Đề tài Tìm hiểu giá trị nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh tại khu di tích lịch sử K9 – Đá Chông

Người quý trọng sức dân, của dân; trọng người tài, đức, trân trọng "người

tốt, việc tốt" dù rất nhỏ".Người trân trọng từng ý kiến của dân, lắng nghe

dân, học hỏi dân, bàn bạcvới dân, tự phê bình trước dân, trả lời ý kiến

của dân, tôn trọng và chấp hành nghiêm minh pháp luậtNgay sau khi

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Người đề ra những nhiệm

vụ cấp bách là diệt giặc đói và diệt giặc dốt cùng với việc chống giặc

ngoại xâm. Trước mắt phải xóa đói nghèo, làm cho kinh tế phát triển "làm

cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu và người khá giàu thì

giàu thêm" (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, t5, tr65). Kinh tế

có phát triển, đời sống đồng bào có ấm no thì đất nước mới cường thịnh.

Người từng nói: Tôi thấy các cháu bụng ỏng, mắt choẹt, tôi hết sức đau

lòng". Người yêu cầu những người lãnh đạo chính quyền phải chăm lo

đến đời sống nhân dân, phải chăm lo từ việc "tương cà, mắm muối của

dân", không được áp bức quần chúng nhân dân.

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2510 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu giá trị nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh tại khu di tích lịch sử K9 – Đá Chông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g làm nơi nghỉ và làm việc của Bác và Trung ương. Ngôi nhà khách Ngôi nhà mái ngói 2 tầng là nơi dành cho các đồng chí trong Bộ Chính trị và Trung ương Đảng lên làm việc và nghỉ ngơi. Phía sau ngôi nhà có căn hầm đặt tổng đài điện thoại của Cục Bưu điện Trung ương phục vụ Bác và Trung ương làm việc tại đây. Sân bay trực thăng Bãi đất bằng phẳng ngay sát chân đỉnh U Rồng được xây dựng làm sân bay trực thăng. Bác đã đi máy bay trực thăng lên Đá Chông 2 lần (một lần lên khánh thành ngôi nhà 2 tầng và một lần đi cùng với Anh hùng vũ trụ Liên Xô G.M Ti - tốp). Những năm giữ gìn thi hài Bác tại Đá Chông, nhiều lần các đồng chí lãnh đạo Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Tham mưu đã đi máy bay trực thăng lên kiểm tra tình hình khu vực. - Những hiện vật gắn liền với thời kỳ giữ gìn thi hài Bác tại Đá Chông Nhà kính và công trình giữ gìn thi hài Bác trong những năm chiến tranh. Nhà kính và công trình giữ gìn thi hài Bác được cải tạo, thi công vào cuối năm 1969m, ngay sau khi Bộ Chính trị quyết định giữ gìn thi hài Bác tại K9. Nhà kính gồm 2 tầng với tổng diện tích là 628 m2. Tầng 1 gồm phòng họp, phòng khách và bếp. Tầng 2 có 3 phòng: Phòng sinh hoạt chung và 2 phòng ở của chuyên gia y tế Liên Xô. Công trình giữ gìn thi hài Bác được xây ốp gạch men trắng, có hệ thống điều hoà thông gió và phòng làm thuốc đặc biệt. Trong phòng đặt hòm kính (do Xưởng 49, Bộ Tư lệnh Công binh thi công). Ngoài phần nổi còn phần ngầm của công trình. Những chiếc xe tham gia di chuyển thi hài Bác Xe UAZ cứu thương biển số FH-1468 tham gia di chuyển thi hài Bác từ những buổi đầu. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, chiếc xe này do đồng chí Nguyễn Văn Hợp lái đã đưa thi hài Bác từ ngôi nhà 67 - cạnh nhà sàn của Bác trong Phủ Chủ tịch về Công trình 75A trong Quân y viện 108. Sau đó lại tiếp tục đưa thi hài Bác từ công trình 75A về công trình 75B (Hội trường Ba Đình) để phục vụ Lễ Quốc tang. Tháng 5 năm 2007, bệnh viện Trung ương Quân đội đã thống nhất giao xe cứu thương cho Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh làm hiện vật tại Khu di tích Đá Chông. Xe Zin 157 biển số 470-189 được Tổng cục Kỹ thuật cải tiến máy, bệ gầm, bộ nhíp đáp ứng yêu cầu kỹ thuật khi di chuyển. Trong 6 năm chiến tranh, chiếc xe này đã trực tiếp di