Đề tài Tìm hiểu khả năng phát âm đúng của trẻ mẫu giáo lớn ở trường mầm non Thuỵ Vân, Thành phố Việt Trì

PHỤ LỤC

PHẦN I : MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

2. Mục đích nghiên cứu

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

4. phương pháp nghiên cứu

5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu

PHẦN II : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN

I. Đăc điểm của âm tiết Tiếng Việt

II. Những đặc điểm phát âm của trẻ mẫu giáo

III. Nội dung và phương pháp luyện phát âm cho trẻ

CHƯƠNG II : KHẢO SÁT THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG PHÁT ÂM

CỦA TRẺ MẪU GIÁO

I. Cơ sở tiến hành khảo sát

II. Cách tiến hành khảo sát

III. Kết quả khảo sát thực trạng khả năng phát âm đúng ở 3 lứa tuổi (bé, nhỡ, lớn) cho thấy kết quả phát âm của trẻ

CHƯƠNG III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP LUYỆN PHÁT ÂM CHO TRẺ

PHẦN III

KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ S Ư PHẠM

I. Kết luận

II. Kiến nghị sư phạm

 

 

 

 

 

doc40 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8404 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu khả năng phát âm đúng của trẻ mẫu giáo lớn ở trường mầm non Thuỵ Vân, Thành phố Việt Trì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trên chữ không ghi dấu khi viết - Thanh huyền - Thanh sắc -Thanh nặng - Thanh hỏi - Thanh ngã. * Thành phần ở vị trí 1 là âm đầu do các phụ âm đảm nhiệm * Thành phần ở vị trí 2 là do âm đệm, đó là nguyên âm trong chữ viết, được thể hiện bằng chữ O chẳng hạn (Toan,); bằng chữ U (Tuân)… * Thành phần ở vị trí 3 là âm chính do các nguyên âm đảm nhiệm. Âm chính là hạt nhân của âm tiết. * Thành phần ở vị trí 4 là âm cuối, do các phụ âm bán nguyên âm (i, y, u, o) đảm nhiệm. * Các thành phần ở vị trí 2, 3, 4 ghép lại với nhau thành một bộ phận gọi là phần vần. Âm bao giờ cũng phải có âm chính và thanh điệu, vị trí còn lại có thể có hoặc không. -Âm tiết tiếng việt có cấu trúc hai bậc : Bậc thứ nhất bao gồm những thành tố của thành phần vần. Âm tiết Bậc 1 : Thanh điệu Âm đầu phần vần Bậc 2 : Âm đệm Âm chính Âm cuối * Thanh điệu là sự thay đổi độ cao những âm tiết : la, lá, lã đối lập với là, lả, lạ. Các âm tiết trước đều được phát âm với cao độ cao, các âm tiết sau phát âm với cao độ thấp. * Thanh điệu là sự thay đổi về âm điệu, trong những âm tiết trên thì những âm tiết cùng thuộc độ cao lại đối lập nhau về sự biến thiên của độ cao, trong thời gian âm tiết “la” được phát âm với cao độ hoàn toàn bằng phẳng; còn “lã” với đường nét biến thiên, cao độ không bằng phẳng, âm điệu là những đường nét biến thiên về cao độ. * Nguyên âm trong Tiếng Việt được coi là âm chính, nguyên âm là khi nói âm vị phát ra luồng hơi đi tự do không có gì cản trở. VD : Khi phát âm “a, á â” hơi thoát ra tự do không bị cản ở chỗ nào cho nên “” cũng là nguyên âm. Xét về mặt cấu tạo người ta phân chia phân biệt nguyên âm đơn và nguyên âm đôi. + Nguyên âm đôi là gồm 2 nguyên âm ghép lại liền nhau. Khi phát âm thì đọc nhanh, đọc lướt từ âm này sang âm kia đầu mạnh sau yếu hơn, do đó âm sắc chủ yếu của các nguyên âm đôi là do âm đầu quyết định. Có 3 nguyên âm đôi đó là : uô, ươ, ie. Xét về độ dài, cần phân biệt nguyên âm ngắn và nguyên