Đề tài Thực trạng về vai trò của của Nhà nước đối với CNH, HĐH và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH, HĐH ở nước ta

MỤC LỤC

 Lời mở đầu 2

Chương I

Một số lý luận chung về vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH, ở nước ta

1. Tính tất yếu khách quan vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH 4

1.1. Tính tất yếu khách quan của quá trình CNH,HĐH đối với sự phát triển chung của đất nước. 4

1.2. Tính tất yếu khách quan về vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH 6

2. Nội dung vai trò của Nhà nước đối với CNH,HĐH. 8

2.1. Quản lý vĩ mô nền kinh tế. 10

2.2. Quản lý ngân sách Nhà nước. 13

2.3. Hoạt động kinh tế của Nhà nước. 14

3. Kinh nghiệm một số nước. 15

3.1. Các nước ASEAN. 15

3.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản. 17

Chương II

Thực trạng về vai trò của của Nhà nước đối với CNH, HĐH và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH, HĐH ở nước ta.

1. Thực trạng vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH ở nước ta thời gian qua. . 18

1.1. Nhà nước thực hiện việc tạo nguồn nhân lực cho tiến trình đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. 18

1.2. Nhà nước tích cực tìm cách giải quyết việc làm cho người lao động. 20

1.3. Nhà nước đưa ra chính sách tài chính nhằm thúc đẩy tiến trình CNH,HĐH. 21

1.4. Chính sách cải cách tiền lương. 22

1.5. Nhà nước tích cực thu hút vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho sự nghiệp CNH,HĐH. 23

 2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH ở nước ta thời gian tới. 25

Kết luận. 29

 

 

