Đề tài Thực trạng việc ký kết hợp đồng kinh tế và hướng hoàn thiện pháp luật về ký kết hợp đồng kinh tế

Lời mở đầu 2

Chương 1: Cơ sở lý luận về hợp đồng kinh tế 5

1.1. Những vấn đề cơ bản về chế độ pháp lý của hợp đồng kinh tế 5

1.1.1. Sự ra đời của chế định hợp đồng và hợp đồng kinh tế 5

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng kinh tế 10

1.1.3 Vai trò của hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường 13

1.2. Ký kết hợp đồng kinh tế 16

1.2.1. Nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế 16

1.2.2. Căn cứ ký kết hợp đồng kinh tế 18

1.2.3. Chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế 20

1.2.4. Cách thức ký kết hợp đồng kinh tế 22

1.2.5. Những điều khoản thoả thuận khi ký kết thể hiện trong nội dung của hợp đồng 23

1.2.6. Hợp đồng vô hiệu 31

Chương 2 : Thực trạng việc ký kết hợp đồng kinh tế và hướng hoàn thiện pháp luật về ký kết hợp đồng kinh tế. 34

2.1. Thực trạng ký kết hợp đồng kinh tế 34

2.2. Kiến nghị hướng hoàn thiện pháp luật về ký kết hợp đồng kinh tế 55

Kết luận 66

Tài liệu tham khảo 68

 

