên liệu đầu vào ,quyết định quản lý là sản phẩm đầu ra 12

3.2.Chất lượng thông tin ảnh hưởng đến chất lượng ra quyết định 12

3.3.Thu thập thông tin để làm rõ mục tiêu mà quyết định hướng tới. 13

II/ VAI TRÒ CỦA THÔNG TIN 13

1.Vai trò của thông tin nói chung. 13

1.1.Thông tin có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhận thức xã hội và lập trường chính trị. 13

1.2.Thông tin giữ vai trò quan trọng trong công tác lãnh đạo và quản lý. 13

1.3.Thông tin giữ vai trò quan trọng trong công tác giáo dục và đào tạo. 14

1.4.Thông tin thúc đẩy sự phát triển của khoa học 14

1.5.Thông tin với sự phát triển của mỗi quốc gia . 14

2.Vai trò của thông tin trong việc ra quyết định quản lý 14

2.1.Thông tin là cơ sở tiền đề của các quyết định 14

2.2.Thông tin là công cụ của các quyết định 15

2.3. Đánh giá quyết định khi nó đã được thực thi nhờ hệ thống thông tin phản hồi. 15

III/THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ PHỤC VỤ CHO QUÁ TRÌNH RA QUYẾT ĐỊNH 16

1.Một số nét về hệ thống thông tin kinh tế của nước ta hiện nay. 16

1.1.Hệ thống thông tin kinh tế nội bộ của các đơn vị kinh tế. 17

1.2.Hệ thống thông tin thị trưòng. 17

1.3.Hệ thống thông tin kinh tế của chính phủ. 18

2.Thực trạng của thông tin kinh tế ở Việt Nam 18

2.1.Những ưu điểm trong hệ thống thông tin kinh tế 20

2.2. Những nhược điểm của hệ thống thông tin kinh tế của nước ta 22

3.Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển hệ thống thông tin kinh tế ở nước ta: 28

3.1.Nâng cao chất lượng hoạt động thông tin góp phần tăng cường chất lượng của quá trình quản lý kinh tế. 29

3.2.Thực hiện phân cấp đúng đắn trong quản lý ,sử dụng thông tin kinh tế. 31

3.3.Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục. 32

3.4.Cụ thể hoá hướng phát triển thông tin ở các vùng khác nhau. 32

3.5.Phải tạo được sự cân đối về thị trường thông tin ,sự bình đẳng về thông tin trên thị trường thông tin. 33

3.6.Đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin. 34

C/KẾT LUẬN 35

D/TÀI LIỆUTHAM KHẢO 36

 

 