doc34 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1628 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về vai trò của của Nhà nước đối với CNH, HĐH và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH, HĐH ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hay đổi cơ cấu kinh tế, hội nhập nền kinh tế Việt Nam với khu vực và quốc tế v.v.. Vấn đề tạo lập , sử dụng môi trường kinh tế quốc tế cho CNH,HĐH ở nước ta được thể hiện trên hai lĩnh vực chủ yếu là nguồn vốn đầu tư nước ngoài và công nghệ. Tạo lập môi trường thu hút và sử dụng nguồn vốn nước ngoài. Đối với tất cả các nước khi tiến hành CNH,HĐH, huy động vốn luôn là một trong những vấn đề cốt yếu. Dựa vào tính chất đặc đIểm của từng thời kỳ cụ thể để lựa chọn, huy động, sử dụng nguồn vốn trở thành một việc làm đòi hỏi phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng, vì nó ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ và kết quả CNH,HĐH. Nhằm tạo lập môi trường trong nước thuận lợi cho thu hút vốn nước ngoài, trước hết cần chú trọng các biện pháp vĩ mô bảo đảm sự ổn định về chính trị, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại khai thông và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước, các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế và khu vực. Nhà nước phải chú trọng xây dựng và hoàn thiện các pháp chế kinh tế một cách đồng bộ , nhất quán, bảo đảm trật tự kỷ cương trong hoạt động kinh tế, tạo lập môi trường tài chính, tiền tệ lành mạnh; khống chế lạm phát, đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng ưu tiên đối với các cơ sở phục vụ phát triển kinh tế đối ngoại, củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài. Do đặc thù riêng của vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và viện trợ phát triển (ODA) cho nên đối với từng loại vốn cụ thể Nhà nước cần có những biện pháp riêng. Đối với nguồn vốn FDI, chúng ta xác định đây là một trong những nguồn lực bên ngoài rất quan trọn trong công cuộc phát triển đất nước. Luật Đầu tư nước ngoài( ĐTNN) tại Việt Nam được ban hành vào tháng 12/1987 chỉ hơn một năm sau khi nước ta tiến hành công cuộc đổi mới. Để tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư nươc ngoài, từ năm 1990 đến nay nươc ta đã tiến hành 3 lần sửa đổi , bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài. Nhà nước ta phải làm thế nào để thu hút được nhiều nhất nguồn vốn đầu tư của nước ngoài để thúc đẩy quá trình CNH,HĐH diển ra nhanh hơn.Tuy nhiên, để nguồn vốn ĐTNN phát huy tác dụng và hiệu quả cao đối với sự nghiệp CNH,HĐH cần thiết phải sớm khắc phục một số vấn đề mới đang đặt ra hiện nay. Trước hết, cần có giải pháp để nguồn vốn nước ngoài đầu tư trong công nghiệp không chỉ chủ yếu tập trung vào những ngành, những vùng có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng , về thị trường và có khả năng thu hồi vốn nhanh( lắp ráp ôtô, xe máy, đIện tử, v.v... ) mà còn phải tăng các dự án đầu tư vào công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, vào công nghiệp cơ khí... Mặt khác, cần xoá bỏ tình trạng thua lỗ kéo dài của nhiều dự án công nghiệp; đồng thời khắc phục sự cạnh tranh không cân sức giữa lĩnh vực công nghiệp có đầu tư trực tiếp nước ngoài với công nghiệp trong nước. Còn đối với nguồn vốn ODA do được xác định là nguồn vốn bên ngoài quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội nói chung và cho CNH,HĐH cho nên nước ta rất quan tâm để thu hút nguồn viện trợ phát triển chính thức này.Nhà nước ta phảI nối lại quan hệ với các tổ chức tài chính thế giới như: Quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF ), Ngân hàng thế giới ( WB ), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB )... Đồng thời phải sử dụng nguồn vốn cho có hiệu quả