Đề tài Thuế giá trị gia tăng và các giải pháp hoàn thiện hạch toán thuế giá trị gia tăng

MỤC LỤC

 

Lời mở đầu 1

Nội dung 2

I. Một số vấn đề cơ bản về thuế trị giá gia tăng 2

1. Bản chất của thuế 2

2. Thuế dưới chính quyền Cách mạng Việt Nam 2

3. Một số khái niệm chung về trị giá gia tăng và thuế trị giá gia tăng 4

4. Lịch sử phát triển của thuế trị giá gia tăng trên thế giới 7

II. Xây dựng mô hình thuế trị giá gia tăng ở Việt Nam 7

1. Tình hình áp dụng thuế doanh thu ở Việt Nam 7

2. Sự cần thiết phải đưa thuế trị giá gia tăng vào áp dụng tại Việt Nam 9

3. Điều kiện áp dụng thuế trị giá gia tăng ở Việt Nam 11

III. Hạch toán thuế GTGT 14

1. Chứng từ sử dụng 14

2. TK sử dụng hạch toán thuế GTGT 15

3. Phương pháp hạch toán 16

4. Sổ kế toán 17

IV. Thực trạng áp dụng thuế giá trị gia tăng và các giải pháp hoàn thiện hạch toán thuế giá trị gia tăng 18

1. Đánh giá kết quả thực hiện và những vấn đề rút ra 18

2. Các giải pháp hoàn thiện hạch toán thuế giá trị gia tăng 26

Kết luận 30

Danh mục tài liệu tham khảo 31

 

 

 

