Đề tài Thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc dưới tác động của Chương trình thu hoạch sớm

MỤC LỤC

Trang

LỜI CẢM ƠN 1

LỜI MỞ ĐẦU 2

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VÀ TỔNG QUAN VỀ CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM GIỮA AFTA VÀ TRUNG QUỐC 5

1.1 Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa 5

1.1.1. Các quan điểm về thương mại quốc tế và xuất khẩu hàng hóa 5

1.1.3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng hóa đối với một quốc gia 7

1.1.4. Các hình thức xuất khẩu 9

1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu 11

1.2. Tổng quan về chương trình thu hoạch sớm kí kết giữa AFTA và Trung Quốc 13

1.2.1 Giới thiệu chung về ACFTA và EHP 13

1.2.2. Những thuận lợi do EHP mang lại cho Việt Nam 18

1.2.3. Những thách thức từ việc thực hiện EHP đối với Việt Nam 20

1.2.4. Tác động của Chương trình Thu hoạch sớm với quan hệ thương mại Việt Nam-ASEAN 21

1.3. Vai trò của thị trường Trung Quốc đối với hàng nông thủy sản xuất khẩu của Việt Nam 22

1.4. Những lợi thế và hạn chế của hàng nông thủy sản Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc 24

1.4.1. Những lợi thế của hàng nông thủy sản Việt Nam khi cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc 24

1.4.2. Những bất lợi của hàng nông thủy sản Việt Nam khi cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc 26

1.5. Kinh nghiệm xuất khẩu nông thủy sản hàng hóa của Thái Lan sang Trung Quốc 28

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC DƯỚI LỘ TRÌNH THỰC HIỆN CỦA CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM 31

2.1. Tình hình xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang Trung Quốc 31

2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu 31

2.1.2. Cơ cấu xuất khẩu 33

2.1.3. Phương thức thanh toán 36

2.2. Đánh giá, nhận xét về hoạt động xuất khẩu hàng nông thủy sản Việt Nam sang thị trường Trung Quốc dưới tác động của EHP 40

2.2.1. Những kết quả đạt được 40

2.2.2. Những hạn chế, tồn tại 40

2.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình thực hiện EHP 41

CHƯƠNG III: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC DƯỚi TÁC ĐỘNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM 45

3.1. Dự báo xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc 45

3.2. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc dưới tác động của Chương trình thu hoạch sớm 46

3.2.1. Giải pháp từ phía nhà nước 46

3.2.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp 48

KẾT LUẬN 52

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 53

DANH MỤC BẢNG VÀ ĐỒ THỊ

 