như: Cải tạo nâng cấp và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội , triển khai một số chương trình tại các vùng nông thôn miền núi, lập các dự án cho phát triển giao thông, điện , thuỷ lợi, y tế , giáo dục và đào tạo... Tạo lập môi trường để thu hút và sử dụng công nghệ cao cho CNH,HĐH. Là một nước đang phát triển, cho nên việc tạo lập môI trường để khai thác tốt công nghệ quốc tế phục vụ cho quá trình CNH,HĐH ở nước ta giữ một vai trò hết sức quan trọng, nó góp phần vào sự thành bại của quá trình đó. Thực trạng về trình độ công nghệ của nước ta khi bước vào CNH,HĐH cho thấy: hệ thống công nghệ trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất đều lạc hậu , chắp vá, không đồng bộ, năng suất và hiệu quả thấp. Sản phẩm làm ra chất lượng còn hạn chế ; giá thành cao; sức cạnh tranh kém trên thị trường quốc tế và khu vực. Trước thực trạng còn nhiều bất cập nêu trên, bên cạnh việc cố gắng tìm kiếm, khai thác nhập các công nghệ tiên tiến, Nhà nước còn chủ trương quản lý và sử dụng tốt hơn nữa công nghệ hiện có, phát huy tiềm năng, nội lực sẵn có của đất nước. Quan điểm của Đảng và Nhà nước hiện nay về xây dựng môi trường để thu hút và khai thác công nghệ thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất, phát huy cao độ yếu tố xã hội của công nghệ để tạo ra hiệu quả kinh tế xã hội cao cho dù chưa có được thiết bị tiên tiến nhất. Chúng ta tiếp thu công nghệ và làm chủ nó, bảo đảm vận hành tốt tiến tới cải tiến từng bộ phận để thích nghi với từng đIều kiện cụ thể của ta , nâng cao hơn nữa sự sáng tạo quy trình công nghệ mới. Thứ hai, đầu tư theo chiều sâu để khai thác tối đa năng lực hiện có, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. Thứ ba, ở những ngành công nghệ có tầm chiến lược và các ngành công nghệ mũi nhọn như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, cơ khí điện tử, tự động hoá... Nhà nước cần tập trung đầu tư lớn, nhập trực tiếp hoặc hợp tác liên doanh nhằm mau chóng có những công nghệ hiện đại, nhanh chóng có những sản phẩm hàm lượng công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh hiệu quả trên thị trường quốc tế. Đây chính là chủ trương của Nhà nước nhằm tạo nên những ngành kinh tế mũi nhọn, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển toàn bộ nền kinh tế nói chung và sự nghiệp CNH,HĐH nói riêng của nước ta. Và để tiếp tục xây dựng và sử dụng tốt môi trường công nghệ cho CNH,HĐH đất nước hiện nay và những năm sắp tới, chúng ta phải chú trọng những vấn đề: Cần hoàn chỉnh hơn nữa hệ thống pháp luật, các văn bản pháp lý, cũng như phải thực hiện nghiêm túc các quy phạm đã nêu trong luật pháp để tránh các trường hợp “ lọt lưới “ công nghệ lạc hậu, công nghệ ô nhiễm... mà không quy được trách nhiệm thuộc về ai. Cần lập ra những cơ quan chuyên trách với các chuyên gia giỏi ở từng ngành để tập hợp, phân tích, tổng hợp các thông tin về công nghệ trên thế giới từ các kênh cập nhật theo thời gian để có cơ sở tin cậy cho việc đánh giá, lựa chọn các thiết bị, công nghệ nhập ngoại. Đây là công việc vừa có lợi trước mắt, vừa có lợi lâu dài cho sự nghiệp CNH,HĐH. Cần đầu tư nhiều hơn nữa cho việc đào tạo nguồn cán bộ khoa học công nghệ. Ngoài ra, Nhà nước còn cần có chính sách tăng cường khả năng tham gia của khu vực kinh tế tư nhân thông qua việc hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân nhận thức đúng đắn việc phát hiện, tìm kiếm, lựa chọn và sử dụng công nghệ tiên tiến, thích hợp; tích cực sử dụngcác kết quả nghiên cứu của các viện nghiên cứu, các trường đại học... nhằm hoàn thiện công nghệ sản xuất, sử dụng những trang thiết bị hiện đại, những giống cây, con mới, chú trọng tăng năng suất lao động đạt hiệu quả và lợi nhuận cao trong sản xuất kinh doanh. 2.2 Quản lý ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước là nguồn thu chi cho hoạt động điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế. Vì vậy, Nhà nước phải quản lý ngân sách một cách có hiệu quả. Đó là một yêu cầu cấp bách đối với quản lý kinh tế ở nước ta. Một chính phủ với ngân sách Nhà nước ốm yếu, thường xuyên thâm hụt, bội chi nhiều thì chắc chắn không thể đIều hành tốt nền kinh tế được. Thực trạng cân đối thu chi ngân sách của nước ta nhiều năm qua luôn luôn ở trong trình trạng căng thẳng bộ chi lớn. Sự căng thẳng trong nguồn thu ngân sách đã dẫn đến những lúng túng, bị động trong chi tiêu ngân sách, dẫn đến cơ cấu chi tiêu không hợp lý. Năm 192, chi cho xây dựng cơ bản vượt quá 70%, trong khi đó chi cho các vấn đề xã hội lại chỉ đạt 70%, còn lại phải chuyển sang năm 1993. Vì vậy, cần phải chú ý vai trò quan trọng của Nhà nước và phải thường xuyên hoàn thiện chức năng quản lý ngân sách của Nhà nước. 2.3 Hoạt động kinh tế của Nhà nước. Nhà nước trực tiếp làm kinh tế với tư cách là người chủ sở hữu (tới 75%) tài sản của đất nước. Mặc dù hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp Nhà nước quá thấp, song không thể xoá bỏ nó, mà phải chú ý củng cố và tăng cường cho nó đủ mạnh để có thể đảm nhiệm được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nói chung vai trò của Nhà nước là rất to lớn trong kinh tế thị trường. Kinh nghiệm của thế giới cho thấy rằng , đối với các nước đang phát triển , vai trò quản lý của Nhà nước đối với công nghiệp thể hiện ở những đIểm sau đây: Trong mọi trường hợp, Nhà nước chỉ nên định hướng chung, mà không nên trực tiếp tham gia vào các quyết định của các doanh nghiệp. Nhà nước tập trung thông tin và chia sẻ một cách có chọn lọc những thông tin ấy cho các doanh nghiệp. Nhà nước cung cấp vốn liên doanh cho các doanh nghiệp mới, thường là ở mức lãi suất rất thuận lợi đối với họ. Nhà nước hỗ trợ cho các ngành công nghiệp đột phá. Sự hỗ trợ cần phải được cân nhắc và xử lý cụ thể từng trường hợp. Nhà nước phải kiên quyết xoá bỏ mọi sự ưu đãi nếu như doanh nghiệp không đáp ứng được những tiêu chuẩn thực hiện. Bản thân các tiêu chuẩn phảI không phức tạp và rõ ràng. Có sự phân công sản xuất giữa doanh nghiệp công cộng, doanh nghiệp tư nhân và có thể cả các công ty xuyên quốc gia. Chú ý công tác đào tạo và y tế. Có sự liên kết hỗ trợ về vốn giữa khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân. Các chương trình đầu tư của Nhà nước phảI được thiết kế nhằm tăng hiệu quả của cả hai khu vực Nhà nước và tư nhân, Tránh moi sự không rõ ràng. Kinh nghiệm một số nước. 3.1. Các nước ASEAN. Vào thập kỷ 80 chiến lược phát triển công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu được đẩy mạnh tại các nước ASEAN. Điều nổi bật trong chiến lược này là kết hợp xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp truyền thống, sản phẩm sử dụng nhiều lao động với sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao. Trong khoảng 15 năm gần đây với chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu các nước ASEAN đã thay đổi một cách mạnh mẽ cơ cáu công nghiệp hóa. Các mặt hàng về công nghiệp chế biến, máy móc thiết bị vận tảI, hàng đã chế biếnkhác ở các nước đều tăng lên mạnh mẽ. ĐIều đó góp phần làm thay đổi cân đối xuất khẩu từ nhập siêu sang xuất siêu góp phần làm tăng GNP của đất nước. Bảng cân đối xuất nhập khẩu Đơn vị tính: triệu đôla Nước 1976 1990 Xuất khẩu(FOB) Nhập khẩu(CIF) + - Xuất khẩu(FOB) Nhập khẩu(CIF) + - Inđônêxia Malaixia Xingapo Thailan 1055 1087 1554 710 1258 1390 2461 1293 -203 +297 -907 -583 25675 26645 52600 22940 21837 26506 60605 33229 3838 139 8005 10289 Sở sĩ đạt được kết quả này là nhờ 2 biện pháp quan trọng sau đây mà hầu hết các nước ASEAN đã áp dụng. Một là, biện pháp bảo hộ: ở