docx36 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5810 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống thông tin phục vụ cho việc ra quyết định trong quá trình quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i sống chính trị , thông tin chính trị - xã hội phục vụ trực tiếp cho công tác chính trị tư tưởng mọi cấp mọi ngành . Thông tin chính trị là công cụ hàng đầu của một đảng cầm quyền . Đó chính là việc thực hiện mục đích chính trị tư tưởng và tuyên truyền chính sáng của đảng cầm quyền . 1.2.Thông tin giữ vai trò quan trọng trong công tác lãnh đạo và quản lý. Hiệu quả quản lý phụ thuộc vào chất lượng các quyết định mà chất lượng các quyết định lại phụ thuộc vào sự đầy đủ và chất lượng của thông tin .Cho nên không có thông tin đúng đắn thì không thể có quá trình quản lý nào hiệu quả được.Chỉ có nhũng tin tức được chủ thể quản lý nhận thức như là kiến thức có ích cho chủ thể quản lý mới là thông tin quản lý. 1.3.Thông tin giữ vai trò quan trọng trong công tác giáo dục và đào tạo. Các hoạt động đào tạo giảng dạy học tập , nghiên cứu … luôn luôn cần đến sự hỗ trợ đắc lực của công tác thông tin ,thông qua hàng loạt các loại hình thu thập ,xử lý ,lưu trữ và phổ biến thông tin.Con người có thể tiếp thu được những tinh hoa của nhân loại từ thế hệ này sang thế hệ khác , từ nơi này đến nơi khác là nhờ có thông tin ,dù ở bất cứ hình thức nào. 1.4.Thông tin thúc đẩy sự phát triển của khoa học Thông tin là một nhu cầu khách quan để phát triển khoa học .Một trong những quy luật phát triên của khoa học và nghiên cứu khoa học là thế hệ sau chon lọc hệ thống hoá, kế thừa nhũng thành quả của thế hệ đi trước ,đồng thời phát hiện , tìm tòi bổ xung những cái mới hơn. Như vậy hoạt động khoa học là một quá trình khai thác tiếp nhận thông tin , lưu trữ thông tin và tạo ra những thông tin mới khác với thông tin ban đầu. 1.5.Thông tin với sự phát triển của mỗi quốc gia . Do sự phát triển không đồng đều ở các nước trên thế giới cho nên các nước chậm phát triển muốn đuổi kịp các nước tiên tiến về kinh tế ,xã hội cần chú ý đến lĩnh vực thông tin.Trước hết cần nâng cao khả năng sẵn có về tiếp nhận thông tin từ các nước phát triển.Tiếp thu có chon lọc sáng tạo thông tin khoa học , kỹ thuật của thế giới.Tăng cường giao lưu thông tin trong hoàn cảnh các nèn kinh tế trên thế giới có xu hướng liên kết chặt chẽ với nhau.Việc nâng cao năng cao chất lượng hiệu quả trong lĩnh vực thông tin sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế văn hoá khoa học và giáo dục ở các nước chậm phát triển và đang phát triển. 2.Vai trò của thông tin trong việc ra quyết định quản lý 2.1.Thông tin là cơ sở tiền đề của các quyết định Thông tin là đối tượng lao động của nhà quản lý nói chung và người lãnh đạo nói riêng.Một trong những hoạt động quan trọng của nhà quản lý hay người lãnh đạo là việc ra quyết định.Như đã nghiên cứu ở trên ta biết được là thông tin chính là các yếu tố đầu vào còn quyết định đóng vai trò là sản phẩm đầu ra.Như vậy đã tạo tiền đề để cho ra các đầu ra là các quyết định. chủ thể quản lý Thông tin từ bên ngoài Thông tin quyết định đối tượng quản lý Đầu vào (V) Thông tin về nhiễu(N) Đầu ra(R) 2.2.Thông tin là công cụ của các quyết định Thông tin là căn cứ để tiến hành xây dựng chiến lược của hệ thống. Trong quá trình xác định các chỉ tiêu chiến lược, cần thiết tiến hành các tính toán dựa trên những thông tin xác thực về cơ sở vật chất , vật tư , tiền vốn,.. và sự kêt hợp tôi ưu giữa các nguồn lực từ đó đưa ra được quyết định phù hợp. Thông tin là công cụ để kiểm tra tính đúng đắn của quyết định.Mỗi quyết định sẽ cho ra những kết quả và những kết quả đó lại đựơc đưa đến chủ thể quản lý dưới dạng thông tin phản hồi. Vai trò công cụ cho các quyết định của thông tin đựợc thể hiện ở chỗ bản thân các quyết định được đưa ra chính là những thông tin thể hiện ở việc phân phát các quyết định cho cấp dưới đồng thời kiểm tra hoạt động của họ. Một quyết định sẽ không được thực thi nếu như nó không được thông tin đến các cấp dưới để họ thực hiện quyết định. 2.3. Đánh giá quyết định khi nó đã được thực thi nhờ hệ thống thông tin phản hồi. Chủ thể quản lý muốn tác động lên đối tượng bị quản lý thì phải đưa ra các thông tin ( mệnh lệnh , chỉ thị ,nghị quyết ,quyết định…),đó chính là thông tin điều khiển.Tuy nhiên nhà quản lý không phải là người chỉ phát tin là các quyết định đi cho các cấp dưới mà họ còn phải tiếp nhận thông tin phản hồi lại từ hệ thống nhằm đánh giá không phải chỉ hoạt động của tổ chức mà còn để đánh giá hoạt động ra quyết định của chính nhà quản lý.Nếu quyết định đó không con phù hợp hoặc không phải là phương án tối ưu nhất nhà quản lý phải điều chỉnh quyết định đó sao cho phù hợp với tinh hình hiện tại.Vì Thông tin có thể thay đổi rất nhanh chóng theo thời gian việc sử dụng những thông tin cũ để ra nhũng quyết định mới trong thời điểm hiện tại sẽ không còn phù hợp nữa. Tuy nhiên hệ thống thông tin phản hồi có thể cung cấp nhũng thông tin sai lệch cho nhà quản lý xuất phát từ động cơ của đối tượng bị quản lý như bệnh thành tích ,hay muốn vừa lòng cấp trên.Vì vậy khi dùng người cần xem xét kỹ các cán bộ quản lý cấp dưới. III/THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THÔNG TIN KINH TẾ PHỤC VỤ CHO QUÁ TRÌNH RA QUYẾT ĐỊNH 1.Một số nét về hệ thống thông tin kinh tế của nước ta hiện nay. Cũng như nhiều nước trên thế giới Việt Nam dang bước vào một công cuộc đổi mới kinh tế sao cho phù hợp với xu thế của thế giới và khu vực.Nhờ công cuộc này đã đem lại những thay đổi to lớn trong nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực thông tin.Biểu hiện ở những bước phát triển vượt bậc của hệ thống thông tin về phương tiện thông tin đại chúng cho đến các tổ chức cung cấp thông tin chuyên ngành.Hệ thống thông tin kinh tế đã giúp cung cấp được những thông tin trung thực kịp thời và có xử lý ở mức độ nhất định.Tạo điều kiện cho việc hoạch định các kế hoạch chiến lược cho nhà nước cho các tổ chức doanh nghiệp. Hệ thống thông tin kinh tế nước ta hiện nay gồm ba bộ phận phục vụ cho hệ thống quản lý kinh tế ở các đơn vị kinh tế cơ sở và chính phủ.Bao gồm các hệ thông sau: Hệ thống thông tin kinh tế nội bộ của các đơn vị kinh tế Hệ thống thông tin thị trường Hệ thống thông tin kinh tế của chính phủ 1.1.Hệ thống thông tin kinh tế nội bộ của các đơn vị kinh tế. Là hệ thống mà về cơ cấu tổ chức được tạo thành từ các hệ thống nhỏ như hệ thống thông tin kế hoạch , hệ thống thông tin kế toán thống kê,hệ thống thông tin tác nghiệp quản lý.Hệ thống thông tin tác nghiệp quản lý ,hệ thống thông tin marketing.Các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ ,dù thuộc loại hình hoạt động khác nhau đều được vận hành và có quan hệ với bên ngoài nhờ vào bộ máy và cơ chế quản lý kinh tế riêng của nó.Hệ thống thông tin của các doanh nghiệp không chỉ giúp cho những người quản lý doanh nghiệp kiểm soát được các hoạt động kinh tế bên trong cũng như tác động bên ngoài trong quá trình đề ra và tổ chức thực hiện các quyết định kinh tế để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Trong nên kinh tế thị trường nước ta hiện nay nhà nước không còn làm thay cho doanh nghiệp trong việc giải quyết các vấn đề cơ bản của nó.Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc vào quyết định ,khả năng tổ chức thực hiện các hoạt động sản xuất của nó.Vì vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải tự tìm kiếm thông tin tự ra quyết định và tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình.Đòi hỏi doanh nghiệp phải có một hệ thống thông tin riêng của mình.Hệ thống thông tin này phải đáp ứng được nhu cầu thông tin mới của doanh nghiệp do thị trường thường tồn tại nhiều bất ổn. 1.2.Hệ thống thông tin thị trưòng. Hệ thống thông tin thị trường hình thành và phát triển do nhu cầu thông tin của xã hội ngày càng gia tăng.Hệ thống thông tin thị trường liên quan đến các tổ chức thực hiện các quá trình tổ chức thực hiện các quá trình thu thập ,xử lý cung cấp các thông tin kinh tế phục vụ cho nhu cầu thông tin của nền kinh tế.Sự hình thành và phát triển của hệ thống thông tin thị trường đã tạo ra các mối quan hệ thông tin mới trong nền kinh tế.Đó là các quan hệ thị truờng về thông tin(cung-cầu ,giá cả ,cạnh tranh…) Hệ thống thông tin thị trưòng cũng có mối liên hệ chặt chẽ với các hệ thống thông tin của chính phủ của doanh nghiệp.Nó bổ xung hỗ trợ cho khả năng thông tin của các hệ thông đó và tạo thành một mạng lưới thống nhất trong nền kinh tế.hệ thống thông tin thị trưòng còn có mối quan hệ mật thiết với các hệ thông thị trưòng khác và tham gia vào các hoạt động kinh tế thị trường. 1.3.Hệ thống thông tin kinh tế của chính phủ. Trong ba bộ phận của hệ thống thông tin thì hệ thống thông tin của chính phủ có vị trí quan trọng nhất ,giúp nhà nước nhà nước thực hiện vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường .hệ thống thông tin của chính phủ có tầm quan trọng như vậy là do những vai trò to lớn của nó sau: tổng hợp thông tin phục vụ cho hoạch định chiến lược ,kế hoạch phát triển kinh tế ,giúp nhà nước thực hiện đựơc vai trò định hướng của mình cho nền kinh tế thông qua các hệ thông như:hệ thống thông tin thống kê ,hệ thống thông tin kế hoạch… Giúp nhà nước quản lý vĩ mô các ngành kinh tế các lĩnh vực nhờ hệ thống thông tin chuyên ngành về tài chính ,khoa học công nghệ ,thị trường… Từ việc nắm bắt được thông tin thực tế giúp nhà nước đua ra các quyết định về chính sách ,chương trình.Nhà nước cũng phải tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế phát triển và giám sát việc thực hiện pháp luật về kinh tế. Ngoài ra hệ thống thông tin chính phủ còn hỗ trợ ,kết nối với hệ thống thông tin thị trường và hệ thống thông tin doanh nghiệp. 2.Thực trạng của thông tin kinh tế ở Việt Nam Hệ thống thông tin kinh tế của nước ta trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây được tổ chức theo một hệ thống nhất trong cả nước.Nó phục vụ trong công tác kế hoạch hoá của đất nước đảm bảo cho công tác quản lý kinh tế tập trung , kế hoạch hoá cao độ.Trong giai đoạn này nhà nước đã áp dụng một cách máy móc mô hình kinh tế của Liên Xô mà không nắm được thông tin thực tế về điều kiện hoàn cảnh của nước ta giai đoạn đó để định hướng cho nền kinh tế vì vậy đã dẫn đến thất bại.Công cuộc đổi mới kinh tế hiện nay đã đem lại những thay đổi to lớn trong hệ thống kinh tế cũng như cơ chế vận hành nền kinh tế của nước ta.Hệ thống thông tin kinh tế trong những năm gần đây cũng có những bước phất triển vượt bậc,kể từ phương tiện thông tin đại chúng đến các tổ chức cung cấp thông tin chuyên ngành. Một sự kiện lớn đối với Việt Nam vừa qua đó là việc trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO.Khi ra nhập WTO thì một trong những điều lệ cơ bản của nó là thông tin, được thể hiện ở một số điểm như WTO đề ra các điều luật và nhiệm vụ của các thành viên là phải nắm vững các điều lệ khi ra nhập(quá trình nắm bắt thông tin).Nếu xét WTO là một chủ thể quản lý còn Việt Nam là đối tượng bị quản lý thì WTO quy định cho các thành viên của mình phải làm một số nhiệm vụ gì(thông tin quyết định) và Việt Nam phải có các báo cáo định kỳ về từng lĩnh vực(thông tin phản hồi).