doc56 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1099 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc dưới tác động của Chương trình thu hoạch sớm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h bật rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam ngay trên sân nhà. Do đó đảm bảo vị thế trên sân nhà của các doanh nghiệp Việt Nam cũng là một thách thức không nhỏ. 1.2.4. Tác động của Chương trình Thu hoạch sớm với quan hệ thương mại Việt Nam-ASEAN Chương trình Thu hoạch sớm có ảnh hưởng không đáng kể đến quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN vì giữa các nước ASEAN đang thực hiện Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) với lộ trình cắt giảm thuế nhanh hơn. Thậm chí, trong các mặt hàng từ Chương 1 đến 8, ta đang xuất siêu với các nước ASEAN với giá trị trên 35 triệu USD. Đây là một lợi thế rất lớn đối với Việt nam. Theo cam kết CEPT/AFTA của Việt Nam, tất cả các mặt hàng từ Chương 1-8 thuộc danh mục IL và TEL sẽ phải giảm xuống 0-5% vào năm 2006, tổng cộng là 341 mặt hàng. Trong khi đó trong Chương trình Thu hoạch sớm, những dòng thuế có thuế suất cao từ 30% đến 50% trong Chương 1-8 sẽ cắt giảm xuống 10% năm 2006 và giảm dần xuống 0% vào năm 2008. Về mức độ cắt giảm thuế, hiện nay, trong Chương trình CEPT 2002, ta đã cắt giảm 308 dòng thuế từ Chương 1-8 xuống thấp hơn và bằng 20%, trong khi đó, Chương trình Thu hoạch sớm vẫn còn duy trì thuế suất MFN cao, khoảng 219 dòng thuế bằng và lớn hơn 20%. (Bảng 1.4) Bảng 1.4. So sánh Lộ trình cắt giảm thuế Chương trình EH với Chương trình CEPT/AFTA của Việt nam Lộ trình cắt giảm Chương trình EH Chương trình CEPT Thuế suất 20% 15% 10% 0-5% Tổng cộng 20% 15% 10% 0-5% Tổng cộng 2004 219 0 71 76 366 0 68 64 209 341 2005 0 219 71 76 366 0 0 132 209 341 2006 0 0 219 147 366 0 0 0 341 341 Nguồn: Cục xúc tiến thương mại – Bộ thương mại Tóm lại, chương trình Thu hoạch sớm ít ảnh hưởng đến quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN vì giữa các nước ASEAN đang thực hiện Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) trong khuôn khổ AFTA với lộ trình cắt giảm thuế nhanh hơn. Thực tế là nước ta vẫn xuất siêu sang các nước ASEAN nhưng giá trị nhỏ, khoảng trên 35 triệu USD. Do đó, lợi ích của Chương trình Thu hoạch sớm đối với các doanh nghiệp Việt Nam sẽ chủ yếu nhờ vào khai thác các mối quan hệ thương mại với Trung Quốc. 1.3. Vai trò của thị trường Trung Quốc đối với hàng nông thủy sản xuất khẩu của Việt Nam Thị trường Trung Quốc là một thị trường có sức tiêu thụ rất lớn và tiềm năng với tất cả các nước trong đó có Việt Nam. Nước ta lại có lợi thế về vị trí địa lý gần gũi khi xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc. Sau khi quan hệ hai nước được bình thường hóa năm 1991, quan hệ thương mại Việt-Trung có nhiều khởi sắc. Việt Nam bắt đầu tăng cường xuất khẩu các mặt hàng sang Trung Quốc như nông sản, thủy hải sản, cao su, dầu thô, khoáng sản, v.v. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc thường không ổn định, trong cơ cấu mặt hàng chủ yếu là nguyên liệu thô, giá cả bấp bênh, trong khi đó Trung Quốc lại nhập khẩu nguyên liệu thô của ta và xuất sang Việt Nam hàng tiêu dùng với chất lượng trung bình và giá rẻ và các mặt hàng máy móc có giá trị cao. Khu vực thị trường thu hút nhiều hàng hóa xuất khẩu nhất với Việt Nam chính là vùng Tây Nam, giáp biên giới Việt Trung. Vùng này bao gồm 12 tỉnh, thành phố với diện tích hơn 5 triệu km2 ( chiếm trên 60 % diện tích toàn Trung Quốc), dân số hơn 300 triệu người. Đây là vùng miền núi, nhiều dân tộc, trình độ sản xuất và mức sống của nhân dân chưa phát triển bằng vùng duyên hải của Trung Quốc như Quảng Đông, Phúc Kiến, Thượng Hải... Để cải thiện đời sống