hầu hết các nước ASEAN trừ Xingapo đều áp dụng biện pháp bảo hộ cả thị trường xuất khẩu lẫn thị trường nội địa. Hai là, các nước ASEAN có chính sách tích cực thâm nhập thị trường nước ngoài. Trong bối cảnh những năm 50 đến cuối thập kỷ 90 xu hướng vận động của vốn đầu tư có sự thay đổi . Do nhiều lý do khác nhau mà vốn đầu tư chuyển dịch sang các nước công nghiệp phát triển. ở các nước đang phát triển thì đã nghèo lạI thiếu vốn đầu tư. Song trong bối cảnh đó, các nước ASEAN lại tạo điều kiện để khởi dòng cho vốn đầu tư nước ngoài chảy vào lãnh địa của mình. Trong số đó phải kể đến tốc độ tăng vốn đầu tư của Nhật và Mỹ vào các nước ASEAN. Để thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, Chính phủ các nước ASEAN đã có nhiều chính sách khuyến khích như sau: Mở cửa không hạn chế đầu tư nước ngoài. Tạo bầu không khí thuận lợi cho đầu tư. Khuyến khích vật chất để thu hút vốn đầu tư. Sử dụng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư , tận dụng nhiều nguồn đầu tư như đầu tư ODA,NGO, và FDI. Sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình CNH,HĐH ở các nước ASEAN là vừa phải theo chuẩn mực quốc tế. Các nước ASEAN đã sử dụng các biện pháp: Về tổ chức: Thành lập các Uỷ ban đầu tư (BOI) để kết hơp khuyến khích và quản lý đầu tư vào các ngành kinh tế. Nhiệm vụ chủ yêú của BOI là : phân phát phần lớn các khuyến khích tài chính của chính phủ cho các chủ đầu tư mới Phối hợp hoạt động đầu tư của các bộ, ngành trong chính phủ. Giúp các công ty mới được thành lập được đăng ký và thừa nhận chính thức. Về chính sách kinh tế: Các nước ASEAN đã xây dựng và áp dụng một loạt chính sách quan trọng. Nhà nước có định hướng chiến lược cho sự phát triển công nghiệp. Nhà nước có chính sách can thiệp vào ngoại thương như bảo hộ ngành chế tạo nội địa; khuyến khích xuất khẩu và điều tiết ngoại thương thông qua các quy định về thủ tục xuất khẩu Nhà nước can thiệp vào thị trường lao động thông qua quy định mức lương tối thiểu, can thiệp vào thị trường vốn thông qua hoạt động của các ngân hàng Nhà nước và kiểm soát các ngân hàng tư nhân. Nhà nước có chính sách thu hút vốn đầu tư kể cả đầu tư ra nước ngoài và huy động vốn đầu tư từ trong nước. Nhà nước có chính sách cân bằng lại khu vực tư nhân và khu vực công cộng, đặc biệt chú trọng đẩy mạnh tư nhân hoá xí nghiệp Nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động của chúng. 3.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản. ở Nhật Bản , bên cạnh những kinh nghiệm đáng chú ý khác về chính sách của Nhà nước như chú trọng đầu tư vào nguồn lực con người, vào công nghệ mới v.v..., thì sự can thiệp của Nhà nước được đại diện bởi Bộ thương mại quốc tế và công nghiệp( viết tắt là MITI), với việc đề ra và thực hiện chính sách công nghiệp một khái niệm đặc biệt của Nhật Bản với tên gọi (seisaku) thông qua hệ thống kế hoạch hoá hướng dẫn đã được nhiều nhà phân tích coi là một yếu tố quan trọng quyết định “ sự thần kỳ kinh tế” . Ngay từ những năm 1930, các công ty Nhật Bản đã được hướng dẫn về phương hướng đầu tư và sản xuất, được trợ cấp , bảo hộ thương mại và giảm thuế nếu chúng tuân theo những hướng dẫn đó. Có thể nếu đo lường sự can thiệp của Nhà nước bằng các chỉ tiêu định lượng nào đó - bằng số lượng chi phí của chính phủ hay số lượng thuế, bằng số mặt hàng bị kiểm soát giá cả, bằng tỷ trọng của các doanh nghiệp Nhà nước trong công nghiệp, hay bằng số lượng các quy chế cấm đoán hoặc giới hạn hoạt động của khu vực tư nhân - người ta sẽ còn phải tiếp tục tranh luận về quy mô của sự can thiệp là lớn hay nhỏ, nhưng điều thấy rõ ràng là sự can thiệp của Nhà nước đã có tác dụng hướng các tập đoàn tài chính công nghiệp(zaibatsu) vào một quỹ đạo phát triển có hiệu quả. Kinh nghiệm về sự can thiệp thành công