âm dài, nguyên âm ngắn khi phát ra không thể kéo dài, nếu kéo dài có thể ảnh hưởng đến nghĩa. + Phụ âm : Các âm vị đảm nhiệm thành phần âm đầu của âm tiết Tiếng Việt bao giờ cũng là các phụ âm. Phụ âm là âm vị khi phát âm luồng hơi đi ra bị cản ở chỗ nào đó trong bộ máy phát âm, phụ âm có loại bị cản ở môi; có loại bị cản ở răng, có loại bị cản ở lưỡi; có loại bị cản ở thanh hầu. Về phương thức phát âm người ta chia phụ âm thành : - Phụ âm tắc : Hơi bị cản lại sau thoát ra đường miệng vào mũi : b, d, t, s c, k, m,r, p, ng. - Phụ âm sát : Hơi đi qua kẽ hở miệng : p, v, s, z, l, x, y, h - Phụ âm vang : Hơi thoát ra đầu lưỡi và bên lưỡi : m, n, nh. - Phụ âm ồn : Hơi thoát ra đằng miệng có tiếng ồn : b, d, t, c, k, p, f, v, x, z, y, h. - Phụ âm hữu thanh, vô danh trong các âm ồn: Căn cứ vào chỗ dây thanh có rung hay không rung người ta chia ra : + Phụ âm hữu thanh : Dây thanh rung (d, v, y) + Phụ âm vô thanh : Dây thanh không rung (t, k, c, b, s, x, h) - Về vị trí cấu âm ta phân phụ âm thành : +/ Phụ âm môi : p, b, m, f, v +/ Phụ âm lưỡi : d, t, s, z, l, n +/ Phụ âm hầu : h Trong các âm lưỡi sự đối lập nhau giữa đầu lưỡi hẹp : r, t, s, z, l, n; đầu lưỡi quật : đ, a. Phần vần là do thành phần của âm đệm, âm chính, âm cuối ghép với nhau thành một bộ phận gọi là phần vần. Ví dụ : âm tiết Toan : O là âm đệm A là âm chính N là âm cuối Oan là phần vần. II. Những đặc điểm phát âm của trẻ mẫu giáo Âm tiết của ngôn ngữ là đơn vị âm thanh nhỏ nhất trong lời nói không thể phân chia được nữa, lúc đầu trẻ hình thành thính giác. Âm thanh tức là sự phân biệt các âm của ngôn ngữ còn phát âm chúng sẽ học sau. Sự phát âm đúng có liên quan chặt chẽ với sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan phát âm của trẻ. Khả năng phát âm của trẻ phụ thuộc vào sự hoàn thiện của bộ máy phát âm. ở tuổi mẫu giáo những điều kiện này đã đạt được mức tương đối ổn định cho nên trẻ đã có thể phát âm được hầu hết các âm vị. Tuy nhiên một số trẻ vẫn còn mắc một số lỗi về phát âm. 1. Lỗi về thanh điệu : Trong số các thanh điệu tiếng Việt, thanh hỏi và thanh ngã là hai thanh có cấu tạo phức tạp. Việc thể hiện thanh ngã với âm điệu gãy, ở giữa là cách phát âm khó đối với trẻ. Trẻ thay thế bằng cách phát âm đơn giản hơn tức là với âm điệu không gãy ở giữa. Vì vậy dễ đồng nhất với âm điệu của thanh sắc. VD : Phát âm ngã thành ngá hoặc giã thành giá. - Sự chuyển đổi hướng đi của đường nét âm điệu thanh hỏi không diễn ra đột ngột như thanh ngã, quá trình phát âm kéo dài trở thành khó đối với trẻ nhỏ có hơi thở ngắn. - Khi phát âm, trẻ thay thế âm điệu gãy bằng âm điệu không gãy, điều này làm cho thanh hỏi ở trẻ gần như đồng nhất với thanh nặng. - Phát âm hỏi thành họi hoặc phát âm “hổ” thành “hộ”. Đến hết tuổi mẫu giáo lỗi sai về hai thanh này sẽ được khắc phục hầu như hoàn toàn. 2. Lỗi về âm chính : Lỗi về âm chính tập trung vào việc trẻ phát âm nguyên âm đôi này thành nguyên âm đôi kia. Ví dụ : Trẻ phát âm “con hươu” thành “con hiêu”, Thịt thành xịt Trẻ phát âm sai là do tập quán của địa phương hoặc do nghe chưa chính xác, các âm tiết có âm chính là nguyên âm đôi làm cho cấu tạo của âm tiết phức tạp hơn, phát âm khó khăn hơn. 3. Lỗi phụ âm đầu : Trẻ thường hay nói lẫn lộn : l , n Ví dụ : Con “lợn” thành con “Nợn”; Cái “nồi” thành cái “lồi”. - Lỗi lẫn tr thành ch ; s - x; r - d… “Gà trống” phát âm thành “gà chống”. “Hoa sen” thành “Hoa xen” - Lỗi lẫn r thành d; gi thành d : cái rổ thành cái dổ; cô giáo thành cô dáo. Một số trẻ 4 - 5 tuổi khi phát âm phụ âm P trẻ lẫn sang phụ âm “b” VD : Đèn pin thành đèn bin 4. Lỗi về âm đệm : Âm đệm chỉ được đọc lướt qua nên trẻ khó ghi nhận những âm chính vì thế âm đệm thường bị bỏ qua. VD : Trẻ phát âm “quả quất” thành “quả cất”; “chuột nhắt” thành “chuột chắt” 5. Lỗi về âm cuối : Trong phụ âm đứng làm âm cuối thì những cặp ch và nh trẻ phát âm thành t, n. VD : Anh Tú thành ăn Tú, cây xanh thành cây xăn.… III Nội dung và phương pháp rèn luyện phát âm. Như trên đã nói thời thơ ấu dễ hình thành sự phát âm đúng hơn khi đã trưởng thành. Điều quan trọng là cô giáo mẫu giáo đều cần phải nói đúng để làm mẫu cho trẻ. Sự phát âm của trẻ phụ thuộc vào bộ máy phát âm, để dạy trẻ phát âm đúng cần thường xuyên luyện tập một số cơ quan phát âm như : môi, lưỡi, răng, sự phát triển linh hoạt của hàm. Cần giúp trẻ biết điều khiển nhịp nhàng các cử động của bộ máy phát âm. Sự phát âm rõ ràng các âm, các từ phụ thuộc vào sự chính xác và lực của các cử động. Rất nhiều trẻ nói không rõ, từ này trộn lẫn với từ kia thành một tập hợp âm khó hiểu. Nguyên nhân là cử động chậm chạp của môi và lưỡi, tính linh hoạt của hàm còn yếu do đó miệng của trẻ há không to và các nguyên âm phát ra không đúng, sự phát âm không rõ ràng, các từ phụ thuộc vào sự phát âm của các nguyên âm có đúng không và sau đó phụ thuộc vào sự điều hoà các hoạt động của bộ máy phát âm khi xác lập các phụ âm. Tập luyện cơ của bộ máy phát âm là trọng âm và cần thiết như tập thể dục để phát triển cơ thể ở mẫu giáo, không nên xem việc dạy phát âm chỉ dành cho các cháu có tật mà làm cho tất cả các cháu. Giờ dạy phát âm phải được tiến hành thường xuyên, có hệ thống, ở nhóm nhỏ hướng dẫn hàng ngày; còn ở nhóm lớn tối thiểu 3 - 4 lần trong 1 tuần. Những bài học luyện bộ máy phát âm ở trường mẫu giáo thường mang tính chất trò chơi như bắt chước tiếng kêu của các loài vật như : cạc cạc (vịt); gâu gâu (chó); meo meo (mèo); ộp ộp (ếch). Trò chơi : “Con gì kêu đấy” : Cô giáo treo trên bảng tranh vẽ những con vật, đồ vật và cho cháu đoán hoặc bày lên bàn những đồ chơi là con vật hay đồ vật có tiếng kêu mà các cháu sẽ đố nhau, cô bảo các cháu nhìn lên tranh và lên đồ chơi rồi gọi tên chúng sau đó cô bắt chước tiếng kêu của từng con vật hoặc đồ chơi và yêu cầu trẻ nói đúng tên con vật và đồ vật đó. VD : Cô nói tu tu, xình xịch các cháu phải nói tàu hoả; cô nói vịt vịt thì trẻ nói vịt con; chiếp chiếp thì nói gà con, cô nói ò ó o thì nói gà trống gáy… Hoặc cô có thể cho một cháu ra ngoài lớp, sau đó cô và cháu ở trong lớp chọn một con vật cất đi, cho cháu đó vào thì cô và cháu ở trong lớp bắt chước tiếng kêu của con vật đó hoặc tiếng động cơ của đồ chơi, sau đó cô bảo cháu đó nói tên con vật tên đồ chơi. Trong mẫu giáo lớn để hoàn chỉnh cách phát âm thường sử dụng bài tập, đặc biệt học thuộc lòng các bài thơ, những câu nói nhanh là một hay nhiều câu khó phát âm mà trong đó một âm có thể được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đầu tiên cô đọc mẫu, cô chọn những câu nói nhanh