Đề tài Thực trạng và một số biện pháp để tiền hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước

Lời mở đầu:

ChươngI: Một số nhận thức chung về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước .

 I.Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước một nội dung tất yếu của cải cách kinh tế ở Việt Nam.

II.Vai trò của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước .

III.Một số vấn đề về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước

 1. Cổ phần hoá nhằm góp phần sắp xếp và nâng coa hiệu quả kinh tế- xã hội khu vực king tế nhà nước

 2. Các yêu cầu của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước .

 3. Điều kiện lựa chọn doanh nghiệp cổ phần hoá .

 4. Các bước cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước

IV.Thực trạng và một số biện pháp để tiền hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước .

 1. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước

 2. Một sồ vấn đề đặt ra

 3. Một sồ biện pháp.

ChươngII: Chuẩn bị cổ phần hoà phân xưởng sản xuất cơ khí của Viện thiết kế máy năng lượng và mỏ

I.Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của Viện thiết kế máy năng lượng và mỏ

1. Lịch sử hình thành và phát triển của Viện thiết kế máy năng lượng và mỏ.

 2. Đặc điểm kỷ thuật của sưởng sản xuất cơ khí.

 3. Thực trạng hoạt động kinh doanh của Viện .

II.Một số điều kiện cần thiết để cổ phần hoá

III. Nội dung các công việc chuẩn bị cổ phần hoá

 1. Về mặt tư tưởng.

 2. Tổ chức phân định phạm vi cổ phần hoá và đánh giá tài sản

 3. Phần tài sản của viện và đối tượng tham gia và công ty cổ phần

 4. Xử lý tài sản đưa vào công ty cổ phần và xác định mạnh giá cổ phiêu

IV.Phân công trách nhiệm và các bước tổ chức thực hiện cổ phần hoá phân xưởng sản xuất cơ khí

 1 Trách nhiệm của lảnh đạo Viên thiết kế máy năng lượng và mỏ

 2. Trách nhiệm của ban chỉ đạo cổ phần hoá

 3. Các bước đã thực hiện đượcvề cổ phần hoá ở phân xưởng cơ khí

 

