Đề tài Thực trạng và giải pháp phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản

Tính chung năm 2010, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Nhật Bản là 894 triệu USD, tăng 17,53% so với cùng kỳ. Tôm hiện là mặt hàng chủ lực với khối lượng xuất khẩu kỷ lục là 55.600 tấn, trị giá 504 triệu USD, tăng 12,8% về khối lượng và 18,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2009, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này ra thị trường thế giới lên 1,68 tỷ USD trong 11 tháng đầu năm (chỉ tiêu 1,4 tỷ USD).

doc44 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1751 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uống 0%. Nếu Hiệp định được ký kết và có hiệu lực. Đây là mức cam kết cao nhất của Nhật Bản đối với một nước thành viên ASEAN. Cụ thể - Ít nhất sẽ có 86% hàng nông lâm thủy sản và 97% hàng công nghiệp Việt Nam xuất sang Nhật sẽ được hưởng ưu đãi thuế. - Các mặt hàng khoáng sản sẽ được hưởng thuế nhập khẩu là 0% ngay lập tức kể từ khi hiệp định có hiệu lực. - Các mặt hàng tôm sẽ được giảm thuế suất nhập khẩu xuống 1%-2% ngay lập tức, các mặt hàng chế biến từ tôm được giảm xuống còn 3,2%-5,3% ngay lập tức, mặt hàng mực đông lạnh được giảm xuống còn 3,5% trong vòng 5 năm. Những mức này áp dụng trên cho Việt Nam cao nhất trong số các EPA (Hiệp định đối tác kinh tế) với các nước ASEAN. Việt Nam được hưởng 1638 dòng thuế tương đương mức cam kết tốt nhất mà Nhật dành cho một số nước ASEAN. 23 trong tổng số 30 mặt hàng nông lâm thủy sản có giá trị xuất khẩu cao nhất của Việt Nam sang Nhật sẽ được hưởng thuế suất 0% ngay lập tức hoặc qua lộ trình không quá 10 năm khi nhập khẩu vào Nhật Bản... Trong khi đó, thuế suất bình quân đánh vào hàng của Nhật Bản nhập khẩu vào Việt Nam sẽ giảm dần xuống còn 7% vào năm 2018. - Khoảng 88% tổng số dòng thuế nhập khẩu từ Nhật Bản vào Việt Nam sẽ được được giảm trong vòng 10 năm và 93% tổng số dòng thuế sẽ được giảm trong vòng 16 năm. - Các linh kiện sản xuất màn hình phẳng và DVD sẽ được giảm thuế suất nhập khẩu xuống 3% trong vòng 2 năm, máy ảnh kỹ thuật số sẽ được giảm xuống 10% trong vòng 4 năm, tivi màu sẽ được giảm xuống còn 40% trong vòng 8 năm. - Thuế suất nhập khẩu từ Nhật Bản vào Việt nam đối với các linh kiện sản xuất ô tô như hộp số sẽ được giảm xuống còn 10%-20% trong vòng 10 năm, động cơ và các linh kiện sản xuất động cơ ô tô sẽ được giảm xuống còn 3%-12% và phanh xuống còn 10% trong vòng 10-15 năm, các loại ốc sẽ giảm xuống còn 5% trong vòng 2 năm. Các mặt hàng thép tấm cũng là đối tượng được giảm thuế suất nhập khẩu xuống còn 0%-15% trong vòng 15 năm. Tuy nhiên, vì đây là một hiệp định đối tác kinh tế toàn diện, chứ không đơn thuần là một hiệp định thương mại tự do, nên ngoài hàng hóa, còn có dịch vụ cũng sẽ được tự do hóa. Đầu tư của nước này vào nước kia sẽ được bảo hộ. Và còn có nhiều nội dung hợp tác kinh tế khác. Tác động Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản Những năm gần đây, kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản ngày càng tăng: năm 2001 đạt 351 tỷ USD, năm 2004 đạt 454 tỷ USD và năm 2006 đạt 580 tỷ USD, năm 2007 đạt 621 tỷ USD (tăng 7,2% so với năm 2006), trong đó: nông thủy sản, thực phẩm là 51 tỷ USD (chiếm 8,3% tổng kim ngạch nhập khẩu), hải sản là 14,6 tỷ USD (chiếm 2,4%), may mặc là 30 tỷ USD (chiếm 