doc67 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2576 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng việc ký kết hợp đồng kinh tế và hướng hoàn thiện pháp luật về ký kết hợp đồng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g điều khỏan chủ yếu của hợp đồng. Pháp luật của các nước khác nhau quy định điều khoản chủ yếu với tuỳ từng loại hợp đồng cụ thể có sự khác nhau. Chẳng hạn đối với hợp đồng mua bán thì luật của Pháp, Bỉ coi điều khoản chủ yếu là đối tượng mua bán và giá cả. Điều đó có nghĩa là hợp đồng được coi là hình thành từ thời điểm các bên đã thoả thuận xong về đối tượng và giá cả. Hệ thống pháp luật Anh, Mỹ thì không coi điều khoản giá cả là điều khoản chủ yếu, tức là các bên không bắt buộc phải thoả thuận về giá cả. Nếu trong hợp đồng không quy định giá hàng thì các bên sẽ định giá trên cơ sở quy tắc đã thình thành giữa các bên trong quan hệ kinh doanh. Nếu bằng phương pháp đó vẫn chưa xác định được giá hàng thì bên mua phải thanh toán theo giá thích hợp. Việc xác định “giá thích hợp” phụ thuộc vào thực trạng của từng trường hợp cụ thể (Điều 8 Luật bán hàng Anh 1979- Sale Good ACT 1979) Bộ luật Thương mại thống nhất của Mỹ thừa nhận rằng hợp đồng bán hàng được hình thành hợp đồng là các bên chỉ cần thoả thuận về số lượng hàng hoá được bán. Những khía cạnh khác của đối tượng như chất lượng mặt hàng cũng như các điều khoản về thời hạn, thủ tục bán hàng, giá hàng... được coi như các bên mặc nhiên chấp nhận và đưa vào hợp đồng phù hợp với quy tắc đã được thừa nhận trong lĩnh vực buôn bán mặt hàng tương tự. Trong trường hợp xảy ra tranh chấp, các khía cạnh để trên đó các quy định chi tiết của các luật thể thức bán hàng có tính chất phổ biến và được thừa nhận, do thực tiễn quan hệ kinh doanh giữa các bên và những thông lệ thương mại quy định. Như vậy, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định khá cụ thể, chi tiết về các điều khoản của hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, về từng khía cạnh cụ thể cần có những hiểu biết và kinh nghiệm sâu sắc đặc biệt về chủ thể hợp đồng, về hình thức, về nội dung hợp đồng như tiêu đề trình bày. Thứ tư: thoả thuận về các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ: Các bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng hợp đồng, tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp chủ thể tham gia hợp đồng đều thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng. Do đó, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/09/1989 Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy đinh chi tiết thi hành Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế có nêu ra các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng. Thế chấp tài sản, cầm cố tài sản, bảo lãnh tài sản. Đây là những biện pháp bảo đảm mang tính chất kinh tế thường được chủ thể áp dụng. - Thế chấp tài sản: Thế chấp tài sản là dùng số động sản, bất động sản hoặc giá trị tài sản khác thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm tài sản cho việc thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký kết. Việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản (văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính) và phải có sự xác nhận của cơ quan công chứng Nhà nước hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trường hợp không có cơ quan công chứng) Người thế chấp tài sản có nghĩa vụ bảo đảm nguyên giá trị của tài sản thế chấp, không được chuyển dịch sở hữu hoặc chuyển giao tài sản đó cho người khác trong văn bản thế chấp còn hiệu lực. - Cầm cố tài sản: Cầm cố tài sản là trao đổi tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người cùng quan hệ hợp đồng kinh tế để làm tin và đảm bảo tài sản trong trường hợp vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết. Việc cầm cố phải đượclập thành văn bản riêng có chữ ký của các bên, có sự xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như trường hợp thế chấp tài sản. Người giữ vật cầm cố có nghĩa vụ bảo đảm nguyên giá trị của vật cầm cố và không được chuyển giao vật cầm cố cho người khác trong thời gian văn bản cầm cố còn có hiệu lực. - Bảo lãnh tài sản Là sự đảm bảo bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của người nhận bảo lãnhđể chịu trách nhiệm tài sản thay cho người được bảo lãnh khi người này vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết. Người nhận bảo lãnh phải có số tài sản không ít hơn số tài sản mà người đó nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh tài sản phải được làm thành văn bản, có sự xác nhận về tài sản của ngân hàng nơi người bảo lãnh giao dịch của cơ quan công chứng Nhà nước hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trường hợp không có cơ quan công chứng Nhà nước). Việc xử lý các tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh khi có vi phạm hợp đồng kinh tế được thực hiện cùng với việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế tại cơ quan có thẩm quyền. Đó là Toà án kinh tế hoặc các trung tâm Trọng tài kinh tế phi Chính phủ. So với pháp luật về hợp đồng kinh tế trước đây, Bộ luật dân sự quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự một cách chặt chẽ và đầy đủ hơn. Các biện pháp đảm bảo trong Bộ luật dân sự phong phú hơn. Đây là lần đầu tiên trong các văn bản pháp luật hợp đồng kinh tế của nước ta có quy định về các biện pháp bảo đảm về tài sản cho việc thực hiện hợp đồng kinh tế. Các quy định này đã góp phần vào việc bảo đảm sự an toàn của các quan hệ kinh tế. Tuy nhiên các quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế còn rất sơ sài có nhiều điểm có thể gây hiểu lầm khi áp dụng, hoặc không thể thực hiện được. Chẳng hạn, pháp luật quy định rằng, người nhận tài sản thế chấp và cầm cố phải giữ nguyên giá trị tài sản cầm cố hay thế chấp. Việc giữ nguyên giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố giá trị tài sản thế chấp có thể tăng hay giảm. Các quy định hiện hành chưa bảo đảm khả năng loại trừ việc dùng một tài sản thế chấp cho việc baỏ đảm thực hiện hợp đồng kinh tế cũng chưa được giải quyết các vấn đề: - Ai là người ưu tiên trong các chủ nợ có nhận thế chấp? - Xác định trật tự ưu tiên trên cơ sở nào? - Tài sản mua bằng tiền vay nợ có thế chấp có được mang đi thế chấp để vay nơi khác không. - Cần quản lý vần đến thế chấp như thế nào? Xác định được đầy đủ những điều khoản cần thiết của hợp đồng khi ký kết hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên về từng khía cạnh cụ thể, cần có những hiểu biết và kinh nghiệm sâu sắc đặc biệt về chủ thể hợp đồng, về hình thức nội dung hợp đồng như trên đã trình bày. 1.2.6. Hợp đồng kinh tế vô hiệu và xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu: Một hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu khi hợp đồng kinh tế đó ký kết trái với những quy định của pháp luật. Những nội dung về quyền và nghĩa vụ của các bên được xác lập trái với những quy định của pháp luật thì không có hiệu lực thực hiện . Có 2 loại hợp đồng kinh tế vô hiệu là hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ và hợp đồng kinh tế vô hiệu từng phần. Việc kết luận hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ hay từng phần thuộc thẩm quyền của toà án kinh tế. a. Hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ: Những hợp đồng kinh tế nào có một trong các nội dung sau đây thì bị coi là vô hiệu toàn bộ ngay từ khi ký hợp đồng kinh tế được hình thành. - Nội dung của hợp đồng kinh tế vi phạm điều cấm của pháp luật. Ví dụ các bên thoả thuận sản xuất, tiêu thụ hàng giả, mua bán vận chuyển hàng cấm. - Không đảm bảo tư cách chủ thể của quan hệ hợp đồng, một trong các bên đã ký kết hợp đồng không có giấy phép đăng ký kinh doanh, theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng. Nếu pháp luật quy định để thực hiện công việc đó đòi hỏi cả hai bên phải có đăng ký kinh doanh mà một trong các bên không có đăng ký kinh doanh thì hợp đồng kinh tế đó bị coi là vô hiệu toàn bộ. Nếu pháp luật chỉ cần có một bên có đăng ký kinh doanh (ví dụ: bên bán, bên làm dịch vụ, bên nhận thầu, bên chủ phương tiện vận tải...) mà bên đó không có đăng ký kinh doanh thì hợp đồng đó cũng bị coi là vô hiệu toàn bộ. - Người ký kết hợp đồng không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo. Người ký kết hợp đồng đúng thẩm quyền tức là người đó không phải là đại diện hợp pháp; không phải là người được uỷ quyền hoặc được uỷ quyền nhưng vượt quá phạm vi uỷ quyền đó. Khi người ký kết hợp đồng có hành vi lừa đảo như giả danh, giả mạo giấy tờ, chữ ký, con dấu, thì hợp đồng đó được coi là vô hiệu toàn bộ. b. Hợp đồng kinh tế vô hiệu từng phần: Những hợp đồng kinh tế có nội dung vi phạm một phần điều cấm của pháp luật nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của hợp đồng thì bị coi là vô hiệu từng phần tức là chỉ vô hiệu những phần thoả thuận trái pháp luật, còn những phần khác vẫn có hiệu lực pháp luật. Theo