doc31 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1204 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và một số biện pháp để tiền hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ần hoá ( theo quyết định 548/TTg ngày 3/8/1996 của Thủ tướng Chính phủ ). Nghiên cứu các điều kiện để lựa chọn doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp đưa ra cổ phần hoá. Thống nhất với các ngành quyết định doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp cổ phần hoá ( lập danh sách theo mẫu quy định gửi Ban chỉ đạo TW cổ phần hoá và Bộ tài chính ). Danh sách các loại doanh nghiệp cần chia làm 2 loại: -Loại có vốn Nhà nước từ 3 tỷ đồng trở xuống; -Loại có vốn trên 3 tỷ đồng theo quyết toán tại thời điểm cổ phần hoá. Các doanh nghiệp được lựa chọn cổ phần hoá phair đảm bảo những điều kiện quy định tại điều 7, Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 của Chính phủ. Thông báo cho từng doanh nghiệp được lựa chọn cổ phần hoá. Ra quyết định thành lập Ban cổ phần hoá tại doanh nghiệp và thực hiện tập huấn cho Ban cổ phần hoá doanh nghiệp và các cán bộ liên quan. ở các doanh nghiệp được lựa chọn cổ phần hoá phải thực hiện các công việc sau: 1)Ban cổ phần hoá tại doanh nghiệp phải tiến hành các công việc: *Tuyên truyền, phổ biến giải thích chủ trương, chính sách về cổ phần hoá. *Chuẩn bị các tài liệu liên quan đến kinh tế – tài chính của doanh nghiệp . *Lập dự toán chi phí cho quy trình cổ phần hoá . *Kiểm kê tài sản, vật tư, tiền vốn, công nợ ...của doanh nghiệp. 2)Nhiệm vụ của Giám đốc doanh nghiệp: *Ký hợp đồng với cơ quan kiểm toán hợp pháp để kiểm toán kết quả hoạt động kinh doanh. *Tổ chức thanh toán công nợ, xử lý vật tư, tài sản thuộc thẩm quyền. *Đăng ký kho bạc mở tài khoản nộp tiền bán cổ phần hoá doanh nghiệp. *Mở sổ đăng ký các cổ đông mua cổ phiếu. Đăng ký mua ấn chỉ tại kho bạc Nhà nước. Bước 2: Xây dựng phương án cổ phần hoá doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp. Các công việc của Bộ chủ quản, UBND Tỉnh, thành phố trực thuộc TW, Hội đồng quản trị, Tổng công ty 91 có nhiệm vụ: 1. Chỉ đạo ban cổ phần hoá tại doanh nghiệp tiến hành các công việc nội bộ doanh nghiệp. 2.Chủ trì, phối hợp với các ngành có liên quan để giải quyết những vướng mắc. 3.Tiến hành thẩm định giá trị doanh nghiệp do ban cổ phần hoá tại doanh nghiệp trình bày và ra văn bản thoả thuận giá trị doanh nghiệp. Bộ tài chính ( hệ thống Tổng cục quản lý vốn và tài sản ) 1.Kết hợp với các cơ quan có liên quan để hướng dẫn doanh nghiệp giải quyết các công việc về ký hợp đồng với cơ quan kiểm toán và xử lý tài chính vượt quá quyền hạn của doanh nghiệp 2.Ban hành các văn bản định giá thực tế của doanh nghiệp. C.Ban cổ phần hoá tại doanh nghiệp cần làm các công việc: 1.Lập phương án ( dự kiến ) liên quan đến cổ phần hoá. 2.Phổ biến công khai phương án để người lao động thảo luận và thống nhất thực hiện. 3.Xác định giá trị doanh nghiệp để báo cáo các cấp, các ngành theo quy định để xét duyệt. 4.Lập phương án để cổ phần hoá. 5.Tổ chức Đại hội CNVC để lấy ý kiến về phương án cổ phần hoá. 6.Hoàn chỉnh phương án. 7.Trình cơ quan có thẩm quyền xét duyệt phương án. 8.Dự thảo và trình xin quyết định về điều lệ tổ chức hoạt động của công ty cổ phần. Bước 3: Duyệt và triển khai thực hiện phương án cổ phần hoá. A.Nhiệm vụ của Bộ và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW 1.Xét duyệt phương án cổ phần hoá những doanh nghiệp có vốn Nhà nước dưới 3 tỷ. Đối với các doanh nghiệp có vốn trên 3 tỷ, báo cáo lên cấp trên duyệt. 2.Thảo luận với hệ thống Tổng cục quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp về nhân sự tham gia Hội đồng quanr trị của công ty cổ phần (có lưu ý riêng cho doanh nghiệp là thành viên Tổng công ty 90, trích thông tư 90/TTg ngày 4/3/1994 ). 