4,9%)… Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Nhật Bản năm 2002 đạt 4,9 tỷ USD, tới năm 2007 tăng lên 12,2 tỷ USD, gấp 2,5 lần so với 5 năm trước. Cán cân thương mại giữa hai nước tương đối cân bằng.Từ năm 2000-2004, Việt Nam nhập siêu khoảng trên 50 triệu USD/năm;Năm 2005-2006 Việt Nam xuất siêu trên 300 triệu USD/năm và đến năm 2007, nhập siêu khoảng 108 triệu USD (chủ yếu là do nhập khẩu máy móc thiết bị gia tăng do có sự gia tăng trong đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam). Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật đạt 6,069 tỷ USD, tăng 16,7% so với năm 2006 và Nhật Bản tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam sau Hoa Kỳ. Bước sang năm 2008, với sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp hai nước, kim ngạch thương mại hai chiều đã có tín hiệu tăng trưởng tốt. Tính đến hết tháng 7 năm nay, kim ngạch thương mại hai chiều đã đạt xấp xỉ 10 tỷ USD, tăng 59,8% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó, Việt Nam xuất siêu trên 180 triệu USD. Như vậy, có thể tin tưởng rằng kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Nhật bản của cả năm 2008 sẽ vượt xa con số 15 tỷ USD, hoàn thành trước hai năm mục tiêu mà lãnh đạo cấp cao hai nước đề ra. Năm 2010, Việt Nam đã xuất khẩu sang nước này 7,73 tỉ USD, chiếm 10,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Ngược lại, Việt Nam nhập khẩu từ Nhật Bản 8,1 tỷ USD, chiếm 11,3% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam, trong đó máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng đạt 2 tỷ USD, sắt thép 966 triệu USD, những mặt hàng này là rất cần thiết cho quá trình công nghiêp hóa hiện đại hóa đất nước. Chỉ trong 2 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản đã hơn 1,2 tỉ USD, chiếm khoảng 10% so với tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó, Việt Nam xuất sang Nhật chủ yếu là dệt may, thủy sản, đồ thủ công mỹ nghệ. Đây đồng thời cũng là nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Kế hoạch đặt ra cho năm 2011, dự kiến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Nhật sẽ tăng trưởng 18% so với năm ngoái. 2.2 Phối hợp các công cụ chính sách trong quan hệ thương mại Việt-Nhật: -Kể từ sau Thế chiến thứ hai cho đến trước khi hai nước Việt - Nhật ký kết Hiệp định thiết lập chính thức quan hệ ngoại giao vào ngày 21/9/1973, quan hệ Việt - Nhật tuy vẫn duy trì song sự tiến triển còn rất chậm chạp. Nguyên nhân chủ yếu là vì các lý do chính trị khi đó thế giới vẫn còn chiến tranh lạnh giữa hai hệ thống XHCN và TBCN, Nhật Bản hoàn toàn phụ thuộc Mỹ để chống lại hệ thống XHCN do Liên Xô đứng đầu, trong đó có Bắc Việt Nam (Việt Nam dân chủ cộng hoà), còn Nam Việt Nam(Việt Nam cộng hoà) khi đó là liên minh của Mỹ-Nhật. - Kể từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới (1986) đến nay, quan hệ Việt Nam-Nhật Bản đã phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn trên tất cả mọi lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong các lĩnh vực kinh tế và văn hoá. Phối hợp các công cụ chính sách trong quan hệ thương mại Việt-Nhật: Hiện hàng hóa Việt Nam xuất sang Nhật chỉ chiếm 1,19% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của nước này và khoảng 10% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam đang có rất nhiều lợi