Đây chính là một quá trình thông tin.Như vậy thông tin là điều kiện tất yếu trong nội bộ một nước.Không chỉ có chính phủ là người phải hiểu biết các luật lệ của WTO mà các doanh nghiệp cũng phải nắm rõ thông tin khi doang nghiệp làm ăn với các đối tác nứơc ngoài.Thực tế cho thấy thời gian vừa qua chính vì không có thông tin về các nền kinh tế trên thế giới mà nền kinh tế Việt Nam phải chịu nhiều tổn thất như : Chúng ta không tìm hiểu kỹ về giá cả thị trưòng gạo,do đó không có nhũng dự báo về giá cả và chúng ta đã bán gạo cho trung quốc với giá rẻ nhưng ngay sau đó thì giá gạo trên thế giới tăng cao và chúng ta bị tổn thất nặng.Hay việc chung ta bị mỹ kiện về bán phá giá một số mặt hàng(thuỷ sản ,may măc..) do không nắm được luật chống bán phá giá của Mỹ.Đây chỉ là một trong những bất cập về hệ thống thông tin của nước ta.Để đánh giá đúng được thực trạng hệ thống thông tin kinh tế của nước ta hiện nay cần xem xét cả nhũng ưu điểm và nhược điểm trong hệ thống thông tin kinh tế. 2.1.Những ưu điểm trong hệ thống thông tin kinh tế Trước hết,ta xem xét nhũng ưu điểm của hệ thống thông tin kinh tế có những ưu điểm sau: Thứ nhất:Thông tin được cung cấp đầy đủ kịp thời và chính xác hơn nhờ việc có thêm nhiều công cụ để thu thập hay xử lý …thông tin nhờ đó chất lượng thông tin được nâng lên một phần ,đã giúp cho các các cấp quản lý kinh tế ra được những quyết định kịp thời với nhũng bất ổn của nền kinh tế,góp phần ổn định sản xuất kinh doanh.Ngoài ra ,các hoạt động thông tin đa dạng ,phong phú đáp ứng được nhu cầu về số lượng thông tin.Đối với các doanh nghiệp nó làm cho nguồn cung cấp thông tin đa dạng ,dễ tiếp cận như hệ thống thông tin marketing từ các phương tiện thông tin đại chúng , mạng internet, mạng liên ngành.Mặc dù tồn tại nhiều hệ thống thông tin kinh tế khác nhau nhưng giữa các hệ thống này lại có mối quan hệ với nhau ,do đó đảm bảo sự lưu thông thông tin giữa chúng ở một mức độ nhất định.Điều này được thể hiện như : trong các doanh nghiệp , tổ chức cũng như ở tầm vĩ mô là đất nước thì hệ thống thông tin không chỉ khép kín trong phạm vi nội bộ mà đã mở rộng đầu mối quan hệ thực hiện trao đổi thông tin với các hệ thông bên ngoài.Nhờ đó việc lưu chuyển của thông tin cũng trôi chảy hơn. Thứ hai :Trinh độ của đội ngũ cán bộ làm việc trong các bộ phận của hệ thống thông tin có xu hướng được nâng cao , một số khâu của quá trình thông tin đã được chuyên môn hoá cao.Không chỉ có trình độ của những người làm việc trong hệ thống thông tin được nâng cao mà trình độ của các cán bộ quản lý về thông tin cũng được nâng cao theo các cấp quản lý.Đây là một đòi hỏi tất yếu đối với nhà quản lý trong sự phát triển của hệ thống thông tin hiện nay cũng như sự phát triển của xã hội.Các doanh nghiệp , tổ chức hiện nay cũng quan tâm nhiều đến việc đào tạo thêm cho nhân viên của mình nâng coa trình độ về công nghệ thông tin.Trình độ thông tin của các cán bộ trong bộ máy quản lý của nhà nước ngày càng nâng lên một trình độ mới cao hơn trong điều kiện nền kinh tế thị trường với luồng thông tin khổng lồ và rất phức tạp.