3.Chỉ đạo Ban cổ phần hoá tại doanh nghiệp tổ chức Đại hội cổ đông để bầu Hội đồng quản trị và thông qua điều lệ của công ty. 4.Ban hành quyết định chuẩn doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần theo thẩm quyền; B.Hội đồng quản trị của Tổng công ty 91: Có các nhiệm vụ: 1.Báo cáo phương án cổ phần hoá lên cấp trên phê duyệt theo quy định. 2.Thực hiện các nhiệm vụ như các Bộ quản lý nêu ở mục 3, mục A, điểm 1,3. 3.Trình Thủ tướng Chính phủ chuyển doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp theo công ty cổ phần. C.Bộ tài chính ( hệ thống Tổng cục quản lý vốn và tài sản ) 1.Bán tờ cổ phiếu cho cổ đông theo đúng quy định. 2.Ra quyết định chuyển tài sản, vốn của doanh nghiệp Nhà nước thành tài sản, vốn của công ty cổ phần. D.Ban cổ phần hoá tại doanh nghiệp: 1.Thông báo công khai tình hình tài chính trước cổ phần hoá; 2.Thông báo việc bán cổ phần, tổ chức cho các cổ đông đăng ký mua cổ phiếu. 3.Tổ chức bán cổ phiếu và nộp tiền vào Kho bạc Nhà nước; 4.Báo cáo tình hình bán cổ phiếu theo phương án được duyệt; 5.Dự kiến nhân sự và xin ý kiến nhân sự tham gia Hội đồng quản trị; 6.Triệu tập và tổ chức Đại hội lần 1 các cổ đông; Bước 4: Ra mắt công ty cổ phần, đăng ký kinh doanh: 1.Giám đốc, Kế toán trưởng doanh nghiệp bàn giao cho Hội đồng quản trị Công ty cổ phần theo đúng quy định; 2.Hội đồng quản trị hoàn tất những công việc còn lại: -Xin khắc dấu mới, hộp dấu cũ theo quy định của Bộ nội vụ; -Làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản; -Tổ chức ra mắt công ty, bố cáo thành lập Công ty cổ phần theo quy định; 3.Đăng ký kinh doanh theo đúng quy định tại điều 16, NĐ 28/CP ngày 7/5/1996 của Thủ tướng Chính phủ. Trên đây là những công việc chính trong quy trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Việc thực hiện từng công việc đó không đơn giản, căn cứ theo những hướng dẫn cụ thể của Nhà nước về cổ phần hoá để tiến hành thuận lợi. IV. Thực trạng và một số biện pháp để tiến hành cổ phần hoá Nhà nước. 1.Thực trạng của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Nhận rõ công ty cổ phần là một trong những hình thức kinh tế là phương thức kinh doanh phù hợp có khả năng giúp một số lơn doanh nghiệp Nhà nước trước xây dựng “ quá tầm “ - khắc phục những lúng túng, bất cập khi chuyển sang cơ chế thị trường, Đảng và Chính phủ đã quyết định triển khai thực hiện cổ phần hoá ở một số đơn vị. Đến ngày 31/12/1998 đã có 116 doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần, có 19 doanh nghiệp TW, 90 doanh nghiệp địa phương và 7 doanh nghiệp thuộc Tổng công ty 91. Chỉ trong 6 tháng ( 7 - 12 /1998 ) đã cổ phần hoá được 86 doanh nghiệp Nhà nước. Kết quả hoạt động của 16 doanh nghiệp đã cổ phần hoá hơn 1 năm cho thấy tác dụng tích cực về tăng động lực tại doanh nghiệp và khả năng huy động thêm nguồn vốn trong xã hội cho yêu cầu phát triển doanh nghiệp hoặc đổi mới cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước. So với trước khi cổ phần hoá thì các chỉ tiêu kinh tế cơ bản đều tăng: vốn tăng 183 %, doanh thu tăng 133,5 %, lợi nhuận sau thuế tăng 31%, các khoản nộp Ngân sách tăng 153,5 %, lao động tăng 9 %, thu nhập bình quân tăng 29 % và giá trị cổ tức tăng bình quân 2,6 % tháng, cao gấp 3 lần lãi suất tiền gửi Ngân hàng, có công ty đạt 50%/tháng ( như nước mắm Kiên Giang). Riêng công ty đại lý Liên hiệp vận chuyển đã tăng vốn gấp 11 lần, tăng doanh thu gấp 10 lần, lao động gấp 4 lần, thu nhập bình quân tăng 4 lần (chưa kể thu nhập từ cổ tức). Công ty cơ điện, Công ty Việt Phong cũng có kết quả tương tự. Bốn doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá gặp nhiều khó khăn về việc làm và nợ ngân sách, nhưng năm nay có nhiều tiến bộ hơn trước. Tuy thu nhập chưa cao nhưng có đủ việc làm và tương đối ổn định nên người lao động trong các doanh nghiệp này đều yên tâm. Đó là công ty xe khách Hải Phòng, công ty đóng tàu thuyền Bình Định, công ty giày Hiệp An, công ty đồ mộc Hà Nội. Có thể kết luận rằng không phải cổ phần hoá tự nó sẽ có hiệu quả trước biến động của thị trường; song trong một môi trường như nhau thì doanh nghiệp theo mô hình của công ty cổ phần hoá hoạt động tốt hơn hoạc chí its cũng không kém hơn doanh nghiệp Nhà nước, tăng thực lực của Nhà nước tại doanh nghiệp, đồng thời cũng duy trì được vai trò chỉ đạo của Nhà nước. Một số vấn đề đặt ra: Kết quả đạt được là sự cố gắng phấn đấu của các doanh nghiệp, là một thành quả lớn trong hoạt đọng kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước thích ứng với cơ chế thị trường. Tuy vậy quá trình cổ phần hoá đã được đặt ra từ năm 1992 mà nay mới chỉ tiến hành được 16 doanh nghiệp là quá chậm chạp. Nguyên nhân của sự chậm chạp đó là: a)Lãnh đạo các Bộ, các địa phương còn “ quá thận trọng”. Với suy nghĩ việc triển khai cổ phần hoá là hết sức mới mẻ và rất khó khăn, phức tạp, không cân nhắc cẩn thận sẽ dẫn tới tình trạng đi chệch hướng, từ dó vịn vào cớ “ chậm mà chắc” nên thiếu tích cực chủ động và quyết tâm thực hiện. Đồng thời cũng có tư tưởng chờ đợi môi trường pháp lý và cơ chế chính sách vĩ mô hoàn thiện hơn. Việc chỉ đạo của TW cũng thiếu kiên quyết, thiếu thường xuyên và không tập trung nên không chỉ ở các địa phương có tình trạng ỳ ạch mà các thành phố có nhiều doanh nghiệp Nhà nước như Đà Nẵng, Vũng Tàu, Hạ Long chưa đi vào chỉ đạo triển khai cổ phần hoá. b)Chủ trương thực hiện cổ phần hoá tuy đã có những văn bản pháp quy thể chế hoá, cũng đã có những chỉ thị, nghị định bổ sung như chỉ thị 81/TTg ngày 4/3/1993, nghị định 28/CP ngày 7/5/1996, nhưng lại thiếu hướng dẫn và cũng còn nhiều điều chưa phù hợp. Chẳng hạn chưa có tiêu chuẩn định rõ thế nào là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp nào thuộc diện nắm cổ phần 100 %, thời điểm thẩm định, trách nhiệm các cơ quan hướng dẫn thực hiện. c)Về mặt tâm lý, cán bộ, công nhân, nhân dân cũng còn nhiều băn khoăn, lo ngại, chưa thật sự yên tâm. Cán bộ lãnh đạo các doanh nghiệp lo lắng khi chuyển sang doanh nghiệp cổ phần thì địa vị, quyền lợi của mình có được bảo đảm không. Nhiều cán bộ rất ngại chuyển vì sợ sẽ bị vất vả hơn, căng thẳng hơn, trách nhiệm nặng nề hơn, phải nỗ lực hơn rất nhiều mới bảo đảm được toàn vốn, giữ được nhịp độ phát triển của doanh nghiệp. Một số cán bộ cơ quan quản lý ngành cũng lo mất quyền nắm và chi phối doanh nghiệp, lo bị giảm sút vị trí. Công nhân trong doanh nghiệp thì băn khoăn về chức năng đảm nhiệm, về trình độ tay nghề, thậm chí sợ mất chỗ làm đồng thời lo lắng về thu nhập giảm, băn khoăn không biết có làm chủ được không, làm chủ như thế nào hay lại biến thành người làm thuê, người làm không còn thuộc “ biên chế ” Nhà nước dễ bị thiệt thòi. Nhân dân trải qua thời kỳ sống trong môi trường bao cấp, chưa quen sử dụng đồng vốn kinh doanh. Chuyển qua cơ chế thị trường lại bị choáng bởi những cách làm ăn chụp giật, đặc biệt là cuộc đỗ vỡ của các quỹ tín dụng trong những năm đầu thập kỷ 1990 mà hậu quả đến nay vẫn chưa giải quyết xong, đã làm mất lòng tin vào việc giao vốn cho người khác. Việc giải quyết hậu quả cho cuộc đổ vỡ tín dụng không triệt để, quyền lợi của khách hàng gửi tiền không được bảo vệ còn làm nảy sinh tâm trạng nghi ngờ cả khả năng pháp luật bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân. Tình trạng tâm lý này gây trở ngại rất lớn cho việc thực thi cổ phần