doc34 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1884 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thuế giá trị gia tăng và các giải pháp hoàn thiện hạch toán thuế giá trị gia tăng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t khẩu nên chưa tạo được môi trường thuận lợi cho việc hoà nhập với thông lệ khu vực quốc tế, chưa hỗ trợ hàng xuất khẩu giảm giá thành để có điều kiện thuận lợi trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 2. Sự cần thiết phải đưa thuế trị giá gia tăng vào áp dụng tại Việt Nam. Từ những phân tích trên, dễ thấy là đã rất tiến bộ nhưng thuế doanh thu cũng đã bộc lộ những hạn chế gây ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế thị trường, cho tới thời điểm này, một yêu cầu đặt ra là cần phải có một loại thuế mềm dẻo hơn thay thế cho thuế doanh thu. Lúc này trên thế giới đang áp dụng một loại thuế có tên là thuế trị giá gia tăng, thuế này được khai sinh từ Pháp, có nguồn gốc từ thuế doanh thu với một số ưu điểm chủ yếu sau; - Tránh được hiện tượng đánh thuế chồng lên thuế, phù hợp với nền kinh tế sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường. -Thuế trị giá gia tăng thuộc loại thuế đánh vào tiêu dùng, được áp dụng rộng rãi đối với mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm, hàng hoá hoặc được cung ứng dịch vụ, nên có thể tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. - Thuế tính trên giá bán hàng hoặc giá dịch vụ nên không phải đi sâu xem xét, phân tích về tính hợp lý , hợp lệ của các khoản chi phí, làm cho việc tổ chức quản lý thu tương đối dễ dàng hơn các loại thuế trực thu. - Thuế được hoàn đối với hàng xuất khẩu nên có tác dụng giảm chi phí đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh thuận lợi trên thị trường quốc tế. - Thuế trị giá gia tăng kết hợp với thuế nhập khẩu làm tăng giá đối với hàng nhập khẩu, có tác dụng tích cực bảo vệ sản xuất, kinh doanh hàng nội địa. -Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao. Việc khấu trừ thuế trị giá gia tăng được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã thúc đẩy ngươì mua phải đòi hỏi người bán xuất hoá đơn, ghi doanh thu đúng với hoạt động mua bán, khắc phục được tình trạng thông đồng giữa hai người mua và bán để trốn lậu thuế - Nâng cao được tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người nộp thuếViệc kiểm tra thuế trị giá gia tăng cũng có mặt thuận lợi vì đã buộc người mua, người bán phải lập và lưu trữ chứng từ hoá đơn đầy đủ, nên việc thu thuế tương đối sát thực tế hoạt động kinh doanh. - Việc khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện đại hoá chuyên môn hoá sản xuất, tích cực đầu tư mua sắm trang thiết bị mới để hạ giá thành sản phẩm Nhìn chung, trong các sắc thuế gián thu, thuế trị giá gia tăng được coi là phương pháp thu tiến bộ nhất hiện nay, được đánh giá cao và đạt được mục tiêu lớn của chính sách thuế như tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, đơn giản, trung lập. Tuy nhiên, cái gì cũng có tính hai mặt của nó và nhược điểm của trị giá gia tăng cũng chính xuất phát từ loại thuế này. Nhược điểm đầu tiên dễ thấy nhất là chi phí về quản lý. Để thực hiện tốt thuế trị giá gia tăng, công tác ghi chép hoá đơn, sổ sách kế toán của người nộp thuế phải rõ ràng, minh bạch. Do đó hầu hết các nước đang thực hiện thuế trị giá gia tăng đều phải sử dụng máy tính để bảo đảm chống thất thu thuế đạt hiệu quả và quản lý thu thuế được thuận lợi. Nếu không theo dõi và quản lý chặt chẽ, dễ xảy ra tình trạng phải hoàn thuế nhiều hơn là thu thêm được thuế. -Thuế trị giá gia tăng có ít thuế suất, nên người tiêu dùng có thu nhập cao hay thấp thường phải nộp thuế giống nhau, thuế mang tính luỹ thoái. - Giữa lý luận và thực tiễn, thuế trị giá gia tăng cũng có những điểm chưa được nhất quán., cách đánh thuế và khấu trừ thuế trị giá gia tăng như thế nào là hợp lý,như thế nào là thoả đáng? - Do thiếu tính linh hoạt mềm dẻo nên thuế TGGT không thật thích hợp với nền kinh tế mới bước đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia. -Thuế trị giá gia tăng với những ưu điểm rất lớn nhưng nhược điểm cũng không nhỏ, vì vậy đã bị phản ứng và không được chấp nhận một cách dễ dàng Ví dụ: ở Nhật Bản, thuế trị giá gia tăng mặc dù đã có đề xuất ban hành từ năm 1955, nhưng cho đến năm 1988 mới được Quốc hội Nhật Bản thông qua.Khi gia nhập khối Cộng đồng Châu Âu năm 1981, Hy Lạp đã đồng ý ban hành thuế tri giá gia tăng, nhưng lại tìm lý do để trì hoãn cho đến năm 1987 mới chính thức ban hành. Với hơn 100 nước áp dụng thuế trị giá gia tăng, đó là một con số không nhỏ nhưng rõ ràng là để đạt tới con số đó thì thuế này đã phải chịu sự phản đối gay gắt tứ các nước trên thế giới. Vì vậy nó đòi hỏi phải được nghiên cứu xem xét một cách kĩ lưỡng. 3. Điều kiện áp dụng thuế trị giá gia tăng ở Việt Nam. Một câu hỏi đặt ra là: liệu trị giá gia tăng có thể áp dụng ở Việt Nam ? Như đã nói ở trên thuế trị giá gia tăng có nhược điểm là thiếu tính linh hoạt, mềm dẻo, không thật sự thích hợp với nền kinh tế mới bước đầu bước sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Do đó điều kiện cần thiết để áp dụng thuế trị giá gia tăng ở Việt Nam là: - Các hoạt động sản xuất, kinh doanh, mua bán hàng hoá lớn phải thức hiện đầy đủ chế độ chứng từ, hoá đơn thuận tiện cho việc kiểm tra, xác định doanh thu tính thuế và khấu trừ thuế đối với từng cơ sở kinh doanh. - Trình độ cán bộ quản lý thu thuế được nâng cao về chứng từ hoá đơn, sổ kế toán thông thạo về chế độ quản lý, tính thuế khấu trừ thuế hoàn thuế trị giá gia tăng. Cơ quan thuế từng bước trang bị hệ thống máy vi tính, cán bộ ngày càng thông thạo về sử dụng các mạng máy tính, đạt hiệu quả cao. - Mở rộng diện thanh toán mua bán hàng hoá thông qua các tài khoản ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định doanh thu bán hàng, làm căn cứ cho việc tính thuế được chính xác. - ý thức tự nguyện tự giác chấp hành các luật thuế của các nhà doanh nghiệp từng bước được nâng lên theo phương châm tăng cường “đức trị” gắn với việc xử lý các vi phạm về thuế nghiêm minh theo phương châm “pháp trị”. - Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh và đưa dần việc thực hiện pháp luật vào nề nếp kỷ cương, cả trong nhận thức tư tưởng và trong hành động thực tế . Mỗi điều kiện đều có vai trò, vị trí quan trọng khác nhau, đồng thời có mối quan hệ bổ sung, hổ trợ lẫn nhau để việc triển khai luật thuế trị giá gia tăng được đồng bộ đạt hiệu quả tốt. Từ những vấn đề nêu trên, liên hệ với thực tế ở Việt Nam, câu hỏi đặt ra là chúng ta đã có đủ các điều kiện để áp dụng thuế trị giá gia tăng chưa? Nếu áp dụng thuế trị giá gia tăng, thì nên theo mô hình nào cho thích hợp với tình hình trước mắt và lâu dài ở Việt Nam. Câu trả lời không thể vội vàng, chủ quan, mang tính khẳng định một chiều mà cần được phân tích, cân nhắc trên nhiều quan điểm, cả thuận lợi và khó khăn, tìm ra một phương án tối ưu có thể chấp nhận được trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, có hai quan điểm trái ngược nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, hiện nay ở Việt Nam chưa có điều kiện và chưa nên áp dụng thuế trị giá gia tăng với các lý do cơ bản là : Nền kinh tế nước ta mới chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, sản xuất hàng hoá chưa phát triển đồng đều. Với thuế doanh thu hiện nay có nhiều thuế suất