thế ở Nhật Bản như giảm, miễn thuế, ưu đãi thuế quan; những thay đổi trong chính sách kinh tế thương mại của Nhật Bản đang có lợi cho doanh nghiệp Việt Nam như tăng hoạt động xuất khẩu hàng hóa về hướng Đông (ký nhiều hiệp định thương mại song phương với ASEAN)... Trước những tác động của tình hình kinh tế Nhật, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2011 sẽ gặp không ít khó khăn, trong đó có nhiều mặt hàng chủ lực. Đối với mặt hàng dệt may, hiện nhiều doanh nghiệp đã nhận được những đơn hàng lớn cho cả năm. Nhưng theo khuyến cáo, các doanh nghiệp nên lựa chọn những đơn hàng phù hợp với năng lực của mình, với mức giá tốt. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu hụt lao động đang được xem là vấn đề nan giải và nhiều doanh nghiệp luôn trong tình trạng lo bị phạt, mất hợp đồng vì giao hàng chậm nên đã không dám nhận thêm nhiều đơn hàng, không mở rộng được quy mô sản xuất. Trong xuất khẩu thủy sản, tháng 10/2010, sau khi một số lô tôm từ Việt Nam vào Nhật Bản bị phát hiện nhiễm trifuralin vượt quá giới hạn, cơ quan thẩm quyền của Nhật Bản đã quyết định áp chế độ kiểm tra 100% các lô tôm từ Việt Nam. Điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín và hoạt động xuất khẩu tôm. Do vậy, Tổng cục Thủy sản đang thúc đẩy các cơ quan quản lý nhà nước tăng cường triển khai các biện pháp cấm lưu thông và sử dụng trifluralin trong nuôi trồng thủy sản để đảm bảo chất lượng sản phẩm. Không chỉ áp dụng hạn ngạch, Nhật Bản còn đưa ra chế độ cấp phép nhập khẩu đối với sản phẩm từ thực vật, áp dụng tiêu chuẩn kỹ thuật cao (vệ sinh an toàn thực phẩm, kháng sinh...) nhằm hạn chế trong nhập khẩu hàng hóa. Do vậy, theo khuyến cáo của các chuyên gia, thị trường Nhật luôn có những đặc thù riêng mà các doanh nghiệp cần chú ý như: thực phẩm phải mềm, không mùi gắt, không dùng các gia vị đậm; hàng gia dụng không quá to, không dùng màu sặc sỡ... Ngoài ra, hệ thống phân phối ở Nhật cũng khá phức tạp, qua nhiều trung gian, vì thế doanh nghiệp không nên dựa theo giá tiêu thụ ở đầu cuối mà định giá thành khi chào hàng. Và để đạt hiệu quả cao, các doanh nghiệp cần chuẩn bị trước các điều kiện như sản phẩm, thông tin, đặt lịch hẹn, mời các hiệp hội Nhật Bản thăm quan, khảo sát điều kiện, quy mô sản xuất. 2.3 Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam – Nhật Bản 2.3.1. Hoạt động xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Nhật Bản: a. Cơ cấu: Việt Nam đã xây dựng được thị trường xuất khẩu vững chắc ở Nhật Bản với nhiều loại mặt hàng: Hàng dệt may Thủy sản Rau, củ quả Than đá Chất dẻo Dây điện, dây cáp điện Máy móc, thiết bị phụ tùng khác Thủy sản Máy vi tính và linh kiện V.v… 5 nhóm hàng có giá trị xuất khẩu ở Việt Nam sang Nhật Bản cao nhất theo thứ tự trong năm 2010 là: Thứ nhất là hàng dệt may với 1,15 tỷ USD, chiếm khoảng 15% trong tổng kim ngạch Thứ hai là dây điện và dây cáp điện với 920 triệu USD, chiếm 11,91% trong tổng kim ngạch Thứ ba là là máy móc, thiết bị phụ tùng khác với giá trị xuất khẩu là 903 triệu USD và chiếm khoảng 11,69% tổng kim ngạch Thứ tư là thủy sản xếp với 894 triệu USD, chiếm 11,57% trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang Nhật của Việt Nam Thứ năm là máy vi tính và linh kiện chiếm 5,88% tổng kim ngạch với 454 triệu USD. Trong nhóm hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản, thị