Đội ngũ cán bộ kế hoạch từ cấp cơ sở trở lên nhìn chung có trình độ văn hoá và chuyên môn coa ,có khả năng tiếp cận và sử dụng được kỹ thuật thông tin mới. Vì vậy các nhà quản lý vĩ mô đã đưa ra những chính sách về kinh tế xã hội đúng đắn. Thứ ba: Trình độ trang bị công nghệ thông tin phần nào đã được tiếp cận với công nghệ hiện đại , tiên tiến. Cơ cấu của hệ thông đã và đang được hoàn thiện thể hiện ở chỗ một số ngành có hạ tầng cơ sở khá hiện đại , thực hiện vi tính hoá và nối mạng giữa các đầu mối thông tin quan trọng hoặc ở hầu hết các cấp, các bộ phận như hệ thống thông tin kinh tế của ngành ngân hàng , hàng không , ngành bưu chính viễn thông …. Thứ tư: Về phía các doanh nghiệp thì nhìn chung hệ thống thông tin kinh tế nội bộ của doanh nghiệp đã có nhiều đổi mới và tiến bộ.Các thông tin có tính định hướng kinh tế theo các chương trình , mục tiêu của nhà nước hoặc cấp trên giúp cho các cán bộ quản lý hoạch định chiến lược ,các kế hoạch phát triển kinh tế trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp.Nhờ tính định hướng kinh tế của các thông tin mà khi đề ra mục tiêu của doanh nghiệp mình các doanh nghiệp phải căn cứ vào mục tiêu chung của đất nước , mục tiêu đó của doanh nghiệp phải nhằm góp phần thực hiện mục tiêu của đất nước hay ít nhất mục tiêu đó không làm tổn hại đến mục tiêu chung của đất nước.Như vậy tránh tình trạng doanh nghiệp quá chạy theo mục tiêu , mục đích của minh mà bất chấp mọi quy định của nhà nước. Thứ năm : Về phía nhà nước thì nhà nước đã ban hành và cải cách một số quy chế ,luật lệ hoạt động của các bộ phận trong hệ thống thông tin để phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường, nhất là trong hệ thống thông tin của chính phủ và doanh nghiệp.Để nâng cao khả năng thông tin của đất nước thì nhà nước đã đầu tư hoặc khuyến khích đầu tư vào những ngành về công nghệ thông tin.Trong xu thế hội nhập và mở cửa hiện nay không chỉ có các doanh nghiệp mới sử dụng thông tin như một công cụ để nâng cao khả năng của doanh nhgiệp mà các nhà nước các chính phủ cũng sử dụng thông tin nhằm năng cao năng lực cạnh tranh quốc gia khi quan hệ thương mại với các nước trên thế giới .Hệ thống thông tin của chính phủ ngày càng được nâng cấp nó không chỉ phục vụ cho công tác quản lý vĩ mô của nhà nước mà còn hỗ trợ , kết nối với thông tin thị trưòng và hệ thống thông tin doanh nghiệp , tạo ra mối quan hệ chặt chẽ giữa các hệ thống thông tin này. 2.2. Những nhược điểm của hệ thống thông tin kinh tế của nước ta Tuy hệ thống thông tin kinh tế của nước ta đã đạt được nhiều tiến bộ so với thời kỳ trước .Song nó vẫn tồn tại nhiều hạn chế gây ảnh hưởng khá lớn đến quá trình quản lý kinh tế của Việt Nam đặc biệt là quá trình ra quyết định.Dưới đây là một số hạn chế chủ yếu của thống thông tin kinh tế : Hệ thống thị trường thông tin kinh tế không phát triển , hoạt động của nó không mang lại hiệu quả vì vậy chưa đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển.Đối với bât cứ doanh nghiệp , tổ chức nào thì yếu tố thông tin cũng tồn tại như một nguồn lực của họ . Để có được nguồn lực này ngoài cách các doanh nghiệp , tổ chức tự tìm kiếm khai thác thông tin mà doanh nghiệp có thể mua thông tin từ thị trường thông tin thông qua các công ty tư vấn hay các công ty mà sản phẩm dịch vụ chính của nó là cung cấp thông tin.Có nhiều nguyên nhân để thị trường thông tin này không phát triển như : Doanh nghiệp không quan tâm đến yếu tố thông tin và cho rằng không cần phải bỏ ra một khoản chi phí để có được thông tin , hay trình độ của các công ty chuyên về thông tin này thấp chưa cung cấp được những thông tin thực sự cần thiết cho doanh nghiệp. Một trong những nguyên tắc quan trọng của thông tin nói chung cũng như thông tin kinh tế nói riêng đó là tính kịp thời do sự biến động liên tục của thị trường của xã hội khi đó quyết định đưa ra trong thời điểm này chỉ phù hợp với thời điểm trước và dễ dân đến sai lầm trong việc ra quyết định.Mặc dù đây là một nguyên tắc rất quan trọng của thông tin song trong hầu hết các trường hợp thì nguyên tắc này lại không được đảm bảo.Cụ thể đó là việc phát hiện ra các