khác nhau, nếu chuyển sang hình thức thu có ít thuế suất(1 hoặc 3 - 4 thuế suất) sẽ phát sinh nhiều vấn đề. Vì vậy, nếu không có biện pháp xử lý thích đáng sẽ gây nhiều tác động đến nền kinh tế xã hội. - Hiện nay, tình trạng thức hiện chế độ hoá đơn sổ kế toán còn quá lỏng lẻo. Nhược điểm này không thể khắc phục nhanh chóng trong toàn bộ nền kinh tế, do vậy khó có cơ sở xác đáng để áp dụng việc khấu trừ tiền thuế trị giá gia tăng được đúng đắn. - Hệ thống văn bản pháp quy còn chưa hoàn chỉnh, đồng bộ và thiếu ổn định. Thiếu tổ chức cưỡng chế, hiệu lực pháp chế chưa cao. Trình độ cán bộ thuế tuy đã được bồi dưỡng, nâng cao nhưng về thực chất còn yếu, chưa đủ sức bảo đảm việc quản lý, thu thuế trị giá gia tăng. Quan điểm thứ hai lại cho rằng, chúng ta cần khẩn trương nâng cấp, sớm xây dựng và ban hành thuế trị giá gia tăng thay thế thuế doanh thu với các lý do: - Khắc phục các nhược điểm của thuế doanh thu, chủ yếu là tính trùng lặp và hệ thống quá phức tạp. - Thực hiện thuế trị giá gia tăng tự nó sẽ khuyến khích, thúc đẩy việc sử dụng chứng từ, hoá đơn, sổ kế toán, bảo đảm việc thu thuế ngày càng sát hơn với thực tế hoạt động của từng cơ sở, vừa khắc phục thất thu, vừa tránh lạm thu. - Thúc đẩy hoạch toán kinh tế, tứng bước loại bỏ các doanh nghiệp, các cơ sở làm ăn đạt hiệu quả thấp không đủ nộp thuế đảm bảo nền kinh tế xã hội phát triển lành mạnh nhanh chóng. - Việc xây dựng các văn bản pháp quy cần thiết và tổ chức hành chính đang từng bước triển khai và phát huy tác dụng sẽ tạo tiền đề cần thiết cho sự ra đời và phát huy tác dụng của trị giá gia tăng. Về cơ bản, loại ý kiến thứ hai phù hợp với quan điểm trong xây dựng thuế trị giá gia tăng ở nhiều nước. Nhà nước ta vẫn áp dụng và nghiên cứu đổi mới thuế trị giá gia tăng III.hạch toán thuế gtgt. 1. Chứng từ sử dụng. Chứng từ kế toán là cơ sở pháp lý của mọi số liệu ghi chép trong các sổ kế toán.Mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong đơn vị kế toán đều phải lập chứng từ.Chứng từ sử dụng để hạch toán thuế GTGT bao gồm: -Hoá đơn(GTGT)-ký hiệu: 01 GTKT-3LL:là loại hoá đơn sử dụng cho các tổ chức,cá nhân tính thuế theo phương pháp chiết khấu trừ,bán hàng hoá,dịch vụ với số lượng lớn. -Hoá đơn(GTGT)-ký hiệu: 01 GTKT-2LL:là loại hoá đơn sử dụng cho các tổ chức,cá nhân tính thuế theo phương pháp khấu trừ,bán lẻ hàng goá dich vụvới số lượng nhỏ. -Hoá đơn bán hàng-ký hiêu:02 GTKT-3LL:là loại hoá đơn sử dụngcho các tổ chức,cá nhân tính thuế thoe phương pháp trực tiếp,bán hàng hoá dịch vụ với số lượng lớn. -Hoá đon bán hàng-02 GTTT-2LL:là loại hoá đơn sử dụngcho các tổ chức,cá nhân tính thuế theo phương pháp trực tiếp,bán lẻ hàng hoá,dịch vụ với số lượng nhỏ. -Mẵu tờ khai,đăng ký,nộp thuế,quyết toán thuế GTGT:Các cơ sở kinh doanh hàng hoá,dịch vụ chịu thuế GTGT phải lập và gửi cho cơ quan thuế tờ khai tính thuế GTGT từng tháng kèm theobảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra theo mẫu quy định . 2. TK sử dụng hạch toán thuế GTGT. *TK 133 –“Thuế GTGT được khấu trừ “. Bên Nợ: -Số thuế GTGT được khấu trừ Bên Có: -Số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ -Kết chuyển số thuế GTGTđầu vào không được khấu trừ -Số thuế GTGT đầu vào đã hoàn lại Số dư bên Nợ: -Số thuế GTGTđầu vào còn được khấu trừ,số thuế GTGTđầu vào được hoàn lại nhưng ngân sách nhà nước chưa hoàn lại TK 133 có 2 tài khoản cấp 2: -TK 1331 - thuế GTGT được khấu trừ của hàng hoá ,dịch vụ -TK 1332- thuế GTGT được khấu trử của TSCD *TK 3331-“Thuế GTGT phải nộp” Bên Nợ: Số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ -Số thuế GTGT đã nộp vào ngân sách nhà nước -Số thuế GTGTđược trừ vào số thuế GTGTphải nộp -Số thuế GTGTcủa hàng