nhân dân, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về giàu nghèo giữa miền Đông và miền Tây, trong những năm gần đây Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã triển khai chính sách “đại khai phá miền Tây”, với nhiều chủ trương, chính sách ưu đãi, tập trung nguồn vốn lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế thương mại... cho vùng nay, do vậy nhu cầu về hàng hoá ở đây rất đa dạng, yêu cầu về tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá không cao, phù hợp với trình độ sản xuất, hàng hoá hiện có của Việt nam, là một trong những thị trường giàu tiềm năng đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Trong các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, nổi lên 2 mặt hàng có tốc độ tăng trưởng khá nhanh về kim ngạch là thủy sản và nông sản. Đây cũng chính là 2 mặt hàng có lợi thế xuất khẩu của nước ta. Trung Quốc là một nước xuất khẩu thuỷ sản rất lớn trên thế giới, nhưng đồng thời cũng là thị trường tiêu thụ thủy sản lớn ước đạt 32,7 kg/người/ năm (so với mức bình quân thế giới là 20 kg/người/ năm). Gần đây, Trung Quốc đang thực hiện chính sách đóng cửa biển 2 đến 3 tháng mỗi năm để bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong nước, nên càng làm tăng lượng thuỷ sản nhập khẩu vào Trung Quốc. Thị trường Trung Quốc lại có nhiều điều kiện thuận lợi cho hàng thủy sản của Việt Nam như sức tiêu thụ lớn, chi phí vận chuyển thấp, yêu cầu tiêu chuẩn chất lượng đặt ra không quá cao (so với các nước Liên minh Châu Âu). Nhiều doanh nghiệp Hồng Kông và Đài Loan đầu tư vào Trung Quốc muốn nhập hải sản của Việt Nam để chế biến và tái xuất sang thị trường thứ 3. Mặt hàng rau quả cũng có điều kiện rất tốt để thâm nhập vào thị trường Trung Quốc. Việc Trung Quốc gia nhập WTO về ngắn hạn sẽ không làm thay đổi vị thế cạnh tranh của rau quả Việt Nam. Về dài hạn, rau quả Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt với rau quả của Trung Quốc nhưng cũng có nhiều cơ hội để thâm nhập thị trường này. Theo thống kê, hiện nay tiêu thụ rau quả của Trung Quốc chiếm tới 36% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam, tiếp theo là Đài Loan (17%), Nhật Bản (12%), Mỹ (7%), Nga (4%)... 1.4. Những lợi thế và hạn chế của hàng nông thủy sản Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc 1.4.1. Những lợi thế của hàng nông thủy sản Việt Nam khi cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc Thứ nhất: So với các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu như hàng dệt may, giầy da hay cơ khí, điện tử lắp rápthì trong cùng một lượng kim ngạch xuất khẩu thu về như nhau, tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của hàng nông sản rất thấp, do đó thu nhập ngoại tệ ròng của hàng nông sản xuất khẩu sẽ cao hơn nhiều. Ví dụ: Chi phí sản xuất hạt điều xuất khẩu có nguồn gốc ngoại tệ (phân bón, thuốc sâu bệnh và các loại hóa chất, xăng dầu) chỉ chiếm từ 27 đến 73% giá trị kim ngạch xuất khẩu hạt điều. Điều đó có nghĩa là xuất khẩu hạt điều đã tạo ra từ 27 đến 73% thu nhập ngoại tệ thuần cho đất nước, chỉ số này đối với hàng dệt may xuất khẩu là khoảng 15 đến 20%. Đây là lợi thế ban đầu của các nước nghèo, khi chưa có đủ nguồn ngoại tệ để đầu tư xây dựng các nhà máy lớn, khu công nghiệp để sản xuất - kinh doanh những mặt hàng đòi hỏi nhiều ngoại tệ. Thứ hai: Ngành nông thủy sản là ngành sử dụng nhiều lao động vào quá trình sản xuất - kinh doanh. Đây là một ưu thế quan trọng hiện nay của ngành, vì hàng năm nước ta phải giải quyết thêm việc làm cho 1,4 triệu người bước vào tuổi lao động. Ví dụ, để trồng và chăm sóc 1 ha dứa hay 1 ha dâu tằm mỗi năm cần sử dụng tới 20 lao động. Trong khi đó, giá nhân công Việt Nam rẻ hơn các nước khác trong khu vực, phổ biến với mức 1- 1,2 USD/ngày công lao động như trong sản xuất lúa, cà phê. Hiện nay, một số công việc nặng nhọc như đánh bắt cá ngừ, thu hoạch mía hay thu hoạch lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với giá nhân công cao cũng mới chỉ là 2-2,5 USD/ngày công lao động, nhưng vẫn còn rẻ hơn so với Thái Lan từ 2-3lần. Tất nhiên lợi thế này sẽ không tồn tại lâu do sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và thế giới. Thứ ba: Điều kiện sinh thái tự nhiên của nhiều vùng nước ta rất thuận lợi cho việc phát triển sản xuất một số loại rau quả vụ đông có hiệu quả như cà chua, bắp cải, tỏi, khoai tây Trong khi cũng vào thời gian này ở Trung Quốc đang bị tuyết dày bao phủ không thể trồng trọt được gì, nhưng những nơi này lại là thị trường tiêu thụ lớn và tương đối dễ tính. Các đối thủ cạnh tranh như Thái Lan, Philipin lại kém lợi thế hơn so với Việt Nam cả về điều kiện tự nhiên sinh thái, cả về kỹ năng, kinh nghiệm sản xuất và tính cần cù lao động của người nông dân trong việc trồng trọt các loại rau quả đó. Thứ tư: Một số ít nông sản được thị trường Trung Quốc ưa chuộng như nhân hạt điều, dứa, lạc lại có thể trồng ở Việt Nam trên các đất bạc màu, đồi núi trọc (như điều) hay trên đất phèn, mặn (như dứa), lạc vụ 3 xen canh, nên không bị các cây trồng khác cạnh tranh, mà trên thực tế vẫn còn có khả năng mở rộng sản xuất. Thứ năm: Trung Quốc vốn là thị trường truyền thống với quy mô lớn và tương đối dễ tính đối với các mặt hàng nông sản của Việt Nam. Mặt khác, trên các nước này hiện có một lượng doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam đang làm ăn phát đạt ở đó. Đây là một lợi thế lớn để nối lại thị trường tiêu thụ mà bấy lâu nay nước ta đã bỏ qua chưa khai thác có hiệu quả. Thứ sáu: Nhiều tư liệu sản xuất dùng trong quá trình sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản vẫn còn phải nhập khẩu, mà phần lớn lại nhập với giá cao hơn giá thế giới, chi phí để sản xuất các loại tư liệu đó trong nước rất cao. Do vậy mở cửa hội nhập kinh tế, tự do hóa thương mại sẽ làm cho giá nhập khẩu mặt hàng này rẻ hơn, làm cho giá thành sản xuất và chế biến các loại hàng nông, lâm, thủy sản của nước ta giảm xuống một lượng đáng kể do đó sẽ tạo thêm ưu thế cạnh tranh. Thứ bảy: Thể chế chính trị ổn định, môi trường đầu tư và hệ thống pháp luật của Việt Nam ngày càng được cải thiện và điều chỉnh thích ứng dần với tiến trình tự do hóa thương mại trong khu vực và toàn cầu. 1.4.2. Những bất lợi của hàng nông thủy sản Việt Nam khi cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc Thứ nhất: Nhìn chung, tuy Việt Nam đã bước đầu hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung nhưng khối lượng hàng hóa còn nhỏ bé, thị phần trên thế giới thấp, chất lượng chưa đồng đều và ổn định. Việt Nam chưa hình thành được các vùng chuyên canh sản xuất hàng tươi sống và vùng nguyên liệu tập trung cho các nhà máy chế biến lớn theo yêu cầu kỹ thuật và kinh tế. Gạo của Việt Nam chưa đảm bảo độ đồng nhất về quy cách chất lượng ngay trong từng lô gạo, bao bì đóng gói kém hấp dẫn và chưa có nhãn thương hiệu của doanh nghiệp mình trên vỏ bao bì. Điều đó làm cho giá xuất khẩu của nông sản Việt Nam thấp hơn các nước khác. Thứ hai: Phần lớn các loại giống cây con hiện đang được nông dân sử dụng có năng suất và chất lượng thấp hơn so với các nước trên thế giới và các đối thủ cạnh tranh trong khối ASEAN. Trên địa bàn cả nước chưa hình thành được một hệ thống cung ứng giống cây con tốt cho người sản xuất, từ giống tác giả, giống nguyên chủng cho đến giống thương phẩm. Hầu hết người nông dân đã tự sản xuất giống cây con cho mình từ vụ thu hoạch trước hoặc mua giống trên thị trường trôi nổi mà không có sự đảm bảo về chất