trường quần áo giá rẻ tại Nhật của các doanh nghiệp Việt Nam đã gần như không thể cạnh tranh nổi với Trung Quốc. Mảng sản phẩm dệt may cao cấp cũng như trung bình vốn là cơ hội tốt cho Việt Nam xây dựng thương hiệu và gia tăng xuất khẩu. Giá trị cao nhất trong kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Nhật Bản, tôm luôn là mặt hàng quan trọng, có giá trị lớn nhất. Trong năm 2010, tôm chiếm khoảng 65%, nhuyễn thể chiếm 12%, cá ngừ chiếm 3% trong khi các loại cá và thủy sản khác chiếm 20% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Trong nhóm hàng dây diện và dây cáp điện Việt Nam xuất sang Nhật Bản, dây và cáp điện dùng trong ô tô vẫn luôn là sản phẩm xuất khẩu chính. Ngoài ra, còn nhiều mặt hàng khác, như là cáp điện bọc nhựa, dây cáp máy tính và dây cáp điện dùng trong xe máy, dây điện bọc flubon, cáp điện có đầu nối, cáp quang, v.v… b. Quy mô: Năm 2010, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 7,73 tỷ USD, tăng hơn 23% so với cùng kỳ năm 2009. Đặc biệt trong các tháng cuối năm, diễn biến xuất khẩu các mặt hàng chủ chốt của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản có nhiều chuyển biến tích cực như thủy sản, dệt may, máy tính và điện tử. Nhật Bản là thị trường lớn cho nhiều nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam. Điều này được thể hiện chi tiết với từng loại hàng cụ thể trong bảng sau: Bảng 1: Xếp hạng thị trường Nhật năm 2010 đối với hàng xuất khẩu Việt Nam (chỉ xét Nhật trong top 10 thị trường lớn) Thứ hạng thị trường Nhật Bản Nhóm hàng Số 1 Phương tiện vận tải và phụ tùng Dây điện và dây cáp điện Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng Sản phẩm hóa chất và hóa chất Giấy và các sản phẩm về giấy Gốm sứ Sản phẩm từ cao su, sản phầm từ chất dẻo Số 2 Hàng dệt may Thủy sản Rau quả Gỗ và sản phẩm gỗ Sản phẩm mây tre cói thảm Sản phẩm từ sắt thép Than đá Chất dẻo Thủy tinh và các sản phẩm thủy tinh Túi xách, ví, vali, ô dù Số 3 Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc Máy tính và linh kiện Quặng sắt và các khoảng sản khác Số 4 Đá quý, kim loại quý và sản phẩm Số 6 Cà phê Sắn và các sản phẩm từ sắn Số 7 Dầu thô Cao su Số 10 Giầy dép các loại Một số mặt hàng xuất khẩu trọng yếu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản tiếp tục tặng vào năm 2010. Dưới đây là bảng ghi chi tiết 10 chủng loại mặt hàng chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản năm 2010 so với năm 2009: Bảng 2: 10 chủng loại mặt hàng chủ yếu xuất khẩu sang Nhật Bản năm 2010 so với năm 2009 (đơn vị tiền: USD) Xếp hạng Mặt hàng Kim ngạch xuất khẩu năm 2010 Kim ngạch xuất khẩu năm 2009 % so sánh Tổng kim ngạch 7.727.659.550 6.291.809.820 +22,82 Hàng dệt may 1.154.491.648 954.075.543 +21,01 Dây điện và dây cáp điện 920.053.298 639.502.471 +43,87 Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác 903.337.993 599.945.096 +50,57 Thủy sản 894.055.279 760.725.464 +17,53 Gỗ và sản phẩm gỗ 454.575.880 355.366.244 +27,92 Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 410.800.833 380.970.568 +7,83 Phương tiện vận tải và phụ tùng 381.447.306 238.328.522 +60,05 Sản phẩm từ chất dẻo 255.579.955 193.284.113 +32,23 Than đá 233.824.541 145.558.775 +60,64 Dầu thô 214.114.871 480.116.943 -55,40 Dựa vào bảng trên ta thấy: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may