chuyển thi hài Bác từ Hà Nội lên K84 cũng như từ K84 về Hà Nội. Xe Páp lội nước, biển số 31-162 đã đưa thi hài Bác vượt sông an toàn, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ di chuyển thi hài Bác trong những năm chiến tranh. - Những hiện vật được tôn tạo, xây dựng từ sau năm 1975 đến nay Nơi tưởng niệm Bác và cầu thang sắt tại ngôi nhà 2 tầng Thể theo nguyện vọng của cán bộ, nhân dân khi tới thăm quan Khu di tích, ngày 17 tháng 4 năm 1995 (tức ngày 18 tháng 3 năm Ất Hợi), đơn vị đã lập bàn thờ Bác tại ngôi nhà Người đã sống và làm việc. Hai năm sau, ngày 8 tháng 5 năm 1997, đơn vị đã đúc pho tượng bằng đồng và tôn tạo nơi tưởng niệm Bác tại ngôi nhà này. Năm 1997, để phục vụ cán bộ, nhân dân tham quan tầng 2 của ngôi nhà được thuận lợi, đơn vị đã xây dựng cầu thang sắt ở phía sau ngôi nhà. Khi khách tham quan xong, sẽ theo cầu thang này đi xuống. Các mỏm Đá Chông Khu vực 3 mỏm Đá Chông chính là địa điểm mà ngày 23 tháng 2 năm 1958, Bác Hồ và Đoàn cán bộ lên kiểm tra khu vực Đá Chông đã nghỉ trưa ăn cơm tại đây. Ngay dưới vị trí 3 mỏm Đá Chông có một phiến đá tương đối bằng phẳng, còn lại đường đi đến và quanh khu vực rất dốc. Năm 1996, đơn vị đã tiến hành tôn tạo, xây dựng tường bao quanh để tạo nơi bằng phẳng cho mọi người khi đến tham quan Khu di tích. Hệ thống đường sá Năm 1986, đơn vị tiến hành kè hồ Khu B, dải nhựa các con đường trong Khu di tích và xây dựng đường phía Tây ngôi nhà 2 tầng tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người đi tham quan toàn bộ Khu di tích. Ngôi nhà ngói 2 tầng dành cho Trung ương lên làm việc, nghỉ ngơi Ngôi nhà này từ năm 2001 đã được cải tạo nội ngoại thất làm các phòng nghỉ phục vụ các đoàn khách đến tham quan tại Khu di tích. Bê phải nhà 2 tầng là bể bơi phục vụ cho nhiệm vụ huấn luyện chiến sĩ mới và là nơi dự trữ nước để phòng chống cháy rừng. Khu huấn luyện, rèn luyện bộ đội Phía Đông sân bay trực thăng những năm gần đây đã được xây dựng các công trình phục vụ nhiệm vụ huấn luyện, rèn luyện sức khoẻ cho bộ đội. Công trình gồm 3 ngôi nhà, sân thể thao và bãi vật cản. Công trình phòng chống cháy rừng Năm 2006, để đáp ứng yêu cầu phòng chống cháy rừng, đơn vị đã báo cáo và được trên đồng ý cho xây dựng công trình phòng chống cháy rừng tại phía Bắc của Khu di tích. Công trình gồm bể chứa nước, hệ thống đường ống nước và nơi bảo vệ, quan sát, phát hiện phục vụ phòng chống cháy rừng. 2. Khái quát về tư tưởng Hồ Chí Minh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của Người – một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Việt Nam mà còn có ý nghĩa to lớn đối với thế giới, phản ánh khát vọng thời đại, tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng loài người…(viết thêm) 3.Giá trị nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh qua di tích K9-Đá Chông Nhắc đến Hồ Chí Minh là chúng ta liên tưởng ngay đến tư tưởng nhân văn.Hồ Chí Minh là người trong suốt đời mình tìm kiếm giá trị con người.Một trong những cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh đối với loài người là chủ nghĩa nhân văn về Con người được thể hiện rõ nét mang đậm tính dân tộc Thật vậy ,Hồ Chí Minh luôn đề cao giá tri con người, coi con người là vốn quý nhất Chủ tịch Hồ Chí Minh dành tất cả tình thương yêu cho dân tộc ViệtNam- 1 dan tộc bị áp bức bóc lột Khi trở thành lãnh tụ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người không màng danh lợi cá nhân, suốt đời chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, cho sự trường tồn của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Qua việc tìm kiếm và xây dựng khu căn cứ K9 – Đá Chông nói riêng hay các khu căn cứ khác, ta thấy được rằng Bác ko bao giờ nghĩ về bản thân mình, lúc nào cũng chỉ nghĩ tới nhân dân ,luôn tìm mọi cách để giải phóng cho dân tộc mình. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao quát toàn bộ Cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, đem lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Như vậy suốt cuộc đời Bác,Tư tưởng nhân văn đó được kết tinh thành một tuyên ngôn bất hủ không chỉ đối với nhân dân Việt Nam mà còn đối với toàn thể loài người tiến bộ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do.” Để thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam là "Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội". Giải phóng dân tộc là mục tiêu số một khi đất nước còn nô lệ. Vì vậy, ham muốn tột bậc của Người là "làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do" . “Độc lập, tự do” trở thành bản chất cao quý trong tư tưởng nhânvăn Hồ Chí Minh, trở thành ngọn cờ chiến đấu và mục tiêu suốt đời hy sinh, cống hiến của Người. Bởi đó là điều kiện tiên quyết đem lại hạnhphúc và tiến bộ cho nhân dân Việt Nam. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh vô cùng rộng lớn, nhưng tựu chung lại vẫn là tình yêu thương con người. Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh đã trở thành lẽ sống của Người, yêu thương con người gắn với tin ở con người, dùng sức của con người để giải phóng cho con người, vì con người và phục vụ con người. 3.1Thương yêu con người, quan tâm tới người khác Lúc nào cũng vậy Hồ Chi Minh luôn luôn quan tâm đến người khác, Người không bao giờ chăm lo cho bản thân mình, Bác quan tâm tới mọi người từ những chi tiết nhỏ đến những việc lớn.Bác lo các đồng chí làm việc nặng nhọc, Vậy nên vừa để bí mật, vừa là chỗ để các đông chí nghỉ ngơi,sau khi Bác chọn được K9, chính Bác duyệt thiết kế và cho xây dựng ngôi nhà 2 tầng ở Đá Chông cho Trung ương hội họp và nghỉ ngơi. Khi ta gọi một cách thân thuộc là nhà của Bác thì đã hiểu đó là nhà dành cho Trung ương Đảng.Ngôi nhà hai tầng mái ngói đỏ có hàng cột tròn chạy xung quanh trông gần giống như ngôi nhà sàn trong Phủ Chủ tịch. Bác rất quan tâm tới mọi người mặc dù bận rất nhiều việc nhưng Bác vẫn bỏ chút thời gian đi thăm mọi người .Sáng ngày 28 tháng 1 năm 1960 (tức ngày mồng một Tết Canh Tý), Bác Hồ lên Đá Chông thăm và chúc Tết cán bộ, chiến sĩ bảo vệ và công nhân làm việc trên công trường. Biết một số anh em công nhân là người miền Nam rất nhớ nhà, Bác căn dặn: "Các cô, các chú nhớ miền Nam thì phải làm việc bằng hai để xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc". Ở Đá Chông này còn rất nhiều những hiện vật đều là hiện vật gốc, là những đồ dùng được chính tay Bác lựa chọn, sử dụng lúc sinh thời, gắn liền với những năm tháng Bác sống tại đất thiêng K9. Thượng úy Phạm Hồng Sang, phụ trách quản lý di tích ở khu vực Đá Chông, kể: “Bác quan tâm đến những thứ nhỏ nhất. Ngay chuyện thiết kế cửa cho phòng họp của Bộ Chính trị, Bác cũng bảo phải làm cửa đẩy chứ không dùng cửa đóng then cài nhằm tiết kiệm diện tích. Con đường xung quanh nhà sàn thì Bác dặn trải sỏi để vừa chống trộm vừa để khỏe chân cho người đi dạo”. Con người Bác, cuộc sống của Bác thật giản dị, luôn chăm lo cho mọi người, Bác sống một cuộc sống của người bình thường giản dị, không bị chi phối bởi tiện nghi cầu kỳ. Việc gì Bác tự làm được thì không cần người giúp, cho nên bên cạnh Bác, người giúp việc và phục vụ có thể đếm trên đầu ngón tay. Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng chỉ rõ: Điều rất quan trọng cần phải làm nổi bật là sự nhất quán giữa đời hoạt động chính trị long trời chuyển đất với đời sống bình thường vô cùng giản dị và khiêm tốn của Hồ Chủ tịch. Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh xuất phát từ tình yêu thương của những người đồng cảnh ngộ, mất nước, bị nô lệ, cùng chung số phận bị áp bức bóc lột, đi tìm lối thoát cho dân tộc. không chung chung, trừu tượng kiểu tôn giáo, mà luôn luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản, dành cho các dân tộc và con người bị áp bức, đau khổ. Khi bôn ba nơi hải ngoại, chứng kiến cảnh bị áp bức bóc lột của công nhân, của nhân dân lao động các nước Tư bản Chủ nghĩa, chứng kiến cảnh bị áp bức của nhân dân các thuộc địa khác, tình yêu thương con người ở Người mở rộng sang yêu thương những người cùng cảnh ngộ, những người lao động nghèo đói, những người thuộc các dân tộc Việt Nam. Xuất phát từ tình yêu thương ấy mà Người đã đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc, giải phóng khỏi mọi áp bức, bất công. Mục tiêu của Hồ Chí Minh đã từng nói rõ trong lời ra mắt của báo Người cùng khổ (Le Paria) năm 1921: "đi từ giải phóng những người nô lệ mất nước, những người lao động cùng khổ đến giải phóng con người". Hồ Chí Minh thương yêu con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la rộng lớn, vừa gần gũi thân thương đối với từng số phận con người. Hồ Chí Minh luôn sống giữa cuộc đời và không có cái gì thuộc về con người đối với Hồ Chí Minh lại là xa lạ. Người quan tâm đến tư tưởng, công tác, đời sống của từng người, việc ăn, việc mặc, ở, học hành, giải trí của mỗi người dân, không quên, không sót một ai, từ những người bạn thuở hàn vi, đến những người quen mới. Tình thương yêu con người ở Hồ Chí Minh luôn gắn liền với hành động cụ thể, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho con người.Với mục tiêu được xác định, Người trở về nước thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách áp bức của thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Với đường lối đúng đắn mà Người đề ra, tập hợp, đoàn kết toàn dân tộc vào một Mặt trận thống nhất và tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế, nhân dân ta đã đánh đuổi đế quốc thực dân, giải phóng dân tộc, nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất và xây dựng cuộc sống mới. Luôn thương yêu con người, nên Hồ Chí Minh luôn khát khao hòa bình, một nền hòa bình thật sự, trong độc lập, tự do. Trước cách mạng, trong kháng chiến, Hồ Chí Minh luôn có thái độ nghiêm túc thận trọng đối với vấn đề khởi nghĩa, tranh thủ khả năng phát triển hòa bình để hạn chế sự đổ máu cho nhân dân ta và nhân dân các nước. Lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Người chủ trương chủ yếu sử dụng bạo lực chính trị. Đó là cuộc cách mạng ít đổ máu nhất. Sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được để tránh cuộc chiến tranh Việt - Pháp. Nhưng khi bọn thực dân hiếu chiến quyết gây ra chiến tranh để buộc dân ta sống kiếp đời nô lệ, mất nước thì Hồ Chí Minh kêu gọi cả dân tộc đứng lên chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì nền hòa bình và phẩm giá của nhân loại tiến bộ. Hồ Chí Minh coi sinh mạng con người là quý giá nhất. Theo Người, "không có một trận đánh đẫm máu nào là "đẹp" cả, mặc dù thắng lớn. Người quý trọng sức dân, của dân; trọng người tài, đức, trân trọng "người tốt, việc tốt" dù rất nhỏ".Người trân trọng từng ý kiến của dân, lắng nghe dân, học hỏi dân, bàn bạcvới dân, tự phê bình trước dân, trả lời ý kiến của dân, tôn trọng và chấp hành nghiêm minh pháp luậtNgay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Người đề ra những nhiệm vụ cấp bách là diệt giặc đói và diệt giặc dốt cùng với việc chống giặc ngoại xâm. Trước mắt phải xóa đói nghèo, làm cho kinh tế phát triển "làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu và người khá giàu thì giàu thêm" (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, t5, tr65). Kinh