lượng, đặc biệt là giống các loại cây ăn quả, cây lương thực, cây rau Năng suất lúa của Việt Nam chỉ bằng 61% năng suất lúa của Trung Quốc và thấp thua nhiều so với lúa của Nhật Bản, Italia, Mỹ. Năng suất cà chua của ta chỉ bằng 65% năng suất cà chua thế giới, cao su Việt Nam mới đạt năng suất 1,1 tấn/ha, so với năng suất thế giới là 1,5 - 1,8 tấn/ha - thấp hơn tới 30-40%. Thứ ba: So với các đối thủ cạnh tranh, Việt Nam có công nghệ chế biến lạc hậu, chưa đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu tiêu dùng của các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ. Mặt khác, kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc vận chuyển, bảo quản dự trữ, bốc xếp hàng hóa nông sản, nhất là hàng tươi sống rất yếu kém nên giá thành sản phẩm và phí gián tiếp khác tăng nhanh. Ví dụ: Do công suất bốc xếp ở cảng Sài Gòn là 1000 tấn/ngày chỉ bằng 1/2 công suất cảng Băng Cốc (Thái Lan), cho nên cảng phí cho 1 tàu chở gạo 10000 tấn ở Việt Nam là 40000 USD, còn ở cảng Băng Cốc là 20000 USD, như vậy là chi phí tại cảng trong khâu bốc xếp của Việt Nam đã cao hơn gấp đôi so với cảng Băng Cốc. Thứ tư: Năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, chế biến và xuất khẩu nông sản chưa đáp ứng được yêu cầu trong điều kiện tự do hóa thương mại, đặc biệt là khâu marketing, dự tính dự báo thị trường. Mối liên kết kinh tế giữa các khâu sản xuất - chế biến - xuất khẩu, giữa khâu cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra, giữa khâu kỹ thuật với khâu kinh tế... chưa thiết lập được một cách vững chắc để đảm bảo sự ổn định về số lượng và chất lượng cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh hàng nông sản xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường. Thứ năm: Tuy chủng loại hàng hóa xuất khẩu của ta đa dạng hơn nhưng nhìn chung thì diện mặt hàng vẫn còn khá đơn điệu, chưa có sự thay đổi đột biến về chủng loại, về chất lượng, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào một vài mặt hàng chủ lực, truyền thống như gạo, cà phê, cao su, hải sản mà phần lớn chúng đều tiềm ẩn nguy cơ tăng trưởng chậm dần do gặp phải những hạn chế mang tính cơ cấu như diện tích có hạn, năng suất có hạn, khả năng khai thác có hạn và khả năng cạnh tranh ngày càng giảm dần. Thứ sáu: Bộ máy quản lý hành chính Nhà nước vẫn còn quan liêu, trì trệ, chưa thông thoáng và bảo thủ đã làm nản lòng các nhà đầu tư kinh doanh trong và ngoài nước và làm tăng giá thành sản xuất và giá thành sản phẩm xuất nhập khẩu. Do vậy, lợi thế tiềm năng không thể phát huy hết được. Thứ bảy: Trong quá trình tự do hóa thương mại, một số doanh nghiệp kinh doanh hàng nông, lâm, thủy sản làm ăn thua lỗ, không có khả năng cạnh tranh sẽ bị phá sản theo quy luật. Điều bất lợi này Việt Nam cũng phải chấp nhận một cách tự nhiên, bình thường theo vận hành của quy luật kinh tế thị trường. Một số mặt hàng nông sản tiêu thụ nội địa trong nhiều năm qua sẽ bị cạnh tranh và giảm dần hoặc mất thị trường ngay trên quê hương mình. Điều đó cũng dễ hiểu và chúng ta phải tiếp nhận nó như một việc bình thường, không phải chỉ đối với nước ta mà đối với tất cả các nước khác. Nhưng trước mắt, điều bất lợi này sẽ gây ra những tác động tiêu cực tạm thời cả trên lĩnh vực kinh tế - xã hội và chính trị. Những bất lợi phân tích trên đây phần lớn do nguyên nhân chủ quan gây ra nên có thể khắc phục được trong tương lai gần nếu chúng ta có quyết tâm và có các giải pháp kịp thời, đúng đắn. Nếu khắc phục tốt thì những bất lợi này có thể lại trở thành các lợi thế tiềm ẩn của hàng hóa nông sản xuất khẩu của nước ta nói riêng và cho tất các loại nông sản phẩm khác nói chung trong bối cảnh tự do hoá thương mại toàn cầu. Tóm lại, xét về tổng thể, hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam tuy đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ và có nhiều lợi thế cần được khai thác, nhưng vẫn còn nhiều tồn tại và bất lợi. Những tồn tại và bất lợi này đều có sự liên quan chặt chẽ với nhau, vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của nhau, đòi hỏi phải được xử lý một cách dứt điểm, đồng bộ và toàn diện. Nền nông nghiệp Việt Nam đang trên đà phát triển và hòa nhập vào xu thế chung của nông nghiệp các nước trong khu vực và toàn cầu, tuy nhiên tiến trình này về mức độ và hiệu quả không chỉ phụ thuộc vào bản thân sự cố gắng của phía Việt Nam, mà còn phụ thuộc vào xu thế chung của thị trường hàng hóa nông sản thế giới. Trong định hướng phát triển nông nghiệp của mình vấn đề quan trọng được đặt ra là khả năng thực sự về mức độ đáp ứng của sản xuất - xuất khẩu đối với nhu cầu thế giới đến đâu, không chỉ về số lượng mà còn yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, đẹp về hình thức, phong phú và đa dạng về chủng loại và giá cả hợp lý nhằm tăng sức hấp dẫn đối với người tiêu dùng. Do vậy, nâng cao khả năng sản xuất, phát huy các lợi thế cạnh tranh của nông sản hàng hóa Việt Nam trên thị trường là vấn đề cốt lõi trong chiến lược phát triển nông nghiệp hướng ra xuất khẩu của Việt Nam, trước hết có thể tập trung vào các mặt hàng nông sản chủ yếu có nhiều lợi thế nhất. 1.5. Kinh nghiệm xuất khẩu nông thủy sản hàng hóa của Thái Lan sang Trung Quốc Giữa năm 2003, Thái Lan và Trung Quốc đã ký một bản thỏa thuận đẩy nhanh việc thực hiện EHP đối với hàng rau quả (nằm trong chương 7 và 8 của Biểu thuế xuất nhập khẩu). Theo thỏa thuận này, Trung Quốc và Thái Lan cắt giảm thuế quan đối với hàng rau quả xuống còn 0% kể từ ngày 1-10-2003 Sau đó, Thái Lan và Trung Quốc đã thống nhất việc tăng số lượng các mặt hàng cắt giảm thuế xuống còn 0% theo chương trình thu hoạch sớm của FTA Thái Lan-Trung Quốc sau khi chính thức thực hiện cắt giảm thuế quan đối với nông thủy sản từ 1/10/2003. Vì vậy, hàng nông thủy sản của Thái Lan bước đầu đã có lợi thế so với Việt Nam, đến khi thuế suất giảm xuống còn 0% cho hàng nông thủy sản Việt Nam vào năm 2006 thì hàng Thái Lan đã tràn ngập và có chỗ đứng vững chắc trên thị trường Trung Quốc.   Cuối năm 2003, Phó Thủ tướng Thái Lan Somkid đã dẫn một đoàn doanh nghiệp tới các đặc khu kinh tế ở phía Đông và Tây Trung Quốc để xúc tiến việc thâm nhập sản phẩm rau quả vào thị trường này. Theo đó, nước này muốn thực thi các thoả thuận tự do thương mại vùng với Trung Quốc về các mặt hàng nông thủy sản. Hai bên cũng đã ký thoả thuận tiêu chuẩn hoá về sản phẩm nông nghiệp, theo đó phía doanh nghiệp Thái Lan cam kết cung ứng hàng chất lượng cao thường xuyên cho Trung Quốc nhờ tiến trình công nghệ hoá sản phẩm. Để hàng tới các vùng phía Tây Trung Quốc có sức cạnh tranh hơn hàng Việt Nam và Myanmar, phía Thái Lan đã xây dựng, cải tạo tuyến đường thủy trên sông Mê Kông, nhờ đó giảm được chi phí vận chuyển so với vận tải đường bộ, Thái Lan cũng đã nghiên cứu phương án chuyên chở sản phẩm không chỉ bằng đường thuỷ mà bằng cả đường hàng không. Phía hàng không Thái Lan cũng đã có quyết định giao cho tư nhân tự đảm nhận vai trò chuyên chở hàng. Như vậy, các hình thức vận chuyển hàng nông thủy sản xuất khẩu của Thái Lan sang thị trường Trung Quốc rất linh hoạt, đáp ứng mọi yêu cầu vận chuyển các loại hàng hóa: mặt hàng tươi sống có thể vận chuyển nhanh chóng qua đường hàng không, còn những mặt hàng bảo quản lâu ngày có thể vận chuyển qua đường bộ và đường thủy. Trong khi đó, hình thức vận chuyển chủ yếu của các nhà xuất khẩu nông thủy sản Việt Nam chủ yếu vẫn là đường bộ, chi phí cao, không chủ động trong việc giao hàng. Về công tác xúc tiến xuất khẩu, tìm thị trường