khoản 2 Điều 8 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: “Hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu từng phần khi nội dung của phần đó vi phạm điều cấm của luật, nhưng không ảnh hưởng đến nội dung các phần cònlại của hợp đồng” Trong trường hợp, hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu từng phần thì các bên phải sửa đổi điều khoản trái pháp luật, khôi phục các quyền và lợi ích ban đầu, đồng thời có thể bị xử lý theo các quy định của pháp luật đối với phần vô hiệu đó. * Nguyên tắc xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu. Hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu khi hợp đồng đó ký kết trái với quy định của pháp luật (mục 1.2.6. chương này) đối với các hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ, dù các bên chưa thực hiện, đang thực hiện hoặc đã thực hiện xong đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. - Nếu nội dung của hợp đồng chưa thực hiện thì các bên không được thực hiện nữa. - Nếu nội dung của hợp đồng đang thực hiện hoặc đã thực hiện xong thì bị xử lý tài sản như sau; các bên phải hoàn trả cho nhau tất cả tài sản đã nhận được từ việc thực hiện hợp đồng; thu nhập từ việc thực hiện hợp đồng thì phải nộp vào ngân sách nhà nước, thiệt hại phát sinh thì các bên phải gánh chịu. - Người ký kết hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ, người cố ý thực hiện hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ thì tuỳ theo mức độ vi phạm và bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Trường hợp hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu từng phần thì các bên phải sửa đổi các điều khoản trái pháp luật, khôi phục các quyền và lợi ích ban đầu và bị xử lý theo pháp luật đối với phần vô hiệu đó. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VIỆC KÝ KẾT HỢP ĐỒNG KINH TẾ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KÝ KẾT HỢP ĐỒNG KINH TẾ 2.1. THỰC TRẠNG KÝ KẾT HỢP ĐỒNG KINH TẾ . Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế năm 1989 về cơ bản được xây dựng theo những nguyên tắc của cơ chế quản lý kinh tế mới đó là thoả thuận ý chí trong việc ký kết hợp đồng, mặc dù vậy, sau gần 10 năm thực hiện nó đã bộc lộ một số ưu điểm và nhược điểm rất đáng lưu ý. 2.1.1. Về thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế . Hợp đồng kinh tế cần được ký kết theo thủ tục và trình tự nhất định. Thủ tục, trình tự ký kết hợp đồng kinh tế là các cách thức, các bước, các hành vi mà các bên phải tiến hành nhằm xác lập một quan hệ hợp đồng có hiệu lực pháp lý. Có 2 cách ký kết hợp đồng kinh tế: ký trực tiếp và ký gián tiếp. Ký kết hợp đồng bằng cách trực tiếp diễn ra trong các trường hợp đại diện của các bên trực tiếp gặp nhau để trao đổi, bàn bạc, thương lượng, thoả thuận, thống nhất ý chí, xác định các điều khoản của hợp đồng và cùng ký vào văn bản hợp đồng được coi là hình thành và có hiệu lực pháp lý từ thời điểm hai bên ký vào văn bản. Trong những trường hợp các bên không thể ký kết hợp đồng một các trực tiếp thì các bên có thể ký kết theo cách gián tiếp. Ký kết hợp đồng bằng cách gián tiếp là cách thức ký kết mà theo đó, các bên gửi cho nhau các tài liệu giao dịch (công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng), chứa đựng nội dung của công việc giao dịch. Việc ký kết bằng cách gián tiếp đòi hỏi phải tuân theo một trình tự nhất định. Thông thường trình tự này gồm 2 bước: - Bước một : một bên đề nghị hợp đồng thông báo ý định đến bên định mời ký kết. Trong đề nghị phải đưa ra những yêu cầu về nội dung giao dịch (thí dụ : tên hàng, tên công việc, số lượng chất lượng giá cả, thời gian, địa điểm, phương thức giao nhận, phương thức thanh toán...) Lời đề nghị gửi đi cho bên kia phải rõ ràng và có tính xác định. - Bước hai: bên nhận được đề nghị hợp đồng, có nghĩa trả lời bằng văn bản và gửi cho bên đề nghị hợp đồng, trong đó ghi rõ nội dung chấp nhận, nội dung không chấp nhận và những điều bổ sung. Bên kia cũng phải trả lời là có đồng ý phần bổ sung hay không. Hợp đồng ký kết bằng cách gián tiếp được coi là hình thành và có giá trị pháp lý từ khi các bên nhận được tài liệu giao dịch thể hiện sự thoả thuận về tất cả các điều khoản chủ yếu của hợp đồng. Căn cứ để xác định là con dấu của bưu điện hoặc ngày ký sổ nhận công văn trực tiếp của bên kia, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối với từng loại hợp đồng kinh tế. Qua xem xét các quy định hiện hành về thủ tục ký kết