hoá nên cần chú ý tích cực khai thông. Nhiều doanh nghiệp tư nhân hiện nay cũng không ủng hộ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Các chủ tư nhân này vốn có những lợi ích bám vào quan hệ làm ăn, đầu tư liên doanh với doanh nghiệp Nhà nước - thực ra là lợi dụng các sơ hở, các yếu kém để móc ruột các doanh nghiệp Nhà nước - tất nhiên sẽ lo mất phần kiếm chác được trước đây “ thật thuận lợi ” và “ dễ dàng “. d)Quy trình lập và xét duyệt phương án cổ phần hoá chưa rõ ràng, chưa ổn định. Có trường hợp chỉ một vài tháng là hoàn tất việc lập và duyệt phương án, có trường hợp tới nữa năm hoặc có trường hợp đã bỏ nhiều công sức, thời gian để hoàn tất phương án, nhưng rồi lại không được duyệt. Thủ tục để chuyển doanh nghiệp Nhà nước sang cổ phần hoá cũng còn phiền hà, chủ yếu là trong thẩm định giá trị doanh nghiệp và việc xác định quyền sở hữu tài sản của công ty không khống chế thời gian thẩm định và không định rõ cơ quan nào có trách nhiệm xác nhận quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp và Nhà nước đã chuyển nhượng. 3.Một số biện pháp: Để đẩy nhanh quá trình sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới cần nghiên cứu và ban hành môtj số chính sách và thực hiện một số biện pháp sau: Chính sách hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Chính sách xử lý nợ nần. Xác định quyền và trách nhiệm của người đại diện chủ nợ, đại diện người lao động hoặc đại diện pháp nhân của doanh nghiệp đưa yêu cầu phá sản. Sở dĩ cho đến nay số doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khá nhiều nhưng mới có số nhỏ trong đó thực hiện quy định phá sản. Nguyên nhân chủ yếu là không ai chịu đứng ra nộp đơn lên toà án kinh tế đề nghị cho phá sản theo luật. Quy chế giao, bán, khoán, cho thuê những doanh nghiệp nhỏ. Ban hành nguyên tắc công ty hoá doanh nghiệp 100% sở hữu Nhà nước. Kết hợp sắp xếp theo ngành và địa phương, đặc biệt là ngành khai thác thuỷ nông, ngành lâm nghiệp, xây dựng và ngành cơ khí. Trong lĩnh vực cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đang phát sinh một số vấn đề nổi cộm cần được tháo gỡ để việc cổ phần hoá diễn ra theo đúng tiến độ và mục đích đề ra. Đó là: Sửa đổi quy định giám đốc, kế toán trưởng không được mua quá cổ phần ưu đãi bình quân của doanh nghiệp nhằm bảo đảm công tác trong doanh nghiệp và khuyến khích vai trò tích cực của giám đốc trong công tác cổ phần hoá. Quy định 6 lại tiêu chí người lao động nghèo được mua cổ phần trả chậm cho phù hợp. Đồng thời nghiên cứu điều chỉnh tỷ lệ phần vốn của Nhà nước dành cho cổ phần ưu đãi cho phù hợp với tình hình vốn và lao động của từng loại hình doanh nghiệp. Phân cấp cho UBND tỉnh và thành phố trực thuộc TW và cán bộ được quyền căn cứ vào ý kiến của cục quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp để quyết định những trường hợp đánh giá lại giá trị doanh nghiệp thấp hơn 10% giá trên sổ sách đối với những doanh nghiệp có vốn Nhà nước dưới 10 tỷ đồng. Ban hành quy chế thí điểm bán cổ phần cho người nước ngoài và lựa chọn 4 đến 5 doanh nghiệp thí điểm bán cổ phần cho người nước ngoài trong năm 1999. Cán bộ, địa phương, Tổng công ty chưa có doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá cần tổ chức tham quan học tập kinh nghiệm những nơi đã làm có kết quả để vận động doanh nghiệp và các cơ quan liên quan tích cực hưởng ứng chủ trương này. Chương II: Chuẩn bị cổ phần hoá phân xưởng sản xuất cơ khí của Viện thiết kế máy năng lượng và mỏ. I.Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của Viện. 1.Lịch sử hình thành và phát triển của Viện thiết kế máy năng lượng và mỏ. Tháng 6 /1981 trước yêu cầu phát triển cơ khí của ngành than Bộ mỏ và than đã quyết định thành lập Viện maý mỏ trực thuộc Bộ - đây là tổ chức tiền thân của Viện thiết kế máy năng lượng và mỏ ngày nay. Khi mới ra đời hoạt động chủ yếu của Viện là tiến hành song song 2 nhiệm vụ: Nghiên cứu khoa học kỹ thuật cơ khí và thiết kế các loại máy móc, thiết bị, dụng cụ, công trình cơ khí phục vụ cho sản xuất ngành năng lượng và mỏ. Tháng 10/1988 thực hiện chủ trương giảm bớt các đầu mối trực thuộc Bộ, Viện máy mỏ chuyển sang trực thuộc công ty cơ khí mỏ thuộc Bộ mỏ và than. Tháng 10/1995 theo quyết định của Bộ năng lượng Viện máy mỏ được tổ chức lại và lấy tên là Viện thiết kế máy năng lượng và mỏ. Tới nay Viện thiết kế máy năng lượng và mỏ là một đơn vị trực thuộc Tổng công ty cơ khí năng lượng và mỏ, thuộc Bộ công nghiệp. Dù đổi tên, đổi đơn vị chủ quan, nhưng từ khi ra đời tới nay Viện thiết kế máy năng lượng và mỏ vẫn có tư cách pháp nhân độc lập, tiến hành song song với 2 nhiệm vụ: nghiên cứu khoa học và thiết kế các sản phẩm cơ khí ngành điện than, chủ yếu là phục vụ cho ngành điện than. 2.Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của xưởng sản xuất cơ khí. Hiện nay Viện thiết kế máy năng lượng và mỏ có một xưởng cơ khí gồm nhiều phân xưởng trực thuộc quyền điều hành sản xuất của các phòng thiết kế. Theo phương án đổi mới tổ chức của Viện thì sẽ có một xưởng cơ khí ra đời trên cơ sở xưởng cơ khí hiện nay, về mặt máy móc, thiết bị và sản phẩm sẽ không có gì thay đổi, chỉ thay đổi cách thức quản lý và điều hành sản xuất. Theo hướng đó rồi đây xưởng cơ khí sẽ có một số phân xưởng riêng sản xuất các mặt hàng cơ khí độc lập theo các quy trình công nghệ và đòi hỏi kỹ thuật khác nhau. Việc cổ phần hoá sản xuất công nghiệp của Liên hiệp sẽ được tiến hành từng bước, bắt đầu từ xưởng cơ khí. Vì vậy cần làm rõ một số đặc điểm kinh tế – kỹ thuật của xưởng. a)Về mặt quy mô của xưởng có thể so sánh với doanh nghiệp Nhà nước hạng IV và hạng III, điều đó có thể thấy rõ qua bảng so sánh các chỉ tiêu sau đây: Bảng 1- Một số chỉ tiêu cơ bản trong xếp hạng doanh nghiệp sản xuất, sữa chữa sản phẩm cơ khí. Các chỉ tiêu Hạng III Hạng IV Xưởng cơ khí của Liên hiệp 1-Vốn sản xuất kinh doanh ( 1000đ) Dưới 1.000.000 Dưới 600.000 1.900.000 2-Trình độ công nghệ Cơ khí, bán tự động Cơ khí, bán tự động Cơ khí 100% 3-Số lao động sử dụng người Dưới 500 Dưới 300 150 4-Phạm vi hoạt động Trong 1 tỉnh hoặc 1 ngành Trong 1 tỉnh hoặc 1 ngành Toàn quốc Nguồn: Công văn số 03/TCNSĐT-TT ngày 1/3/1994 của Bộ công nghiệp nặng b)Sản phẩm của xưởng đa dạng, ổn định về chủng loại, mang tính truyền thống chuyên ngành, chẳng hạn: các thiết bị vận tải mỏ như máng cào, băng tai; các loại phụ tùng của nó; búa chèn; cột chống lò bằng kim loại; bột hợp kim BK8 để sản xuất mũi khoan xoay cầu, hoặc dao cắt kim loại... c)Công nghệ chế tạo các sản phẩm cơ khí khá ổn định, khi có sự thay đổi cần thiết nào đó thì xưởng thiết kế của Liên hiệp hoàn toàn có khả năng sửa chữa, cải tiến thiết kế và công nghệ sản xuất phục vụ cho các yêu cầu mới. Đòi hỏi kỹ thuật đối với các sản phẩm cơ khí của xưởng không cao về độ chính xác, nhưng đòi hỏi kết cấu chắc chắn, độ bền cao để phù hợp với điều kiện làm việc có va đập và ma sát lớn. d)Xưởng tổ chức sản xuất trên cơ sở các hợp đồng đã ký kết hoặc các đơn đặt hàng có đảm bảo, có nghĩa là đã hoạt động theo cơ chế thị trường. Đây là một đặc điểm khá quan trọng khác với các doanh nghiệp cơ khí hiện nay. Vì vậy có thể nói Liên hiệp hoàn toàn có khả năng chủ động với việc xác lập quy mô sản xuất của xưởng; việc xác định quy mô chỉ phụ thuộc vào các điều kiện cụ thể của Liên hiệp về vốn, nguồn nhân lực và khả năng mở rộng thị phần của các sản phẩm đó ( thực tế thị phần các sản phẩm cơ khí đối với