vấn đề còn chưa nhanh và không nhạy bén mang tính bị động.Nhiều khi vấn đề đã xảy ra chung ta mới có thông tin về hoặc mới được những người làm công tác thông tin chú ý đến.Khi đó hậu quả gây ra có thể rất lớn không cứu vãn được hoặc có cứu vãn được thì tổn thất cũng là rất lớn .Một trong những cách thức để đảm bảo tính kịp thời trên là sử dụng thông tin dự báo.Khi tìm kiếm thông tin chng ta không chỉ nhằm nắm bắt được sự vật hiện tượng nào đó mà còn nhằm nắm bắt được xu hướng vận động của nó để đưa ra những dự báo.Vì vậy một trong những bộ phận của thông tin kinh tế là thông tin dự báo về thị trường.Tuy nhiên đối với Việt Nam khâu dự báo này cũng rất yếu kém.Một trong những ví dụ điển hình về sự yếu kém này đó là việc Việt Nam bán gạo cho Trung Quốc trong năm 2006.Do không nắm bắt được , không tìm hiểu kỹ lưỡng về xu hướng vận động của giá cả mà Việt Nam đã ký hợp đồng bán gạo rất lớn cho Trung Quốc với một mức giá hiện tại là thấp nhưng đến lúc giao hàng cho bên bạn giá gạo lúc đó đã tăng rất nhanh và cao.Vì vậy Việt Nam đã chịu một tổn thất rất lớn do đầu vào của sản xuất gạo thì cao mà giá bán gạo ra lại thấp.Về phía Trung Quốc do có được thông tin về giá cả này mà đã ký một hợp đồng rất lớn ,và lợi nhuận rất cao. Hạn chế tiếp theo của hệ thống thông tin kinh tế của nước ta là thuộc về yếu tố con người.Phương tiện, thiết bị để thông tin và nắm bắt thông tin mặc dù đã đa dạng hơn so với thời kỳ trước và còn được tiếp cận với công nghệ hiện đại (mặc dù vẫn đi sau các nước trong khu vực và thế giới ) nhưng nguồn nhân lực làm nhiệm vụ thu thập, đánh giá, xử lý thông tin lại chưa tận dụng đựơc những trang thiết bị này.Hạn chế của con ngưòi về mặt thông tin chủ yếu do các nguyên nhân sau : Trình độ của con người trong việc thu thập và xử lý thông tin, nguyên nhân thuộc về đạo đức ,khả năng tiếp nhận thông tin.Ta có thể xem xét từng nguyên nhân để thấy rõ thực trạng về nguồn nhân lực của vấn đề thông tin: Trong các nguyên nhân thì nguyên nhân chủ yếu là do trình độ chuyên môn về những lĩnh vực cần thông tin của đội ngũ nhân lực này còn thấp.Vì vậy thông tin thường tồn tại ở dạng thông tin thô chưa được xử lý hay xử lý nhưng không đáp ứng được so với yêu cầu.Ngay cả việc phát hiện ra thông tin thô có lúc cũng là một khó khăn vì thông tin tồn tại một cách vô hình nó chỉ được biểu hiện thông qua các phương tiện của nó.Tuy nhiên đôi khi thông tin không được thể hiện rõ ràng cụ thể nó có thể ẩn đi hoặc biểu hiện dưới một hình thái thông tin của sự việc hiện tượng khác.Vì vậy đòi hỏi người thu thập cũng phải có một trình độ nhất định mới phát hiện được ra thông tin đó có liên quan đến sự việc hiện tượng mình nghiên cứu nếu không sẽ bỏ xót thông tin.Đối với nhà nước ta khi đầu tư vào trang thiết bị phương tiện thông tin đã không chú ý đến việc đào tạo con người để có trình độ tương xứng với trình độ công nghệ tăng lên. Trong những nguyên nhân thuộc về nguồn nhân lực không chỉ có nguyên nhân về trình độ chuyên môn của họ mà còn có nguyên nhân thuộc về đạo đức.Đó là tình trạng bưng bít , hạn chế thông tin vì lợi ích cá nhân.Chẳng hạn như việc không muốn báo cáo cho cấp trên những thông tin xấu do kết của hoạt động của mình.Như vậy thông tin đã không được đưa đến đối tượng cần sử dụng tin để họ xem xét đánh giá .Ngoài các nhân thì ngay cả một tổ chức cũng có hiện bưng bít , lợi dụng thông tin nhằm phục vụ cho lợi ích cục bộ của mình.Như ta đã biết thì một trong những điều làm nên lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp thông tin kinh tế .Khi doanh nghiệp độc quyền về thông tin , doanh nghiệp có thể dựa vào thông tin đó để mắn bắt ,tận dụng cơ hội từ thị trường để tạo ra