từ năm 2009 sang năm 2010 có một sự tăng vọt. Năm 2009, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Nhật của Việt Nam là 995 triệu USD, sang đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu này đã tăng trưởng 21,01% và đạt 1,2 tỷ USD. So với năm 1997, kim ngạch xuất khẩu hàng Biểu đồ 1 Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Nhật Bản trong giai đoạn 1997- 2010(đơn vị: triệu USD) Tính chung năm 2010, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Nhật Bản là 894 triệu USD, tăng 17,53% so với cùng kỳ. Tôm hiện là mặt hàng chủ lực với khối lượng xuất khẩu kỷ lục là 55.600 tấn, trị giá 504 triệu USD, tăng 12,8% về khối lượng và 18,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2009, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này ra thị trường thế giới lên 1,68 tỷ USD trong 11 tháng đầu năm (chỉ tiêu 1,4 tỷ USD). Trong nhóm hàng công nghiệp, mặt hàng dây và dây cáp điện tăng trở lại trong năm 2010 do ngành sản xuất và xuất khẩu ôtô của Nhật Bản và Mỹ tăng trưởng trở lại kéo theo nhu cầu nhập khẩu dây và cáp điện dùng trong ôtô tăng. Năm 2010, mặt hàng này đứng thứ hai trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật, với 920 triệu USD, tăng 74,6% so với cùng kỳ. V.v… Tuy nhiên, có nhiều mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản bị giảm giá trị trong năm 2010, đặc biệt là nhóm các mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao: Mặt hàng máy tính và linh kiện điện tử trong 11 tháng đầu năm 2010 đạt khoảng 321 triệu USD, thấp hơn cùng kỳ năm 2009 là 8%. Xuất khẩu dầu thô trong 10 tháng đầu năm 2010 đạt 239.500 tấn với kim ngạch 145,9 triệu USD, giảm 71,7% về lượng và giảm 61,4% về trị giá so với cùng kỳ ở năm 2009. Trong 8 tháng đầu năm 2010, cà phê giảm 16,2% về trị giá, đạt 61,8 triệu USD so với cùng kỳ năm 2009 Sản phẩm gốm sứ: giảm 1,70% đạt 19,3 triệu USD so với cùng kỳ 8 tháng đầu năm 2009 Tính đến tháng 08/2010, đá quý và kim loại quý giảm 34,8% đạt 19,3 triệu USD so với cùng kỳ năm 2009 Xăng dầu các loại giảm 39,28% về lượng và giảm 63,29% về trị giá đạt 23,3 nghìn tấn và 13,8 triệu USD trong 8 tháng đầu năm 2010 so với năm 2009 V.v… Hơn nữa, năm 2010, giá trị hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Nhật chỉ chiếm 1,19% trong tổng số kim ngạch nhập khẩu của Nhật và 10% trong tổng số kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. 2.1.2. Hoạt động nhập khẩu hàng hóa từ Nhật Bản sang Việt Nam: a. Cơ cấu Bên cạnh việc xuất khẩu nhiều nhóm hàng sang thị trường Nhật Bản, Việt Nam cũng nhập khẩu nhiều mặt hàng từ Nhật Bản: Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác Sắt thép các loại Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện Sản phẩm từ chất dẻo Linh kiện, phụ tùng ô tô Sản phẩm hóa chất V.v… 5 mặt hàng chủ yếu Việt Nam nhập khẩu từ Nhật Bản là máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; sắt thép các loạil sản phẩm từ chất dẻo; linh kiện, phụ tùng ô tô. Trong đó, năm 2010: Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác là mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu từ Nhật ở Việt Nam cao nhất với 2,5 tỷ USD, chiếm 28,2% tổng kim ngạch Sắt thép các loại là mặt hàng có giá trị nhập khẩu đứng thứ hai với 1,2 tỷ USD, chiếm 13,5% tổng kim ngạch Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đứng