của Nhà nước ở các nền kinh tế công nghiệp mới Nic châu á như Nam Triều Tiên , Đài Loan, Singapo và một số nước ASEAN như Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan cũng có nhiều đIểm tương tự như ở Nhật Bản. Song song với việc thực hiện những chính sách đIều chỉnh nhằm tạo lập và ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, sản xuất những hàng hoá thuần tuý công cộng, Nhà nước còn thực hiện một loạt biện pháp thúc đẩy phát triển như tạo ra kết cấu hạ tầng thích hợp cho phát triển kinh tếvà trực tiếp kinh doanh. Một điều đáng chú ý là ở Nhật Bản vai trò của Nhà nước không phải là bất di bất dịch trong các giai đoạn phát triển. Sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước giảm đi khi công nghiệp hoá được hoàn thành. Như đã nêu trên, Nhà nước rút bỏ các hạn chế về thể chế khi thị trường hình thành và hoạt động tốt, nhường chỗ cho khu vực tư nhân ở một số lĩnh vực công nghiệp để chuyên vốn sang khai phá những lĩnh vực mới. Chương II Thực trạng về vai trò của Nhà nước đối với CNH,HĐH và một số giảI pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH ở nước ta. Thực trạng về vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH ở nước ta. 1.1. Nhà nước thực hiện việc tạo nguồn nhân lực cho tiến trình đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. Chúng ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới rất quan trọng - đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành môt nước công nghiệp. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, Hội nghị lần thứ 2 BCHTƯ Đảng khoá VIII đã khẳng định: “ Cùng với giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công CNXH, vì thế cần phát huy nguồn nhân lực cong người, yếu tố phát triển nhanh và bền vững. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay co một số vấn đề sau: Thứ nhất, sự già hoá của đội ngũ trí thức. Thứ hai, việc đầu tư cho KH và CN cũng như GD-ĐT chưa đủ để phát triển nguồn nhân lực. Thứ ba, cơ cấu nguồn nhân lực của nước ta hiện nay chưa hợp lý. Thư tư, hiện tượng chảy máu chất xám đã và đang xảy ra ngay trong đội ngũ trí thức. Từ thực trạng nêu trên Nhà nước ta đã đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm củng cố và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Cần nhận thức rõ ràng rằng, chiến lược trong cạnh tranh quốc tế gay gắt là vấn đề nhân tài. Sự cạnh tranh tổng hợp của một đất nước trong thời đại hiện nay không tách rời việc bồi dưỡng nhân tài, cúng không tách rời việc nâng cao năng lực nội sinh, tố chất trí tuệ của hàng triệu người lao động ở tuyến đầu sản xuất. Vì thế công tác cán bộ phảI đặt lên hàng đầu. Người cán bộ phải biết rõ vị trí, nhiệm vụ của mình, trên cơ sở đó phát huy được năng lực cá nhân, hội tụ được trí tuệ tập thể. Nhà nước đã đưa ra các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ KH và CN, nhất là cán bộ đầu đàn. Nâng cao chất lượng GD-ĐT ở tất cả các bậc học, từng bước tiến tới đạt trình độ khu vực và quốc tế. Chúng ta ước tính hoàn thành phổ cập THCS vào năm 2010 với 95% số học sinh tốt nghiệp THCS vào THPT và hoàn thành phổ cập THPT vào năm 2015 với 70% số học sinh tốt nghiệp THPT vào đại học và cao đẳng. Thực hiện công bằng , văn minh trong sử dụng nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản để phát hiện và đào tạo nhân tài. Đảng đã có nhiều nghị quyết về vấn đề này,các bộ ngành phải thực hiện các nghị quyết của Đảng một cách nghiêm túc Đưa việc cấp bằng, chứng chỉ trong nước đi vào nề nếp. Đây là biện pháp tôn vinh nguồn nhân lực đã được đào tạo thực sự và giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Tiến hành thanh tra, kiểm tra chặt chẽ quá trình đào tạo ở các cấp, bảo đảm chất lượng theo đúng quy trình, quy chế đào tạo. Nhà nước tăng