ngành sản xuất năng lượng, mỏ còn khá lớn, sản xuất nội địa chưa đáp ứng được nhiều, nhất là những sản phẩm có đặc tính kỹ thuật nêu trên ) e)Đặc điểm kinh doanh sản phẩm cơ khí của Liên hiệp mang tính độc quyền khá rõ nét. Độc quyền về sản phẩm, Liên hiệp có thế mạnh mà không một đơn vị sản xuất nào cũng có được, đó là Liên hiệp có xưởng thiết kế đầu ngành có khả năng giải quyết hầu hết các vấn đề kỹ thuật của sản phẩm và công nghệ chế tạo với chất lượng cao và chi phí thấp. Độc quyền về giá sản phẩm, do có ưu thế về thiết kế nên về mặt hạch toán giá thành và giá bán sản phẩm Liên hiệp có khả năng chủ động bảo đảm cho sản xuất có lãi và cạnh tranh được với các đơn vị trong nước, nhất là với các sản phẩm nhập ngoại như của Trung Quốc 3.Thực trạng hoạt động kinh doanh của Viện: Như đã nói trên, hoạt động kinh doanh của Viện thiết kế máy năng lượng và mỏ từ khi thành lập đến nay đã trải qua nhiều biến động, thay đổi. Trước năm 1991 về cơ bản là thời kỳ bao cấp và khủng hoảng sau bao cấp. Từ năm 1991 đến năm 1995 là thời kỳ quả độ đổi mới dần để thích nghi được với cơ chế mới. Có thể coi từ năm 1996 đến năm 1998 là những năm hoạt động ổn định trong cơ chế mới và đật được những hiệu quả cao. Kết quả hoạt động của Viện trong những năm 1996-1998 như sau: STT Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1 Doanh số 9000000000 10000000000 11000000000 2 Lợi nhuận 48500000 50000000 55000000 3 Thu nhập BQ 1000000/n,th 1276000/n,th 1368000/n,th Nghiên cứu, khảo sát các hoạt động kinh doanh của Viện tôi nhận thấy hoạt động nghiên cứu của Viện có thế mạnh mà các đơn vị khác không có, nó cần được duy trì và phát triển. Muốn phát triển năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ của Viện không thể đơn thuần lấy hoạt đôngj nghiên cứu nuôi nghiên cứu mà phải biến chất xám đó thành sản phẩm, vì vậy cần phải tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh để biến các ý tưởng khoa học thành sản phẩm hàng hoá. Nhưng sản xuất kinh doanh, nhất là sản xuất cơ khí trong giai đoạn này là hết sức khó khăn, đòi hỏi phải jkhai thác được thế mạnh của hoạt động nghiên cứu phục vụ cho sản xuât. Do đó bài toán đặt ra ở đây là làm sao sử dụng triệt đẻ năng lực máy móc thiết bị và cơ sở vật chất hiện nay của Viện, tạo ra sản phẩm hàng hoá để hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu và chính các hoạt động nghiên cưú lại tạo điều kiện cho sản xuất phát triển với hiệu quả ngày càng cao. Trong tất cả mọi yếu kém, nhược điểm của Viện có thể nói điểm yếu của Viện là vấn đề nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn. Điểm yếu đương nhiên này phát sinh tất yếu ngay từ khi Viện buộc pahỉ chuyển từ cơ chế cũ sang coư ché mới và sẽ không có một giải pháp tiên tiến nào có thể khắc phục được, nếu không tạo nguồn vốn mới đủ mạnh kèm theo nó là một quyền lực tài chính đủ mạnh để cải tổ triệt để việc quản lý tài chính của Viện. Đây cũng là vấn đề tôi trăn trở mong muốn đem hiểu biết của mình để tìm ra một lời giải hợp lý có tính khả thi góp phần củng cố và phát triển Viện thiết kế máy năng lượng và mỏ. Vì vậy chúng tôi đi sâu nghiên cứu phương án cổ phần hoá phân xưởng sản xuất cơ khí của Viện nhằm giải quyết những mâu thuẫn đặt ra hiện nay, đó là: việc vừa thiếu vốn đầu tư để phát triển sản xuất vừa để một số lượng vốn TSCĐ khá lớn không được dùng vào sản xuất kinh doanh. Theo tôi nếu việc cổ phần hoá được tiến hành thắng lợi sẽ đem đến hiệu quả kinh tế- xã hội cao; một mặt tạo ra sản phẩm cho xã hội, khai thác hết tiềm năng sẵn có của Viện; mặt khác nâng cao đời sống, gắn chặt quyền lợi lâu dài cuả người lao động vào sự tồn tại và phát triển của Viện. Một số điều cần thiết để cổ phần