mới, Chính phủ Thái Lan đã có những hoạt động mạnh mẽ, quyết liệt, khẩn trương. Ngay từ cuối năm 2003, Thái Lan đã triệu tập các tham tán thương mại (ở 54 nước) hoạch định chiến lược xuất khẩu tới sáu khu vực trọng yếu là Mỹ La-tinh, châu Phi, Ấn Độ, Trung Đông, Đông Âu và Trung Quốc. Các tham tán thương mại phải liệt kê cho được 10 sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu lớn ở các thị trường cũ và mới. Thủ tướng Thái Lan ông Thasksin Shinawatra đã đưa ra định hướng xuất khẩu là nhắm vào thị trường sơ khai đông dân và đối phó với rào cản phi thức thuế quan đang bùng phát, yêu cầu phải kiểm soát chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn và chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Cục Xuất khẩu Thái Lan còn hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân chi phí đi nước ngoài ký kết các hợp đồng thương mại, nhất là các thị trường trọng yếu dưới hai dạng hỗ trợ tham dự hội chợ quốc tế ở nước ngoài và tổ chức khảo sát thị trường. Đặc biệt, Thái Lan rất coi trọng công tác xúc tiến xuất khẩu qua hệ thống câu lạc bộ doanh nghiệp. Thí dụ: Câu lạc bộ doanh nghiệp ngành thực phẩm có khoảng 100 thành viên xác định chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế. Họ lên kế hoạch lập các trung tâm bán hàng tại Trung Quốc, Ấn Độ và Trung Đông, đồng thời đã trực tiếp bán hàng tại Vân Nam, Trung Quốc. Họ đã lập hệ thống kho hàng ở Chiang Rai, quận nằm sát Trung Quốc, và sang năm nay xây kho hàng tại Vân Nam. Vấn đề họ lo giải quyết là hậu cần tại chỗ để giảm phí vận chuyển, hoặc chung nhau mua nguyên liệu để chế biến và bán tại chỗ thì có lợi hơn. Về hỗ trợ sản xuất, Chính phủ Thái Lan đã thông qua kế hoạch thành lập công ty liên doanh nhằm bổ sung nguồn vốn và hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi. Công ty này có chức năng hỗ trợ nông dân về tài chính trong quá trình canh tác, chăn nuôi, quản lý kinh doanh sản xuất và tiếp thị. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC DƯỚI LỘ TRÌNH THỰC HIỆN CỦA CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM 2.1. Tình hình xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang Trung Quốc 2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu Trong giai đoạn 2000 – 2005, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc có xu hướng giảm xuống, không ổn định. Mặc dù chương trình EHP được mong đợi sẽ thúc đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông thủy sản nhưng thực tế tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này so với trước khi thực hiện EHP (trước 2004) tăng không đáng kể, tuy chưa đạt được mức xuất khẩu cao nhất vào năm 2001 (436,429 triệu USD) nhưng có dấu hiệu phục hồi so với mức thấp nhất vào năm 2003 (218,372 triệu USD). Kim ngạch hiện đang ổn định ở mức khoảng 260 triệu USD trong 2 năm 2004 và 2005 nhưng nhìn chung vẫn thấp hơn mức trung bình giai đoạn 2000-2005 là hơn 311 triệu USD.(Bảng 2.1 và Biểu đồ 2.1) Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Kim ngạch xuất khẩu nông thủy sản sang Trung Quốc 413.161 436.429 286.094 218.372 262.262 255.528 Tổng kim ngạch xuất khẩu nông thuỷ sản 1.902.336 2.354.987 2.504.973 2.754.608 3.008.940 3.471.000 Tỷ lệ (%) 21,72 18,53 11,42 7,93 8,72 7,36 Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Trung Quốc 1.536.391 1.417.415 1.518.330 1.883.112 2.735.496 3.256.000 Tỷ lệ (%) 26,89 30,79 18,84 11,60 9,59 7,85 Nguồn: trang thông tin thương mại – Bộ Thương mại Biểu đồ 2.1: Sự biến động của hàng nông thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc Nguồn: trang thông tin thương mại – Bộ Thương mại Tác động của EHP dường như không lớn nếu xét tới tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc của nông thủy sản Việt Nam, giảm tới gần 3 lần, từ 21,72% vào năm 2000 xuống còn 7,36 % vào năm 2005. Lý do dễ thấy nhất là tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này liên tục tăng qua các năm nhưng kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc lại không tăng, thậm chí năm 2004 còn giảm so với 2003 điển hình như mặt hàng thủy sản: kim ngạch xuất khẩu các năm 2004 và 2005 tương ứng 48 và 60 triệu USD, giảm đi rất nhiều so với năm cao nhất là 2001 (243,5 triệu USD). Điều đó chứng tỏ EHP chưa thực sự hấp dẫn các nhà xuất khẩu nông thủy sản của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc hơn các thị trường khác như Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU (Bảng 2.1) Cũng như trên, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nông thủy sản trong xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc ngày càng giảm, từ 26,89% vào năm 2000 xuống còn 7,85% vào năm 2005, nó cho thấy mặc dù nằm trong EHP, được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi hơn nhưng nông thủy sản xuất khẩu lại không tăng trưởng nhanh hơn các mặt hàng không được hưởng ưu đãi khác. (Bảng 2.1) Có nhiều nguyên nhân khác nhau cho việc suy giảm kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông thủy sản như giá xuất khẩu giảm, cơ cấu xuất khẩu của ta có sự thay đổi và Trung Quốc thay đổi chính sách thuế trong quá trình thực hiện cam kết WTO. 2.1.2. Cơ cấu xuất khẩu Trong cơ cấu hàng nông thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu gồm: thủy sản, rau quả, hạt điều, sữa và các sản phẩm sữa. Dưới đây là kim ngạch xuất khẩu và tỷ trọng của các mặt hàng trên trong cơ cấu xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc: Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu thuộc EHP sang thị trường Trung Quốc (đơn vị: 1.000 USD) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Hàng thủy sản 238.112 243.512 170.657 78.295 48.161 60.201 Hạt điều 54.783 28.840 37.546 53.494 76.540 96.625 Rau, củ, quả 120.266 164.070 77.873 86.578 137.560 98.700 Sữa và sản phẩm sữa 0 7 18 5 1 2 Tổng 413.161 436.429 286.094 218.372 262.262 255.528 Nguồn: trang thông tin thương mại – Bộ Thương mại Qua bảng trên có thể thấy kim ngạch xuất khẩu hàng thủy sản liên tục giảm từ năm 2000 đến 2004, tuy nhiên đã phục hồi đáng kể từ 2005; mặt hàng rau quả biến động bất thường, ngay sau khi đạt được mức cao nhất vào năm 2001 thì lại tụt xuống mức thấp nhất vào năm sau đó; duy chỉ có hạt điều tăng liên tục qua các năm. Với những biến động như trên, tỷ trọng xuất khẩu của hạt điều và rau quả đang dần chiếm ưu thế với tỷ trọng từng mặt hàng đạt gần 40%, trong khi thủy sản đánh mất vai trò chủ đạo khi giảm từ mức gần 60% vào năm 2000-2002 xuống còn trên 25% vào giai đoạn 2004-2005. Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu thuộc EHP sang thị trường Trung Quốc (đơn vị: %) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Hàng thủy sản 57,63 55,80 59,65 35,85 18,36 25,56 Hạt điều 13,26 6,61 13,12 24,50 29,18 37,81 Rau, củ, quả 29,11 37,59 17,22 39,65 52,46 38,63 Sữa và sản phẩm sữa 0 0 0.01 0 0 0 Tổng 100 100 100 100 100 100 Nguồn: trang thông tin thương mại – Bộ Thương mại Trong các mặt hàng nông thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc thì thủy sản, rau quả và điều là những mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất. Tình hình xuất khẩu thủy sản Theo Bộ Thủy sản, kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc liên tục giảm mặc dù EHP bắt đầu có hiệu lực. Trung Quốc là thị trường tiềm năng, thủy sản Việt Nam đã rất quan tâm đến quốc gia láng giềng khổng lồ này thông qua việc tham dự

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9732.doc
Tài liệu liên quan