hợp đồng có thể thấy các quy định này còn rất sơ sài chưa đủ sức ràng buộc các bên trong việc đề nghị và chấp nhận đề nghị ký kết hợp đồng. Trong các quy định này chúng ta còn thấy dấu ấn của cơ chế cũ. Việc ký kết hợp đồng là một kỷ luật. Nếu các bên không ký thì đã có cơ quan trọng tài kinh tế đôn đốc, kiểm tra và buộc các bên phải ký. Do vậy, những quy định này không còn phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường khi ký kết hợp đồng là quyền của chủ thể kinh doanh. Do quy định sơ sài mà có thể có hai trường hợp xảy ra mà pháp luật hợp đồng kinh tế chưa dự liệu được. Thứ nhất, bên đề nghị hợp đồng tuỳ tiện huỷ bỏ lời đề nghị, thứ hai, bên nhận đề nghị không trả lời đề nghị của bên đề nghị. Khiếm khuyết này đã được Bộ luật dân sự khắc phục trong Điều 396, 397, 398. Được coi là một đề nghị giao kết hợp đồng trong đề nghị ấy nên những nội dung chủ yếu của hợp đồng. Một lời đề nghị không có nội dung về đối tượng hợp đồng, số lượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, quyền và nghĩa vụ của các bên và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thì không thể được gọi là đề nghị giao kết hợp đồng . Khi một bên đề nghị bên kia giao kết hợp đồng có nêu nội dung chủ yếu của hợp đồng và thời hạn, trả lời, thì không được mời người thứ ba giao kết trong thời hạn trả lời và phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình. Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời, thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời gian đó, nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời, thì lời chấp nhận này được coi là lời đề nghị mới của bên chậm trả lời. Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trường hợp nói qua điện thoại và các phương tiện khác, thì bên được đề nghị phải trả lời ngay chấp nhận hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp có thoả thuận về thời hạn trả lời. Trong trường hợp việc trả lời được chuyển qua bưu điện, thì thời điểm trả lời là ngày gửi đi theo dấu bưu điện. Vấn đề thay đổi hoặc rút đề nghị giao kết hợp đồng cũng đã được đề cập trong Bộ luật dân sự. Bên đề nghị có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị trong các trường hợp sau : - Bên nhận đề nghị chưa nhận được đề nghị - Bên đề nghị có nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại đề nghị. Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp a- Bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận hoặc chậm trả lời chấp nhận. Hết thời hạn trả lời chấp nhận Khi bên đề nghị thay đổi nội dung đề nghị, thì đề nghị đó được coi là đề nghị mới. Khi bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng , nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị, thì coi như người này đã đưa ra đề nghị mới. Thay mặt cho chủ thể hợp đồng kinh tế ký hợp đồng kinh tế theo quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Nghị định 17/HĐBT ngày16/1/1990 là đại diện hợp pháp của pháp nhân là người được bổ nhiệm hay được bầu vào chức vụ đứng đầu pháp nhân đó và đương giữ chức vụ đó. Nếu là cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật thì người ký hợp đồng phải là người đứng tên xin giấy phép kinh doanh tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trong tất cả các trường hợp đều không bắt buộc kế toán trưởng phải cùng ký vào bản hợp đồng kinh tế (Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ngày 10/03/1975). Trường hợp một bên là người làm công tác khoa học kỹ thuật, nghệ nhân thì người ký hợp đồng kinh tế phải là người trực tiếp thực hiện công việc trong hợp đồng. Nếu có nhiều người cùng làm thì người quản lý vào bản hợp đồng kinh tế phải do những người cùng làm cử ra bằng văn bản trong đó có chữ ký của tất cả những người đó và phải đính kèm bản hợp đồng kinh tế. Trường hợp một bên là hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ngư dân thì đại diện phải là chủ hộ. Khi một bên là tổ chức nước ngoài tại Việt Nam thì đại diện tổ chức đó phải được uỷ nhiệm bằng văn bản, nếu các cá nhân nước ngoài tại Việt Nam thì bản thân họ phải là người ký kết các hợp đồng kinh tế. Người đại diện hợp pháp của pháp nhân và các cá nhân có đăng ký kinh doanh có thể uỷ quyền cho người khác thay mặt mình ký kết hợp đồng kinh tế, làm đại diện ký kết, trong quá trình thực hiện hợp đồng cũng như trong tố tụng khi có tranh chấp hợp đồng. Người đại diện theo uỷ quyền chỉ được ký kết hợp đồng kinh tế trong phạm vi uỷ quyền. Nếu người đại diện theo