cường đầu tư tài chính, đồng thời tăng cường quản lý, kiểm tra tổ chức sử dụng một cách hợp lý. Hội nghị Trung ương lần thứ 2 ( khoá VIII) đã định hướng đầu tư cho KH và CN tăng dần đến năm 2000 là 2% và đối với GD-ĐT là 15% trong tổng chi NSNN là rất đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Đào tạo bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực từ giai cấp công nhân - lực lượng quan trọng của cách mạng Việt Nam Ngoài ra Nhà nước còn tiến hành cải cách giáo dục đại học để đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao phục vụ cho quá trình CNH,HĐH. Mặc dù vậy nhưng công tác GD-ĐT vẫn còn gặp những nhiều những bất cập, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý dẫn đến tình trạng nước ta thiếu lao động có trình độ cao. 1.2. Nhà nước tích cực tìm cách giải quyết việc làm cho người lao động. Trong thời gian qua Nhà nước đã thực thi nhiều chính sách nhằm tăng số lượng người có việc làm trong độ tuổi lao động. Vấn đề này thời gian qua là một vấn đề bức xúc đối với sự phát triển chung của đất nước và ảnh hưởng đến tốc độ của quá trình CNH,HĐH. Thứ nhất, Nhà nước phát triển mạnh mẽ kinh tế xã hội ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Đó là các biện pháp nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, nhằm tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập khắc phục hiện tượng nông nhàn do tính thời vụ của nông nghiệp. Cùng với biện pháp phát triển kinh tế là biện pháp để phát triển xã hội như y tế văn hoá, giáo dục..., nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, ổn định xã hội, giảm gia tăng dân số và nguồn lao động... Thứ hai, Nhà nước huy động mạnh các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ kinh tế ở thành thị. Với ưu thế của mình, các doanh nghiệp Nhà nước phát triển theo chiều rộng và chiều sâu, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát huy lợi thế cạch tranh sử dụng nhiều lao động, có khả năng chiếm lĩnh thị trường trong nước về xuất khẩu của các ngành công nghiệp, xây dựng, giao thông, dịch vụ, du lịch... Kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác được sự giúp đỡ và quản lý của Nhà nước. Thứ ba, Nhà nước đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Thứ tư, Nhà nước thực hiện việc nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật cho nguồn nhân lực để giải quyết việc làm. Nhà nước thực hiện việc giáo dục nâng cao trình độ cho nguồn nhân lực, phấn đấu phổ cập phổ thông cơ sở và phổ thông trung học đối với những đối tượng và những vùng có đIều kiện nhằm tạo thuận lợi cho việc tiếp thu các kiến thức trong đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động. Để có cơ cấu lao động hợp lý, một trong những biện pháp quan trọng là thực hiện chính sách phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở để tạo ra cơ cấu đào tạo hợp lý. Theo kinh nghiệm của những nước phát triển: cứ 1 người có trình độ đại học, cao đẳng cần có 4-5 người có trình độ trung học chuyên nghiệp và 10 công nhân kỹ thuật. 1.3. Nhà nước đưa ra chính sách tài chính nhằm thúc đẩy tiến trình CNH,HĐH. Do cơ cấu thu ngân sách nhà nuớc theo thống kê năm 1998 là: thu từ thuế 96% cộng với thu ngoài thuế 4% còn mức bội chi NSNN chỉ ở mức 3,6% tính trên GDP - đây là những thông số tỷ lệ có thể chấp nhận được theo quan điểm của các nhà tài chính công cổ điển, từ nguyên tắc thăng bằng ngân sách tức là số thu hàng năm nếu cân bằng với số chi, đó là cơ hội tốt đẹp nhất của nền tài chính quốc gia. Tại nước ta hiện nay, hoạt động tài chính - ngân sách là phù hợp với tư duy tài chính công cổ điển trên nguyên tắc hướng tới sự cân bằng thu chi,” nhằm thống nhất nền tài chính quốc gia, xây dựng NSNN ngày càng lành mạnh, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả tiền của Nhà nước, tăng tích luỹ để thực hiện CNH,HĐH đất nước... “. Con về mặt kỹ thuật, thì NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định... Thế nhưng, kết quả thực thu NSNN trong 4 năm qua đã đem lại cho các nhà nghiên cứu những lo âu, nhất là trên quan điểm hoạch định chính sách tài chính quốc gia, theo định hướng CNH,HĐH đất nước. Nếu tính từ năm 1995, thu NSNN đã đạt đến đỉnh cao 23,7% GDP và bội chi 4,4%; năm 1996 thu 22,4%GDP và bội chi 3,1%; năm 1997 thu chỉ đạt 21,4%GDP và bội chi 4,2%; năm 1998 thu chỉ tới mức 19%GDP và bội chi 3,6%. Năm 1999 Quốc hội khoá X kỳ họp thứ 4 đã thông qua dự toán NSNN mức thu dự kiến bằng 102% so với ước thực hiện năm 1998, thu thuế và phí bằng 18,3%GDP và dự kiến bội chi ngân sách là 3,5%GDP Từ thực tiễn thu NSNN trong những năm qua với các số liệu cụ thể được nêu trên, Nhà nước đã thực hiện: Tiếp tục cải cách hành chính, chuyên sâu hơn nữa về mặt tổ chức và khoa học trong lãnh vực hành chính và tài chính công từ trung ương đến địa phương để có thể nắm bắt được tính thống nhất của nền tài chính quốc gia song song với tính toàn diện của thể chế ngân sách nhà nước. Hội nghị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa ra ý kiến vô cùng đúng đắn và kịp thời đó là lấy việc phát huy nội lực làm tiền đề cho sự phát triển. Về chính sách tài chính, để thực hiện tốt kế hoạch thu đã đề ra trong báo cáo ngân sách, Nhà nước hoàn chỉnh những luật thuế mới, chủ yếu là thuế GTGT, theo hướng giữ những nguyên tắc cơ bản của luật, sửa đổi những quy định cụ thể cho phù hợp với điều kiện thực tế, thay cho việc xử lý từng trường hợp như hiện nay. Nhà nước nâng cao chất lượng hoạch định chính sách và công tác chuẩn bị cho việc tiến hành tiếp tục cải cách thuế, bảo đảm nguồn thu cho ngân sách trên cơ sở khuyến khích sản xuất kinh doanh có hiệu quả. 1.4. Chính sách cải cách tiền lương. Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế xã hội, tác động trực tiếp đến đời sống của những người làm công ăn lương, đến đới sống của người dân trong xã hội. Đồng thời , chính sách tiền lương ảnh hưởng sâu sắc đến sản xuất, mối quan hệ tích luỹ và tiêu dùng, quan hệ giữa các tầng lớp lao động, giữa các ngành nghề, các khu vực, đến động lực phát triển và tăng trưởng kinh tế, đến năng suất và hiệu quả công tác, đến vấn đề ổn định chế độ chính trị xã hội. Vì vậy, đối với bất kỳ nước nào, Nhà nước phải thường xuyên quan tâm cải cách và hoàn thiện chính sách tiền lương. Với thực trạng của chính sách tiền lương và bối cảnh hiện nay ở nước ta Nhà nước đã quyết định cải cách chính sách tiền lương nhằm kích thích sự tích cực cũng như sự năng động của đội ngũ cán bộ công nhân viên đồng thời cũng phù hợp với nguồn ngân sách nhà nước. Nhà nước tiến hành cải cách tiền lương triệt để và căn bản, tạo ra một luồng sinh khí mới đối với các tầng lớp hưởng lương từ NSNN. Chính sách lương mới thực sự là động lực để xây dựng một nền hành chính quốc gia trong sạch với một bộ máy công quyền mạnh mẽ, công minh. Nhà nước thay đổi về chất trên toàn bộ các phương diện của chính sách tiền lương từ mức lương tới đối tượng trả lương, cơ chế quản lý lương. Nhà nước đã tăng mức lương tối thiểu từ 210000đ lên 290000đ, khiến lương thực sự trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động. Nhà nước tiến hành cải cách tiền lương đồng bộ với hàng loạt các biện pháp khác, đặc biệt là cải cách hành chính và cải tiến cơ chế quản lý kinh tế nhằm tránh lãng phí NSNN. Tiến hành cải cách tiền lương tập trung vào bộ máy công quyền của Nhà nước theo hướng nâng cao mức lương đảm bảo thoả mãn các nhu cầu của mức sống trên trung bình trong xã hội. Mức lương trung bình của hệ t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35417.doc
Tài liệu liên quan