bán bị trả lại Bên Có: -Thuế GTGT đầu ra: +Số thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng hoá ,dịch vụ đã tiêu thụ +Số thuế GTGT đầu ra phải nộp của hàng hoá,dịch vụ dùng để trao đổi biếu tặng ,sử dụng nội bộ +Số thuế GTGT phải nộp của thu nhập hoạt động TC,thu nhập hoạt động bất thường +Số thuế GTGTphải nộp của hàng hoá nhập khẩu Số dư bên Có: -Số thuế GTGT còn phải nộp cuối kỳ Số dư bên Nợ: -Số thuế GTGT đã nộp thừa vào ngân sách nhà nước TK 3331 có 2 TK cấp 2: -TK 33311-thuế GTGT đầu ra của hàng hoá ,dịch vụ tiêu thụ -TK 33312-thuế GTGT hàng nhập khẩu 3.Phương pháp hạch toán Sơ đồ kế toán thuế GTGT đầu vào được khấu trừ Sơ đồ kế toán thuế GTGT đầu ra 4. Sổ kế toán. chế độ kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp được thực hiện theo chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo quyết định số 1141 TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995 của bộ trưởng bộ tài chính và có bổ sung ba mẫu sổ sau đây: Sổ theo dõi thuế GTGT(mẫu số S01-DN): Sổ này chỉ áp dụng cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp và ghi sổ kế toán đơn. Đồng thời được sử dụng để phản ánh số thuế GTGT phải nộp, đã nộp, và còn phải nộp. Sổ chi tiết thuế GTGT được hoàn lại (Mẫu số S02-DN): Sổ này áp dụng cho các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ. Đồng thời được dùng để ghi chép phản ánh số thuế GTGT được hoàn lại, đã hoàn lại, và còn được hoàn lại cuối kì báo cáo. Sổ chi tiết thuế GTGT được miễn giảm (S03-DN): Sổ này áp dụng cho các cơ sở kinh doanh thuộc các nghành và các thành phần kinh tế. Đồng thời được sử dụng để ghi chép số thuế được miễn giảm cuối kì báo cáo IV. Thực trạng áp dụng thuế giá trị gia tăng và các giải pháp hoàn thiện hạch toán thuế giá trị gia tăng. 1. Đánh giá kết quả thực hiện và những vấn đề rút ra Kể từ ngày luật thuế giá trị gia tăng chính thức được ban hành , đến nay luật thuế này đã chính thức đi vào cuộc sống. Điều ghi nhận đầu tiên là luật thuế giá trị gia tăng đã bảo đảm các yêu cầu của bộ chính trị đề ra là không làm ảnh hưởng lớn đến các dự toán thu chi ngân sách nhà nước, ổn định thị trường không để xảy ra biến động lớn về tình hình giá cả làm ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân. Những hoang mang ban đầu của người dân về ảnh hưởng thuế sẽ làm tăng giá cả hàng hoá đã dần mất đi và thay vào đó là sự tin tưởng. Đến nay hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế vẫn ổn định và phát triển. Trong bối cảnh hiện nay nước ta đang là một nước phát triển ở một trình độ thấp, chắc chắn sẽ không tránh khỏi sự thua thiệt bị chèn ép thậm chí các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong nước có thể bị phá sản hàng loạt. Sự tự do và công bằng của môi trường kinh doanh không cho phép nhà nước bảo hộ trực tiếp các nhà đầu tư trong nước, vì vậy thuế được xem là giải pháp quá độ giúp các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong nước có được sự cân bằng trong cạnh tranh Luật thuế mới đã góp phần khuyến khích và ổn định sản xuất kinh doanh đẩy mạnh xuất khẩu và bảo hộ sản xuất trong nước. Do cơ chế khấu trừ hoặc hoàn thuế giá trị gia tăng đã tạo điều kiện cho các công trình đầu tư cơ bản giảm khoảng 10% so với trước đây áp dụng thuế doanh thu. Thêm vào đó toàn bộ thuế giá trị gia tăng của công trình xây dựng cơ bản được hạch toán riêng, không tính vào giá thành công trình như thuế doanh thu, vì vậy chi phí khấu hao tài sản cũng giảm thấp hơn. Các doanh nghiệp mua sắm tài sản cố định có thuế giá trị gia tăng đều được khấu trừ hoặc hoàn thuế. Ngoài ra, với những thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng, loại trong nước chưa sản xuất được