hoá. Tính tới ngày 31/12/1996 Viện thiết kế năng lượng và mỏ quản lý khối tài sản giá trị xấp xỉ 2 tỷ đồng, trong đó có 1,2 tỷ trực tiếp phục vụ cho việc sản xuất các sản phẩm cơ khí ngành năng lượng và mỏ. Tình hình kinh doanh của Viện những năm qua đã được phân tích kỷ ở phần thứ nhất, để giúp cho Viện có điều kiện tồn tại và phát triển trong giai đoạn mới, cần phải sắp xếp lại tổ chức trên cơ sở đó tién hành cổ phần hoá một bộ phận của Viện, đó chính là phần sản xuất cơ khí hiện nay. Mục tiêu của Viện tiến hành cổ phần hoá cũng chính là những mục tiêu chung mà những quyết định của Nhà nước đã nêu, những đIều quan trọng nhất để thu hút thêm nguồn vốn của các thành phần kinh tế khác, đầu tư đẩy mạnh sản xuát cơ khí, cung cấp các máy móc phụ tùng cho ngành năng lượng và mỏ, vừa tạo nguồn tài chính để duy trì đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu của Viện. Thực tế của Viện hiện nay có đủ điều kiện để thực hiện việc cổ phần hoá từ cơ sở vật chất đến hướng sản xuất kinh doanh, đội ngũ lao động và thị phàn của nó trong nền kinh tế quốc doanh, cụ thể: Về ngành nghề và phương hướng kinh doanh: Công ty cổ phần được thành lập từ việc cổ phần hoá phân xưởng sản xuát cơ khí của Viện sẽ tiép tục sản xuất cơ khí, làm ra các sản phẩm máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất than và điện, các loại phụ tùng thay thế. Phương hướng phát triển làm mở rộng thị phần làm đáp ứng nhu cầu sản xuất năng lượng và mỏ về các loại máy móc, thiết bị phù hợp vơi trònh độ kỷ thuật công nghệ khai thác của nước ta trong vài thập kỷ tới. Cơ sở vật chất của Viện hiện nay có trụ sở giao dịch nằm ngay trên mặt đường Quốc lộ 6 từ Hà Nội lên Hoà Bình, có khu vực sản xuất cơ khí riêng với diện tích trên 5000m2 trong đó có hơn 1000m2 nhà xưởng. Vốn sản xuất cơ khí của Viện hiện nay có trên1,2 tỷ đồng với một giàn máy móc, thiét bị tương đương với một doanh nghiệp cơ khí hạng ba, hàng năm làm ra khối sản lượng sản phẩm có giá trị trên 10 tỷ đồng. Đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn đầu ngành về kỷ thuật, công nghệ và thiết kế các sản phẩm cơ khí năng lượng và mỏ; xác hoạt đonbgj nghiệp vụ đã có một vài kinh nghiệm trong cơ chế thị trường từ 1991 đến nay Tóm lại, có thẻ nói với đội ngũ quản lý chuyên môn nghiệp vụ và đội ngũ công nhân kỷ thuật có trình đọ hiện nay, nếu có hình thức tổ chức kinh tế phù hợp thì sẽ tổ chức sản xuất có hiệu quả. III. Nội dung các công việc chuẩn bị cổ phần hoá. 1.Về mặt tư tưởng. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay. Nhưng thực hiện chr trương này là một khó khăn, mang tính đột phá vì vậy phải có bước chuẩn bị chu đáo, khẩn trương. Trong thực tế ở mỗi nước đều có tâm lý muốn ổn định vì mọi sự thay đổi nếu không thấy trước được viễn cảnh tốt hơn hiện tại thì không ai muốn thay đổi những gì hiện có. Vì vậy khi tiến hành cổ phần hoá lãnh đạo Viện cần làm tốt công tác tư tưởng đối với cán bộ nhân viên trong cơ quan. Công tác tư tưởng còn tập trung làm rỏ một số việc cơ bản sau đây. - Làm rỏ tất yếu của việc chuyển dần những doanh nghiệp công hữu sang các công ty cổ phần đa sở hữu. Tính tất yếu đó phải được phân tích từ xu hướng phát triển chung của nền kinh tế thị trường, đến kinh nghiệm của các nước và kinh nghiệm của nước ta trong mấy năm đổi mới vừa qua. Từ đó chỉ ra hướng phát triển của Viện nếu không cổ phần hoá sẽ đẫn đến tình trạng không có việc làm, thu nhập thấp. - Làm rỏ chủ trương, chính sách của Nhà nước trong việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Đặc biệt nói rỏ xu hướng bắt buộc phải cổ phần hoá nếu làm sớm sẽ chủ động và có lợi hơ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0291.doc
Tài liệu liên quan