thứ ba với 1 tỷ USD, chiếm 11,3% tổng kim ngạch Sản phẩm chất dẻo đứng thứ tư với 403 triệu USD, chiếm 4,55% tổng kim ngạch Linh kiện, phụ tùng ô tô đứng thứ năm với 400 triệu USD, chiếm 4,51% tổng kim ngạch b. Quy mô: Năm 2010, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ Nhật Bản ở Việt Nam là trên 9 tỷ USD, tăng 20,73% so với năm 2009. Trong đó, hầu như các mặt hàng nhập khẩu từ Nhật của Việt Nam đều tăng trưởng về kim ngạch, như: Thiết bị, dụng cụ phụ tùng là mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu là 2,5 tỷ USD, tăng 11,42% so với năm 2009.  Sắt thép các loại có giá trị nhập khẩu 1,2 tỷ USD và khối lượng là 1,7 triệu tấn, tăng 19,38% về lượng và tăng 47,85% về trị giá so với năm trước. Mặt hàng giấy các loại tuy không phải là mặt hàng chính Việt Nam nhập khẩu từ thị trường này, nhưng lại tăng trưởng cao nhất trong nhóm mặt hàng - 86,42% so với năm 2009, với trị giá 62,2 triệu USD V.v… Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số mặt hàng giảm kim ngạch nhập khẩu nhưng số mặt hàng đó chỉ chiếm khoảng 20,5% trong tổng số chủng loại mặt hàng Để biết được cụ thể hơn tình hình tăng giảm từng mặt hàng xuất khẩu từ Nhật Bản sang Việt Nam, ta sẽ theo dõi bảng sau: Bảng 3: Thống kê hàng hóa nhập khẩu từ Nhật Bản ở Việt Nam năm 2010 so với năm 2009 (đơn vị: USD) Xếp hạng Mặt hàng Kim ngạch nhập khẩu năm 2010 Kim ngạch nhập khẩu năm 2009 % so sánh Tổng kim ngạch 9.016.084.835 7.468.091.543 +20,73 Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác 2.550.872.313 2.289.461.371 +11,42 Sắt thép các loại 1.241.046.244 839.368.216 +47,85 Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 1.026.682.638 839.376.209 +22,31 Sản phẩm từ chất dẻo 402.735.641 339.338.607 +18,68 Linh kiện, phụ tùng ô tô 399.825.014 394.754.084 +1,28 Vải các loại 358.705.602 333.711.425 +7,49 Sản phẩm từ sắt thép 354.022.355 255.030.614 +38,82 Chất dẻo nguyên liệu 308.327.110 222.248.168 +38,73 Sản phẩm hóa chất 230.213.399 155.511.321 +48,04 Kim loại thường khác 210.167.347 117.535.427 +78,81 Hóa chất 175.810.817 124.718.751 +40,97 Ô tô nguyên chiếc các loại 168.437.500 176.049.488 -4,32 Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 134.026.522 118.233.494 +13,36 Dây điện và dây cáp điện 105.488.341 88.702.034 +18,92 Phương tiện vận tải khác và phụ tùng 103.620.708 113.624.907 -8,80 Linh kiện phụ tùng xe máy 91.000.193 71.978.719 +26,43 Sản phẩm từ cao su 76.107.807 57.418.121 +32,55 Cao su 70.947.595 39.712.218 +78,65 Sản phẩm từ giấy 70.204.405 55.053.899 +27,52 Sản phẩm từ kim loại thường khác 62.832.220 37.418.354 +67,92 Giấy các loại 62.229.486 33.380.773 +86,42 Xăng dầu các loại 42.398.695 Sản phẩm khác từ dầu mỏ 34.629.177 25.387.889 +36,40 Nguyên phụ liệu thuốc lá 34.366.479 35.808.601 -4,03 Phân bón các loại 32.671.325 25.746.189 +26,90 Đá quý, kim loại quý và sản phẩm 26.177.937 42.241.412 -38,03 Hàng thủy sản 25.284.869 24.575.118 +2,89 Thuốc trừ sâu và nguyên liệu 23.254.300 22.376.411 +3,92 Xơ, sợi dệt các loại 21.176.870 14.185.028 +49,29 Dược phẩm 16.273.295 11.381.510 +42,98 Gỗ và sản phẩm gỗ 5.083.870 4.834.331 +5,16 Thức ăn gia súc và nguyên liệu 4.446.261 5.098.119 -12,79 Xe máy nguyên chiếc 943.230 4.297.121 -78,05 Nguyên phụ liệu dược phẩm 694.251 864.610 -19,70 CHƯƠNG III. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN 3.1 Đánh giá quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản Nhật Bản – nền kinh tế lớn thứ hai thế giới - là một thị trường lớn với dân số khoảng 128 triệu và có sức mua lớn. Người tiêu dùng Nhật Bản ưa chuộng sự đa dạng của sản phẩm. Sản phẩm có vòng đời ngắn nhưng chất lượng tốt, kiểu dáng đẹp, hoàn hảo, tiện dụng là phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng Nhật Bản hiện nay. 3.1.1 Một số khó khăn cần lưu ý khi thâm nhập thị trường Nhật Bản Trước hết đó là vấn đề nắm bắt thông tin và hiểu biết về tập quán kinh doanh của người Nhật Bản. Các DN Nhật Bản rất coi trọng chữ “tín” trong quan hệ với bạn hàng và thực hiện nghiêm chỉnh cam kết trong hợp đồng khi đã ký hợp đồng. Họ thường có quá trình tìm hiểu rất kỹ càng về đối tác tiềm năng trước khi có quyết định làm ăn lâu dài, đôi khi đơn hàng có khối lượng không lớn. Trong khi đó, nhiều DN Việt Nam đặc biệt là các DN nhỏ và vừa thiếu thông tin về thị trường Nhật Bản và kinh nghiệm làm ăn với các DN Nhật Bản. Một số DN chưa thật sự hiểu biết thấu đáo về văn hóa, tập quán kinh doanh của Nhật Bản. Bởi vậy, một số DN Việt Nam, mặc dù đã có kết quả kinh doanh tốt ở thị trường Mỹ, các nước EU nhưng lại chưa có kết quả tương tự ở thị trường Nhật Bản. Một khó khăn nữa cần được lưu ý đó là rào cản kỹ thuật đối với hàng nông sản, thủy sản. Vệ sinh an toàn thực phẩm là vấn đề quan trọng nhất trong xuất khẩu hàng nông sản, thủy sản, nhất là đối với thị trường Nhật Bản. Kể từ ngày 29/5/2006, Nhật Bản đã thực hiện Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm sửa đổi đối với tất cả các lô hàng thực phẩm nhập khẩu vào Nhật Bản, thắt chặt quy định và bổ sung một số loại dư lượng hóa chất không được phép có trong thực phẩm và tiếp tục nâng mức hạn chế dư lượng hóa chất cho phép. Tôm và mực xuất khẩu của Việt Nam đã bị kiểm tra chất lượng an toàn thực phẩm 100%. Đối với rau quả, Luật bảo vệ thực vật của Nhật Bản liệt Việt Nam vào danh sách các nước có dịch bệnh ruồi đục quả, nên Việt Nam không được phép xuất khẩu quả tươi có hạt như thanh long, nhãn, xoài, đu đủ, dưa chuột, cà chua… Bên cạnh đó là những vấn đề về tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng sản phẩm.Hàng công nghiệp chế tạo của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật (trừ của các công ty liên doanh hay 100% vốn của Nhật Bản) gặp một số khó khăn về tiêu chuẩn kỹ thuật vì các tiêu chuẩn công nghiệp của Nhật (JIS) có nhiều điểm riêng biệt khác với tiêu chuẩn quốc tế, trong khi hầu hết các công ty của Việt Nam là theo hệ thống tiêu chuẩn quốc tế.Người tiêu dùng Nhật Bản có yêu cầu khắt khe về chất lượng, độ bền, độ tin cậy và sự tiện dụng của sản phẩm. Họ sẵn sàng trả giá cao hơn một chút cho những sản phẩm có chất lượng tốt. Yêu cầu này còn bao gồm dịch vụ hậu mãi như sự phân phối kịp thời của nhà sản xuất khi một sản phẩm bị trục trặc, khả năng và thời gian sửa chữa các sản phẩm đó. Những vết xước nhỏ, mẩu chỉ cắt còn sót lại trên mặt sản phẩm dệt may, bao bì xô lệch, v.v… những lỗi nhỏ do sơ ý trong khi vận chuyển, hay khâu hoànthiện sản phẩm cũng có thể dẫn đến tác hại lớn là làm lô hàng khó bán, ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất lâu dài. Ngoài ra còn những khó khăn về chi phí và hệ thống phân phối. Do yêu cầu cao về