tế có phát triển, đời sống đồng bào có ấm no thì đất nước mới cường thịnh. Người từng nói: Tôi thấy các cháu bụng ỏng, mắt choẹt, tôi hết sức đau lòng". Người yêu cầu những người lãnh đạo chính quyền phải chăm lo đến đời sống nhân dân, phải chăm lo từ việc "tương cà, mắm muối của dân", không được áp bức quần chúng nhân dân. Người chăm lo đến việc nâng cao dân trí, chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ, phát triển giáo dục. Người từng nói "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Người yêu cầu đảng cầm quyền phải chăm lo đến nâng cao trình độ học vấn cho nhân dân, chăm lo phát triển mọi mặt của dân tộc ta. Người thường nói chế độ thực dân đã dùng mọi thủ đoạn ngu dân để đầu độc dân tộc ta, để hủ hóa nhân dân ta bằng những thói xấu như lười biếng, gian xảo, tham ô. Cho nên phải làm sao để dân tộc Việt Nam trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập, "sánh vai với các cường quốc năm châu". Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh không chỉ giới hạn ở nhân dân Việt Nam mà ở tình bác ái bao la. Người từng vạch rõ: "Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ... Phải thực hành chữ Bác-Ái" (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, t5, tr644). Người còn nói "Lòng yêu thương của tôi đối với nhân dân và nhân loại không bao giờ thay đổi" và trước lúc đi xa, Người viết "Đầu tiên là vấn đề con người" và "Cuối cùng tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế".Chăm lo, bồi dưỡng, phát huy sức mạnh của con người, tin tưởng vững chắc vào khả năng và phẩm giá tốt đẹp của con người. Cách mạng Tháng Tám thành công, tại cuộc họp đầu tiên của ủy ban nghiên cứu kế hoạch, kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ mục tiêu của Nhà nước là: "Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành". Người còn nói: "Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi... Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì . Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ" Tình thương là động lực của cuộc sống, đoàn kết là sức mạnh của cộng đồng, dân tộc. Đấy là chân lý cao đẹp nhất trong cuộc đời Hồ Chí Minh. Trong Di chúc Bác đã “để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh thiếu niên, nhi đồng. 3.2 /Coi trọng con người, tin vào sức mạnh, phẩm giá và tính sáng tạo của con người Trong xây dựng nền văn hoá dân tộc của một xã hội tốt đẹp, Hồ Chí Minh hết sức coi trọng yếu tố tâm lý con người, xây dựng yếu tố này được coi là số 1, sau đó mới đến “xây dựng luân lý, xây dựng xã hội, xây dựng chính trị, xây dựng kinh tế “(Hồ Chí Minh, 1943)(13), coi trọng tâm tư, ước vọng, nhu cầu của con người. Chủ tịch đã cống hiến cả đời mình mong sao nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Mục tiêu của cách mạng là “tất cả vì con người”. Người luôn biết rằng vai trò của con người là rất quan trọng đối với cách mạng vì vậy Người tìm cách gần dân để hiểu dân.Ngay cả vào những ngay sinh nhật của mình Người không lấy đấy để tự thưởng cho mình mà Người tận dụng thời gian rảnh rỗi đấy để thăm nom mọi người, tiếp xúc người dân . Hai lần sinh nhật Bác (19-5), để tránh tổ chức rình rang nếu ở lại thủ đô, Người lại lên Đá Chông. Ngày 19-5-1963, anh em trong tổ bảo vệ và phục vụ Bác tại Đá Chông có ý định lên nhà sàn chúc thọ Bác, chưa kịp đi thì ngay từ sáng sớm, Người đã xuống tận nơi hỏi thăm, động viên anh em.Các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng lên chúc thọ Bác. Bác cùng đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Phạm Văn Đồng ăn cơm trưa, trao đổi công việc. Sau đó, Bác và các đồng chí trong Bộ Chính trị đã đi thăm một số xã và gia đình ở trong khu vực, như : Bác đã tới xóm Đồi