phải nhập khẩu để đầu tư vào tài sản cố định theo dự án hay sử dụng trong doanh nghiệp thì không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng. Đối với các công trình đầu tư bằng vốn ODA không hoàn lại thì không chịu thuế giá trị gia tăng, còn nếu thuộc loại vốn ODA vay thì được hoàn thuế giá trị gia tăng trong thời gian ba ngày kể từ ngày nộp tờ khai. Từ ngày 1/1/1999 đã qui định giảm 50% mức thuế giá trị gia tăng đối với sản phẩm xây dựng cơ bản thì mức thuế giá trị gia tăng của doanh nghiệp xây lắp còn phải nộp sau khi khấu trừ đầu vào bình quân chỉ còn 1% đến 2% thấp hơn so với mức 4% khi nộp thuế doanh thu, thậm chí còn phải hoàn thuế cũng là giải pháp tích cực phù hợp với chủ trương kích cầu, giảm khó khăn tài chính đối với các doanh nghiệp xây lắp, từ đó cũng khuyến khích đầu tư hơn. Đối với hoạt động kinh doanh bất động sản giá tính thuế giá trị gia tăng được trừ giá trị đất thuộc đối tượng chịu thuế chuyển quyền sử dụng đất nhằm khuyến khích hoạt động đầu tư xây dựng nhà, cơ sở hạ tầng để bán hoặc cho thuê nhà, tạo điều kiện thuận lợi cho người có việc làm, có thu nhập thấp có nhà ở. Không những thế, thuế giá trị gia tăng cùng các chính sách khác đã khuyến khích tối đa xuất khẩu do đại bộ phận đều áp dụng mức thuế giá trị gia tăng xuất khẩu là 0%, tức được hoàn toàn bộ số thuế giá trị gia tăng đã nộp ở đầu vào và không phải nộp thuế giá trị gia tăng ở đầu ra. Việc áp dụng mức thuế suất như vậy đã làm giảm chi phí và do đó hạ giá thành hàng xuất khẩu, giúp các doanh nghiệp tập trung tìm nguồn hàng trong nước để xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá trên thị trường quốc tế.Chỉ riêng năm 1999 nhà nước đã hoàn gần 1.800 tỷ đồng thuế giá trị gia tăng, trong đó chủ yếu là hoàn thuế hàng hoá xuất khẩu. Đối với vật tư , nguyên liệu nhập khẩu để gia công hàng xuất khẩu cho nước ngoài không chịu thuế nhập khẩu, đồng thời cũng không chịu thuế giá trị gia tăng nên đã tạo điều kiện cho hoạt động gia công xuất khẩu phát triển.Vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng chịu thuế giá trị gia tăng xuất khẩu thì được kéo dài thời gian nộp thuế giá trị gia tăng ở khâu nhập khẩu là 9 tháng hoặc dài hơn nữa Trong thời gian đầu áp dụng những tiến bộ của thuế giá trị gia tăng đã dần phát huy và ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế nước ta, về cơ bản ta đã khắc phục được tình trạng “thuế đánh trên thuế”, tình trạng kinh doanh lỗ vẫn phải nộp thuế thay cho người tiêu dùng. Hơn nữa việc đưa thuế giá trị gia tăng vào cuộc sống còn là một điều kiện để đẩy nhanh quá trình hội nhập ngày cáng sâu sắc và toàn diện của nền kinh tế nước ta với nền kinh tế khu vực và nến kinh tế thế giới, góp phần cải thiện môi trường thu hút đầu tư trực tiếp của người nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên, nghiêm túc đánh giá kết quả đã đạt được trong thực hiện luật thuế giá trị gia tăng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, bản thân luật thuế giá trị gia tăng đã ban hành và gắn liền với nó là việc chỉ đạo thực hiện, đã bộc lộ những nhược điểm làm ảnh hưởng đến công tác quản lý nến kinh tế quốc dân ở những mức độ khác nhau. Trước hết, việc thu thuế giá trị gia tăng đối với hàng nhập khẩu ngay tại cửa ải là việc làm mâu thuẫn ngay với bản thân khái niệm về thuế giá trị gia tăng. Bởi lẽ, luật thuế trị giá gia tăng đã khẳng định: “thuế giá trị gia tăng là loại thuế đánh trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất lưu thông đến tiêu dùng”. Luật đã khẳng định như vậy song trên thực tế các doanh nghiệp nươc ta đang phải nộp thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng nhập khẩu ngay khi hàng mới về đến