lợi nhuận lớn.Chính vì lợi ích này mà có nhiều trường hợp doanh nghiệp ,tổ chức cố tình giữ kín thông tin mặc dù việc găm giữ thông tin đó sẽ làm cho xã hội bị thiệt hại trong khi chỉ có doanh nghiệp là người được lợi.Một số các nhân ,tổ chức còn tung ra những thông tin sai lệch gây tổn hại đến cá nhân tổ chức khác .Mặc dù những thông tin đó có thể được chứng thực sau này tuy nhiêm nó cũng gây những tổn hại nhất định cho cá nhân tổ chức trong một thời gian ngắn. Về khả năng của con người trong việc tiếp nhận thông tin.Như đã nói ở trên thông tin sai lệch do một số tổ chức cá nhân tung ra có thể gây ra những hậu quả ngiêm trọng.Tuy nhiên ý đồ của việc tung những thông tin sai lệch có thực hiện được hay không còn phụ thuộc khá lớn vào trình độ của người tiếp nhận thông tin.Nếu người tiếp nhận thông tin có một trình độ nhất định thì khi thông tin được truyền đến họ trước khi đưa ra quyết định họ có thể xác minh lại độ trân thực của thông tin.Khả năng tiếp nhận thông tin lại phụ thuộc vào những yếu tố như : trình độ học vấn, tâm lý, cảm xúc, thái độ… của người nhận khi thông tin đến với người đó.Đặc biệt đối với nhiều nhà quản lý ở nước ta khi tiếp khi tiếp nhận thông tin để ra quyết định chưa tiếp nhận nó một cách khách quan ,còn bị tác động bởi một trong những yếu tố trên. Hạn chế tiếp là thông tin thiếu chính xác không đảm bảo độ tin cậy và tính hữu ích.Thông tin được lấy hoặc được cung cấp từ những nguồn thiếu tin cậy.Ngay cả báo chí một trong những kênh thông tin quan trọng nhất ,một nguồn thông tin đáng tin cậy tuy nhiên ở Việt Nam lại tồn tại một thực trạng đó là việc báo chí đưa những thông tin sai ,chưa chính xác về một số hiện tượng sự kiện.Một nghịch lý nữa là mặc dù thông tin lúc đầu là sai và có thể được đính chính lại nhưng uy tín của những tờ báo này vẫn không chịu chút thiệt hại nào.Sở dĩ như vậy là vì dư luận xã hội đối với việc tờ báo đó đã từng đưa thông tin sai là hầu như không có phản ứng, ngưòi đọc đã quá rễ rãi trong việc tiếp nhận thông tin.Vì vậy hiện tượng này vẫn có thể lặp đi lặp lại vài lần mà ít có sự sửa chữa khuyết điểm của một số tờ báo.Nguyên nhân của việc đưa thông tin sai thì có nguyên nhân chủ yếu như: do đạo đức của người viết báo.Vì một số lợi ích vật chất nhất định mà họ đựoc hưởng khi đưa ra những thông tin có lợi về một số đối tượng nào đó mặc dù thông tin đó không đúng sự thật. hoặc có nguyên nhân khác như khi có thông tin báo chí không xác minh tính chính xác của nó đã cho đăng bài và khi có những thông tin thể hiện rõ rthông tin trước là sai thì mới đính chính.Ngoài ra thông tin không đảm bảo chất lượng cũng có thể bắt nguồn từ sự yếu kém của phương tiện được trang bị :những hình ảnh không rõ nét ,những âm thanh bị nhiễu khó nghe …làm cho người tiếp nhận thông tin khó khăn trong việc tiếp nhận và xử lý.Để xử lý được những thông tin này đòi hỏi một lượng chi phí tăng lên về thời gian , kinh phí ,nhân lực cho việc lọc thông tin nhiễu.Về tính hữu ích của thông tin quá có nhiều thông tin phụ trong điều kiện hiện nay làm cho số lưọng thông tin quá lớn ,mà những thông tin phụ này không có nhiều hữu ích trong các hoạt động.Bên cạnh đó các doang nghiệp ,tổ chức cũng chưa biết tận dụng , khai thác được triệt để lợi ích mà thông tin đem lại nhằm làm tăng tính hữu ích của nó. Với số lượng thông tin ngày một tăng thêm thì có sự do gia tăng mạnh mẽ theo nó là về số lượng các tổ chức cung ứng thông tin và các dịch vụ thông tin nhờ vậy mà có thể làm giảm bớt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống thông tin phục vụ cho việc ra quyết định trong quá trình quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay.docx
Tài liệu liên quan