uỷ quyền ký kết hợp đồng kinh tế vượt quá phạm vi được uỷ quyền bị coi là vô hiệu. Việc uỷ quyền phải được làm bằng văn bản, trong đó ghi rõ họ tên, chức vụ, nơi làm việc, giấy chứng minh của người được uỷ quyền, phạm vi uỷ quyền, thời hạn uỷ quyền. Các quy định về ký kết hợp đồng kinh tế trong đó được bổ khuyết bằng các quy định của Bộ luật dân sự song vẫn còn có một số điểm phải được bổ sung, hoàn thiện. Chẳng hạn, trong trường hợp bên đề nghị không nêu ra thời hạn trả lời thì họ có bị ràng buộc đối với lời đề nghị ký kết hợp đồng hay không ?. Theo chúng tôi trong việc thành lập hợp đồng kinh tế vấn đề này cần làm rõ. Cần có một quy định sau đây : Trong trường hợp bên đề nghị không chỉ rõ giới hạn thời hạn có hiệu lực cho việc chấp nhận đề nghị, thì bên đề nghị bị ràng buộc đối với lời đề nghị trong một khoảng thời gian hợp lý trên cơ sở xem xét điều kiện thị trường và tập quán ngành, trong mọi trường hợp khoảng thời gian này có mục đích làm cho bên đề nghị bị ràng buộc bởi lời đề nghị, nhưng sự ràng buộc chỉ có hiệu lực trong một khoảng thời gian dài vì giá cả hàng hoá, dịch vụ sẽ có biến động gây thiệt hại cho các bên. Các quy định về người đại diện ký kết hợp đồng kinh tế của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 và Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) có một số điểm chưa rõ ràng, không chính xác. Điều 5 Nghị định 17/HĐBT có đưa ra khái niệm đại diện hợp pháp của pháp nhân là người được bổ nhiệm hoặc được bầu vào chức vụ đứng đầu pháp nhân và đương giữ chức vụ đó. Nếu hiểu đại diện hợp pháp như vậy thì phải chăng những người đại diện theo uỷ quyền thì không phải là người đại diện hợp pháp ? khái niệm đại diện hợp pháp với cách hiểu như trên chỉ có trong Nghị định 17/HĐBT còn trong các văn bản pháp luật khác không thấy có. Vì thuật ngữ này gây ra khó khăn trong cách hiểu về đại diện hợp pháp trong các quan hệ cụ thể, nhất là trong các quan hệ với các tổ chức kinh tế nước ngoài vì có sự mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật. Do vậy, cần phải hiểu khái niệm đại diện một cách đầy đủ như trong các quy định của Bộ luật Dân sự (từ Điều 148 đến Điều 157). Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, cũng như các chủ thể hợp đồng kinh tế khác có thể uỷ quyền cho người khác ký kết hợp đồng kinh tế. Riêng ở phần này ta không còn thấy quy định hiện hành có khiếm quyết là không quy định rõ trách nhiệm đối với việc thực hiện hợp đồng là của người được uỷ quyền ký hay của ngươi đứng đầu pháp nhân. Các văn bản pháp luật hợp đồng kinh tế trước pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 quy định rất rõ: Thủ trưởng đơn vị ký kết có thể uỷ quyền cho người khác ký thay, nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm như chính mình ký. Có một vấn đề nữa phát sinh: Trong chế định uỷ quyền ký kết hợp đồng kinh tế có chấp nhận cả loại: Uỷ quyền theo vụ việc và uỷ quyền thường xuyên hay chỉ chấp nhận uỷ quyền theo vụ việc. Theo quan điểm của chúng tôi cần phải chấp nhận cả hai loại uỷ quyền này với điều kiện mỗi khi ký kết người được uỷ quyền phải xuất trình văn bản uỷ quyền để bên đối tác biết được phạm vi uỷ quyền của người được uỷ quyền. Tiếp đó, pháp luật cần quy định hiệu quả pháp lý của hợp đồng kinh tế do người không có thẩm quyền đại diện xác lập, thực hiện, cũng như hậu quả pháp lý của hợp đồng kinh tế do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá thẩm quyền đại diện. Tóm lại : Trình tự thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế là các cách thức, các bước, các hành vi mà các bên phải tiến hành nhằm xác lập một quan hệ hợp đồng có hiệu lực pháp lý. Vì vậy mỗi cách ký kết đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng của nó, lựa chọn cách nào là quyền của các chủ thể ký kết, song việc lựa chọn luôn luôn phải tính đến hiệu quả kinh tế, thời cơ kinh doanh.Các chủ thể có thể kết hợp. Cả hai phương pháp để xác lập một quan hệ hợp đồng kinh tế. 2.1.2. Thực trạng ký kết hợp đồng kinh tế . - Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng kinh tế. Như trên đã phân tích (mục 1,2,3 chươngI). Chủ thể của hợp đồng kinh tế là các bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế hoàn toàn bình đẳng, tự nguyện thoả thuận để xác lập và thực hiện những quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Theo Điều 2 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các bên sau đây : - Pháp nhân với pháp nhân - Pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Như vậy, chủ thể của hợp đồng kinh tế ít nhất một bên phải là pháp nhân còn bên kia có thể là pháp nhân hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh. Tại Điều 42 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế có ghi nhận: Các quy định của pháp luật này có thể áp dụng trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với người làm công tác khoa học - kỹ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ngư dân cá thể . Như vậy theo Điều 2, Điều 42 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế: Một hợp đồng được coi là hợp đồng kinh tế khi có ít nhất một bên là pháp nhân. Tronglúc đó chủ thể của hợp đồng dân sự có phạm vi rộng hơn: có thể là pháp nhân, cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác... và không bắt buộc phải có một bên là pháp nhân. Chủ thể của hợp đồng thương mại trùng với chủ thể của hợp đồng kinh tế, đó là khi ít nhất một bên là pháp nhân (có thể là thương gia hoặc không phải là thương gia tham gia quan hệ hợp đồng )nhưng có điểm không trùng trong trường hợp cá nhân, tổ hợp tác hộ gia đình là thương nhân ký hợp đồng với nhau.Vậy nếu cá nhân,tổ hợp hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh thương mại nhưng lại không phải là hợp đồng kinh tế vì không đáp úng được tiêu chí về chủ thể ít nhất có một bên tham gia quan hệ hợp đồng là pháp nhân. Một trong những hạn chế thường gặp khi ký kết hợp đồng kinh tế là các bên thường nhầm lẫn trong việc xác định chủ thể hợp đồng kinh tế. Ví dụ : Các bên thường nhầm lẫn hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa hai cá nhân là hợp đồng kinh tế, do đó căn cứ ký kết hợp đồng là Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và các văn bản hướng dẫn thi hành. Thực ra xét về mặt chủ thể đây là hợp đồng dân sự do đó, khi tranh chấp xảy ra phải do Toà án dân sự giải quyết theo thủ tục giải quyết các vụ án dân sự .Đây là một vấn đề thật khó lý giải khi quy định rằng hợp đồng do hai doanh nghiệp tư nhân ký kết, cũng như hợp đồng do hai cá nhân kinh doanh (theo Nghị định 66/HĐBT/ ngày 2/3/1992) ký kết đều không phải là hợp đồng kinh tế. Doanh nghiệp tư nhân và cá nhân kinh doanh (chúng chỉ khác nhau về thủ tục thành lập và hình thức tổ chức) do đó hợp đồng mà chúng ký kết với nhau phải được coi là hợp đồng kinh tế. - Ngoài ra, về mặt chủ thể hợp đồng kinh tế, các bên khi ký kết hợp đồng kinh tế thường mắc sai lầm không xét xử tư cách chủ thể tham gia ký kết hợp đồng kinh tế. Thông thường các nhà doanh nghiệp thường ít quan tâm đến vấn đề thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế, bởi vì nhiều khi tham gia ký kết hợp đồng là các bên đã biết nhau và các bên tin tưởng rằng họ đang đàm phán với những người có thẩm quyền trong việc ký kết, thực hiện hợp đồng kinh tế. Đôi khi, các bên (đặc biệt các bên đã quen biết nhau) thấy rằng họ không nên đặt vấn đề tìm hiểu về thẩm quyền của phía đối tác, không tôn trọng nếu đòi hỏi bạn hàng những chứng cứ xác nhận thẩm quyền của họ. Tuy nhiên, đây là một sai lầm thường mắc phải dẫn đến hợp đồng bị vô hiệu. Do đó, để tránh những hạn chế này khi quan hệ với các doanh nghiệp có hội đồng quản trị, tổng Giám đốc điều hành, Giám đốc tiếp thị v.v... hoặc doanh nghiệp tư nhân mà chủ doanh nghiệp không trực tiếp làm giám đốc doanh nghiệp bạn cần chú ý đến vấn đề thẩm quyền. Thẩm quyền của hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, Giám đốc điều hành, Giám đốc tiếp thị được quy định cụ thể trong điều lệ Công ty, còn thẩm quyền của Giám đốc doanh nghiệp tư nhân phụ thuộc vào hợp đồng, trách nhiệm được ký kết giữa chủ doanh nghiệp với người được thuê làm Giám đốc, đồng thời phụ thuộc vào điều lệ của doanh nghiệp. Để đảm bảo đúng quan hệ với người có thẩm quyền ký kết hợp đồng đều cần thiết là tìm hiểu bằng chứng về thẩm quyền của đơn vị đại diện. Khi tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế (khoản 1 Điều 5 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ). Đại diện hợp pháp gồm các đại diện theo pháp luật và đại diện theo uỷ quyền. - Đại diện theo pháp luật là người được bổ nhiệm hoặc bầu vào chức vụ đứng đầu chủ thể đó. Đối với doanh nghiệp tư nhân là chủ doanh nghiệp hoặc người được doanh nghiệp tư nhân thuê làm Giám đốc. Đối với cá nhân là chính người đó. Đối với hộ kinh tế cá thể là chủ hộ. - Đại diện theo uỷ quyền là ngườ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0004.doc
Tài liệu liên quan