cảng, điều bất hợp lý hơn nữa là việc nộp thuế giá trị gia tăng đầu vào này được thu tính trên tổng trị giá lô hàng nhân với thuế suất chứ không phải tính trên trị giá tăng thêm như luật đã qui định. Trong khi đó, chưa một nhà kinh tế nào của Việt Nam và trên thế giới, chứng minh được rằng, toàn bộ giá CIF cộng thuế nhập khẩu của hàng nhập khẩu là giá trị tăng thêm của hàng hoá đó ! Đồng thời, trong thực tế điều này cũng không đem lại hiệu quả gì lớn cho việc tăng nguồn thu của ngân sách nhà nước, ngoại trừ ngân sách nhà nước có thể chiếm dụng được của một số doanh nghiệp số tiền nhất định trước khi hoàn thuế. Giải thích về sự vô lý này,có ý kiến cho rằng đó là chính sách bảo hộ hàng sản xuất trong nước. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng nếu sử dụng thuế như một giải pháp bảo hộ và bảo vệ tuyệt đối trước sự cạnh tranh của hàng nhập thì sẽ là sai lầm vô cùng quan trọng. Bởi vì trong trường hợp cứ duy trì các doanh nghiệp lạc hậu về thiết bị, làm ăn kém hiệu quả, tạo ra mặt hàng không thoả mãn yêu cầu lợi ích xã hội thì chính sách thuế theo hướng này được coi là giải pháp “tự sát” của nền kinh tế. Chính vì sự duy trì này sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách thậm chí nhà nước phải bù lỗ cho các doanh nghiệp trong nước ngày càng lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước. Sự bao cấp sẽ dẫn đến thủ tiêu cạnh tranh và có nghĩa là thủ tiêu động lực thúc đẩy xã hội phát triễn. Do đó, bảo hộ sản xuất trong nước là cần thiết và có nhiều biện pháp, chính sách thuế không phải là biện pháp duy nhất. Thứ hai, sự tồn tại song song hai phương pháp xác định thuế giá trị gia tăng là phương pháp trực tiếp và khấu trừ, tương ứng với hai phương pháp đó là hai loại hoá đơn đã làm mất tính thống nhất của luật thuế này. Quan trọng hơn là một trong những mục tiêu lớn đã được đề ra khi thực hiện luật thuế giá trị gia tăng là “bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh trong nền kinh tế", đã không thực hiên được do sự tồn tại hai phương pháp tính thuế giá trị gia tăng và hai loại hoá đơn nêu trên. Thứ ba, từ 11 mức thuế suất của thuế doanh thu, giảm xuống còn bốn mức thuế suất trong thuế giá trị gia tăng, không ít những doanh nghiệp trong cả nước có số thuế giá trị gia tăng phải nộp cao hơn nhiều lần so với thuế doanh thu trước đây. Do chưa thể chuyển đổi kịp, nhưng doanh nghiệp này đã bị thu lỗ, gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh.Từ đó “những giải pháp tình thế “ hay là “ những bước lùi sách lược” như giảm thuế giá trị gia tăng cho một số sản phẩm hàng hoá, mở rộng phạm vi được khấu trừ thuế đầu vào với những tỷ lệ khấu trừ khác nhau, đã được áp dụng. Các giải pháp tình thế nêu trên được giải quyết bằng các văn bản dưới luật như nghị định của chính phủ, thông tư hướng dẫn của bộ tài chính , các công văn hướng dẫn của tổng cục thuế . Do đó, cho đến nay hệ thống hướng dẫn thi hành luật thuế giá trị gia tăng đã rơi vào tình trạng chồng chéo chắp vá và khó hiểu.Trong các thông tư hướng dẫn thi hành luật thuế giá trị gia tăng, có những thông tư thiếu thực tế, gây khó khăn cho các doanh nghiệp.Trong đó thông tư số 72/1999/TT-BTC . Cũng từ chính sách chế độ thuế còn nhiều chỗ chưa hợp lý như thế suất thuế biểu quá phức tạp, chi li , không phù hợp với thực tiễn và khả năng đóng góp của các tầng lớp dân chủ chưa thực sự bảo đảm công bằng giữa các ngành , mà trên thực tế không có điều kiện phân biệt rõ ràng để vận dụng đúng thuế suất, tạo khe hở cho việc vận dụng tuỳ tiện, tiêu cực. Kinh nghiệm chung cho thấy, thuế suất càng cao càng thúc đẩy người nộp thuế dở mọi thủ đoạn trốn lậu thuế . Việc qui định miễn giảm thuế tràn