chất lượng, các DN cần đầu tư để cải tiến nhiều khâu từ thiết kế, kỹ thuật, bảo quản, vận chuyển, quản lý chất lượng. Việc tiến hành khảo sát và tiếp cận thị trường Nhật Bản cũng khá tốn kém nhất là đối với những DN vừa và nhỏ. Đồng thời, hàng hoá vào thị trường Nhật Bản phải qua nhiều khâu phân phối lưu thông nên đến tay người tiêu dùng giá cả khá cao so với giá nhập khẩu. Yêu cầu đối với nhà sản xuất là đảm bảo đáp ứng đúng yêu cầu của người tiêu dùng và chào hàng với giá cả hợp lý (không bị lệ thuộc vào thông tin về giá bán lẻ ở Nhật Bản)… 3.1.2 Một số thuận lợi khi gia nhập thị trường Nhật Bản hiện nay Hiện tại theo nhiều đánh giá thì Nhật Bản là thị trường khó tính nhưng thuận lợi và nhiều tiềm năng đối với hoạt động xuất khẩu của nước ta. Năm 2011, Việt Nam xuất sang Nhật chỉ chiếm 1,19% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật và khoảng 10% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra thế giới. Trong khi đó, DN Việt Nam đang có rất nhiều lợi thế ở Nhật. Vì thế, DN nên nắm bắt xu hướng và lợi thế để tận dụng và khai thác lợi thế này. Thứ nhất, hiện quan hệ thương mại - kinh tế Việt - Nhật đang trên đà phát triển mạnh. Năm 2008 kim ngạch xuất nhập khẩu hai nước đạt 16 tỷ USD, năm 2009 trong khó khăn vẫn đạt gần 11 tỷUSD và năm 2010 tiếp tục đạt 16,9 tỷ USD (tăng gần 23% so 2009). Trong mối quan hệ này, cán cân thương mại của cả hai bên luôn ở mức tương đối cân bằng. Việt Nam xuất sang Nhật hàng chủ lực có thế mạnh như nông hải sản, hàng dệt may, da giày, sản phẩm gỗ, linh kiện - máy móc… và nhập từ Nhật thiết bị, công nghệ, tiếp nhận vốn đầu tư… Khách du lịch Nhật đến Việt Nam cũng đứng trong top 2 với khoảng 400 ngàn lượt khách đến hàng năm. Nhật cũng là nơi đang tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam… Thứ hai, hiệp định Đối tác toàn diện Việt - Nhật được ký kết vào tháng 12/2008 là khung pháp lý quan trọng tạo điều kiện rất thuận lợi cho DN hai nước mở rộng các mối quan hệ trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học - công nghệ - đầu tư – lao động… Sau hơn 1 năm triển khai hiệp định, đã có hơn 1/3 hàng hoá Việt Nam sang Nhật hưởng các lợi ích từ hiệp định, nhất là trong lĩnh vực thuế quan. Hiệp định vẫn còn đến 95% sản phẩm công nghiệp từ Việt Nam sang Nhật sẽ có thuế suất 0% (giảm theo lộ trình), nhiều mặt hàng khác như da giày, sản phẩm gỗ, sản phẩm hoá chất, hàng nông sản… cũng đang và sẽ tiếp tục được giảm thuế suất. Với trình độ của nền kinh tế hai nước, sản phẩm của hai nền kinh tế đang bổ sung và không cạnh tranh nhau, vì mức độ, phẩm cấp hàng hoá khác nhau. Thứ ba, do tình hình kinh tế thế giới thay đổi đang tạo nhiều thị trường ngách cho các DN VN có cơ hội thâm nhập vào Nhật Bản. Đầu năm 2011, hai nước cũng đang đàm phán thoả thuận tiếp nhận lao động Việt Nam trong lĩnh vực y tế với số lượng khoảng 400 ngàn người. Bên cạnh đó, Nhật đang có nhu cầu nhập nhiều sản phẩm cơ khí mức độ công nghệ thấp. Trước đây 50% các chủng loại sản phẩm này Nhật nhập từ Trung Quốc, nhưng do ngày nay Trung Quốc không muốn hợp tác với Nhật sản xuất các sản phẩm cơ khí công nghệ thấp, cộng với chi phí sản xuất tại Trung Quốc đang cao và nhất là không muốn lệ thuộc vào m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và giải pháp phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản.doc