thăm gia đình cụ Cẩm, đến thăm xóm Sung và thăm xã Đồng Luận, huyện Thanh Thuỷ, Phú Thọ, thăm xóm Đồi, xã Thuần Mỹ.Buổi chiều hôm đó, Bác và các đồng chí trong Bộ Chính trị trở về Hà Nội. Những lần sinh nhật khác, Bác lên K9 dùng bữa với những đồng chí trong Bộ Chính trị, qua sinh nhật, Bác về lại Hà Nội. Hay như những buổi tiếp các vị khách nước ngoài, Người luôn thể hiện những tình cảm thắm thiết nhất, dù là cán bộ bình thường, hay các vị cán bộ cấp cao, ai ai cung x được Bác đón tiếp như một "nguyên thủ quốc gia", một người đồng chí, một người anh em.Ví dụ như : Đầu tháng 3 năm 1961, Bác Hồ cùng đồng chí Hà Vĩ, Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam lên thăm Đá Chông, đồng thời chuẩn bị đón Đoàn đại biểu Phụ nữ Trung Quốc sang thăm và dự Đại hội Phụ nữ Việt Nam lần thứ III. Ngày 13 tháng 3 năm 1961, Bác Hồ cùng Đoàn đại biểu Phụ nữ Trung Quốc do bà Đặng Dĩnh Siêu dẫn đầu lên thăm khu vực Đá Chông. Cùng đi có đồng chí Hà Vĩ, đồng chí Lương Phong (phiên dịch) và một nữ thư ký. Tại đây, bà Đặng Dĩnh Siêu đã trồng hai cây quýt mang từ Trung Quốc sang. Bác và bà Đặng Dĩnh Siêu trồng cây ngọc lan trong khu vườn. Trưa hôm đó, Bác Hồ mời Đoàn đại biểu Phụ nữ Trung Quốc dùng cơm tại nhà khách ở Đá Chông và chụp ảnh lưu niệm với đoàn. Ngày 24 tháng 1 năm 1962, Nhận lời mời của Trung ương Đảng và Nhà nước ta, Đoàn cán bộ Quân đội Liên Xô do Anh hùng phi công vũ trụ G.M Ti-tốp dẫn đầu sang thăm Việt Nam. Đoàn đã được đón tiếp nồng nhiệt. Bác đã cùng đồng chí G.M Ti-tốp đi thăm nhiều nơi, Anh hùng vũ trụ G.M Ti-tốp đã trồng cây vàng anh trước ngôi nhà 2 tầng. Bác Hồ và đoàn cán bộ quân đội Liên Xô không nghỉ lại mà đi thăm khu vực này rồi trở về Hà Nội. Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng kiệt xuất của các anh hùng, hào kiệt của dân tộc như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi... về sức mạnh của nhân dân "Khoan thư sức dân để làm kế bền gốc, sâu rễ", "đẩy thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân". Người còn kế thừa tư tưởng nhân văn "lấy dân làm gốc" và chủ nghĩa nhân đạo hiện thực của học thuyết Mác để hình thành tư tưởng nhân văn mới, tin tưởng mãnh liệt vào sức mạnh, tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân và lòng tôn trọng, kính trọng nhân dân lao động. Người nói "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Trong điều kiện bị đế quốc thực dân thống trị, kẻ thù đàn áp dã man, cùng với chính sách ngu dân của chúng, người dân các nước thuộc địa tưởng chừng không thể gượng dậy nổi, song Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tin tưởng ở nhân dân mình, dân tộc mình "...đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương đang dấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến..." và sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ cần phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi. Trong quá trình đấu tranh, Người đã làm cho nhân dân thế giới nhận thức rõ vấn đề thuộc địa, đoàn kết giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc là giúp đỡ cho chính mình. Năm 1921, Hồ Chí Minh đã có những quan điểm khác hẳn với nhiều suy nghĩ lúc bấy giờ. Người viết: "Bị đầu độc cả về tinh thần lẫn thể xác, bị bịt mồm và bị giam hãm, người ta có thể tưởng rằng cái bẫy người ấy cứ mãi mãi bị dùng làm đồ để tế cái ông thần tư bản, rằng bầy người đó không sống nữa, không suy nghĩ nữa và là vô dụng trong việc cải tạo xã hội. Không: người Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi... Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến" Dân ta có tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết "giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra". Đặc biệt là lòng sốt sắng, hăng hái của dân để thực hiện con đường cách mạng. Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi. Điểm nhấn trong tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh không những là tình thương, sự đồng cảm với những con người cùng cảnh ngộ. Thực chất, đó không phải là lòng thương hại, mà chính là lòng tin vững chắc vào khả năng và phẩm giá tốt đẹp của con người. Tư tưởng “Dĩ dân vi bản” (Lấy dân làm gốc) với Người vẫn muôn đời không đổi. Lòng tin của Người vào sức mạnh và tính sáng tạo của quần chúng nhân dân đã khẳng định điều đó. Sống trong lòng nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân nên suy nghĩ thường trực trong Người là “đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân”. Trên cơ sở của tình thương để đặt niềm tin vào con người, đây là nền tảng thiết yếu của một hệ thống tư tưởng lớn hơn. Từ Thương (đồng cảm) đến Tin rồi mới Trọng. Đây là một quá trình hoàn toàn biện chứng, Hồ Chí Minh đã vận dụng vô tinh tế truyền thống của cha ông trong một triết lý: “Có trọng người, kính người thì người mới trọng ta”. Ngày nay, nội dung trên càng có ý nghĩa lớn lao, nó đã thúc đẩy và tạo được mối dung hoà, gắn kết bền chặt ở cả lý luận và thực tiễn. Người nhận thấy rõ vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, "người là gốc của làng nước", "nước lấy dân làm gốc", "gốc có vững cây mới bền", "xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". Người còn nói rằng: "Dân như nước, mình như cá", "lực lượng nhiều là ở dân hết". "Công việc đổi mới là trách nhiệm ở dân". Do đó, Người yêu cầu "Đem tài dân, sức dân, của dân, làm lợi cho dân". Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng; nếu không có Chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn đường. Đảng lãnh đạo để dân làm chủ. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Nhận thức như vậy để hiểu rằng tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo đúng đường lối quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh vô địch. Bởi vì sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân. Tình thương bao la của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đối với các anh hùng, liệt sĩ, cán bộ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong, đối với cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ, mà ngay cả đối với các nạn nhân chiến tranh, đối với những người lầm đường lạc lối, những người thiếu tu dưỡng…Người cũng tìm cách phát huy những ưu điểm và hạn chế những nhược điểm của họ. Người căn dặn phải giúp họ trở thành những người lao động lương thiện ,Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng xây dựng "con người mới" vì đây là động lực quyết định hướng đi lên của xã hội Việt Nam tương lai. Người đòi hỏi phải có chiến lược trồng Người. Con người mới vừa là nhân vừa là quả của quá trình đấu tranh xây dựng xã hội mới. Theo Người, con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có tinh thần làm chủ xã hội "đã là người chủ thì phải biết tự mình lo toan gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ". Con người mới phải có tri thức văn hóa và khoa học, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Con người mới phải có phẩm chất đạo đức cách mạng "cần, kiệm, liêm, chính', "Chí công, vô tư". Phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân. Nhưng chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là phủ định lợi ích chính đáng của cá nhân. Người nói: "Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trườn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiá trị nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh tại khu di tích lịch sử - khu căn cứ quân sự K9 –Đá Chông.doc
Tài liệu liên quan