lan, làm sói mòn luật thuế gây nhiều khó khăn cho việc xác định các trường hợp xem xét miễn giảm thuế, dễ tạo vận dụng tuỳ tiện, gây thất thu thuế. Thực tế đã có rất nhiều doanh nghiệp cố tình áp dụng “nhầm” tỷ suất thuế với các mặt hàng để trốn lậu thuế. Thứ tư, các quy trình hành thu của thuế giá trị gia tăng hoàn toàn khác so với thuế doanh thu trước đây. Do chưa được chuẩn bị đầy đủ và việc trang bị kỹ thuật còn quá thiếu, không ít cơ quan thuế cấp tỉnh và thành phố tỏ ra lúng túng. Đặc biệt, công tác hoàn thuế trong một thời gian dài thực hiện quá chậm, tạo ra những khó khăn không đáng có về vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc và đã gây ra những phản ứng ( có lúc, có nơi khá gay gắt) của các doanh nghiệp. Thủ tục hoàn thuế và thời gian hoàn thuế không đúng theo luật. Ngành thuế còn gây nhiều phiền hà cho doanh nghiệp, nhiều văn bản và quy định của ngành hải quan ngành thuế không tiềm hiểudo đó gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Hồ sơ hoàn thuế tưởng chừng rất đơn giản nhưng đơn vị phải chạy đi chạy lại nhiều lần mới có thể hoàn tất được bộ hồ sơ hợp lệ có đủ tám chữ ký. Tuy nhiên một tiến bộ lớn trong cải cách hành chính là ngành huế đã thực hiên nguyên tắc”hoàn thuế trước, kiểm tra sau”. Thay đổi này là sự ưu ái đối với các nhà sản xuất kinh doanh và sự tin tưởng cao ở tính trung thực, chuẩn xác của bộ máy kế toán doanh nghiệp. Theo nhận định của các chuyên gia thuế đây là “cơ hội vàng” cho những kẻ gian lợi dụng để chiếm đoạt tiền của ngân sách nhà nước(nếu bị phát hiện sẽ hoàn lại tiền sau, còn nếu không bị phát hiện thì sẽ chiếm đoạt luôn). Thứ năm, môi trường pháp lý cho kinh doanh chưa thay đổi kịp và thực sự phù hợp với yêu cầu của việc thực hiện luật thuế giá trị gia tăng. Trên thực tế, vẫn còn tồn tại và phát sinh thêm các dạng sai phạm, gian lận thuế giá trị gia tăng đáng được quan tâm và cần được chỉ rõ để khắc phục. Sai phạm và thủ đoạn gian lận thuế có ở tất cả các loại hình doanh nghiệp. Dưới đây là một số vi phạm mà các ngành chức năng và nhất là hệ thống ngành thuế phát hiện được. Chẳng hạn hiện nay còn khá nhiều doanh nghiệp, hộ kinh doanh cố tình không phát hành hoá đơn khi bán hàng, lợi dụng thuế giá trị gia tăng để nâng giá, phát hành hoá đơn khống (không có hàng bán) bán cho doanh nghiệp khác để được khấu trừ đầu vào, tình trạng mua bán hoá đơn trên thị trường không những không giảm mà còn có biểu hiện tăng so với khi thực hiện thuế doanh thu. Về mặt giá trị, một đồng tiền hôm nay có giá trị hơn một đồng tiền trong tương lai và ngược lại, bởi vì đồng tiền có khả năng tự sinh lời. Chính vì vậy mà các đối tượng nộp thuế, các nhà tư vấn khai thác thuế khai thác triệt để khía cạnh này bằng cách đi chiếm dụng vốn của khách hàng của các đối tượng khác và ngân sách nhà nước. Ngoài các lý do để dây dưa chậm nộp bằng cách này hay cách khác, đơn vị còn có các thủ thuật rất tinh vi trong nghiệp vụ hạch toán kế toán để có thể phản ánh doanh thu tính thuế không sát với thực tế, từ đó có thể chậm nộp các khoản phải nộp ngân sách của mình.. Ghi chép không trung thực giữa các liên trong cùng một số hoá đơn (liên giao cho khách hàng thì ghi đúng thự tế mua bán còn liên lưu để tính thuế thì ghi rất thấp về doanh số và mức thuế đầu ra). Chế độ tài chính hiện nay cho phép các đơn vị làm ăn có hiệu quả được tính khấu hao theo khế ước, chính việc đó tạo điều kiện cho đơn vị nhanh cải tiến kinh tế, tránh hao mòn vô hình, nhưng đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp được giảm một phần thuế lợi tức phải nộp trong hiện tại. Đặc biệt, do diện d

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1527.doc
Tài liệu liên quan