cần thiết trong một thời hạn dài, nếu trong một tháng trẻ học thuộc 1 trong 2 câu thì trong 1 năm cần chọn 10 -15 câu có mức độ phức tạp khác nhau. Cho trẻ làm quen với những câu dễ trước, câu khó sau. Trẻ sử dụng câu nói nhanh trong giờ học, trong khi chơi và các giờ hoạt động ngoài trời. Những câu có thể dùng cho các cháu nói nhanh như : Hoa sen, hoa súng Hoa súng, hoa sen Nồi đồng nấu ốc Nồi đất nấu ếch Buổi sáng mặt trời mọc Mặt trời mọc buổi sáng Mục đích của việc sử dụng những câu nói nhanh là tập luyện bộ máy phát âm. Trước khi cho trẻ tập nói cô giáo phải nói mẫu, cô đọc chậm rõ ràng sau đó nói nhanh dần rồi cho trẻ tự nói thầm một mình để nhắc lại câu nói nhanh, lúc đầu cô gọi các cháu có trí nhớ tốt và có cách phát âm đúng. Đầu tiên cho trẻ nói chậm rõ ràng sau đó nói nhanh dần cô gọi tiếp các cháu còn lại khi nhắc lại câu nói nhanh. Khi hướng dẫn tập nói nhanh cô giáo phải tiến hành trình tự nói trên không vội vàng, hấp tấp có thể làm cho trẻ mắc tật nói lắp, nói nhịu. Để luyện tập cách phát âm cho cháu cô giáo có thể đọc cho các cháu nghe những bài thơ, những đoạn văn trong đó có những từ mà các cháu thường nói sai, cho các cháu đọc lại những bài thơ những đoạn văn này và rèn luyện cách phát âm cho mình. VD : Để luyện phát âm l và n cô giáo có thể dùng các bài thơ sau : Mồng một lưỡi trai Mồng hai lá lúa Mồng ba câu liêm Mồng bốn lưỡi liềm Mồng năm liềm giật Mười rằm trăng náu Mười sáu trăng treo Tập tầm vông Tay nào không Tay nào có Tập tầm vó Tay nào có Tay nào không Khi chữa lỗi phát âm cho trẻ không nên nhắc nhiều đến lỗi, cần hướng sự tập trung của trẻ vào phát âm cho đúng. Bộ máy phát âm của trẻ được hoàn chỉnh vào những năm đầu của tuổi mẫu giáo (4 -5 tuổi) cho nên ở mẫu giáo bé và mẫu giáo nhỡ cùng một lúc phải củng cố những âm khó và xoá bỏ lỗi nói ngọng do đặc điểm lứa tuổi gây ra. * Chú ý : Chưa có thể phân tích với các cháu rằng muốn phát âm đúng thì bộ máy phát âm phải như thế nào? Phải cho các cháu sử dụng nhiều lần âm vị định luyện, tác dụng âm học sẽ thúc đẩy hình thành những tác động cấu âm tương ứng. Nhìn chung trẻ mẫu giáo lớn tiếp thu nhậy bén cách phát âm của những người xung quanh, trẻ chuyển giọng rất nhanh. Khi chuyển chỗ ở từ địa phương này sang địa phương khác, tác dụng của môi trường xung quanh rất quan trọng. Vì vậy phải tạo một môi trường với cách phát âm đúng quy cách. Trong các gia đình cha, mẹ và những người lớn tuổi chú ý đến cách phát âm của mình; ở trường mẫugiáo cô phải phát âm đúng làm mẫu cho các cháu học nói, ngôn ngữ của cô giáo trong việc giáo dục trẻ có thể gọi là ngôn ngữ hoàn chỉnh, khi nói chuyện với nhau người ta ít chú ý đến sự chính xác của các âm và thường có lỗi về phát âm đó là ngôn ngữ chưa hoàn chỉnh. Còn trong trường mẫu giáo cô phải sử dụng ngôn ngữ hoàn chỉnh, ngôn ngữ hoàn chỉnh có đặc điểm khi nói các âm nghe rõ ràng chính xác và âm điệu chậm rãi. Trong đời sống hàng ngày thỉnh thoảng cô có thể sử dụng ngôn ngữ chưa hoàn chỉnh. Cô mẫu giáo nên tổ chức cho các cháu nghe đài phát thanh, xem vô tuyến, nghe băng, nghe đĩa. Cô hướng trẻ chú ý nghe các phát thanh viên phát âm rõ ràng, chính xác. Cô giáo cần bỏ thời gian công sức học tập để đạt tới ngôn ngữ văn học. Chương II Khảo sát thực trạng khả năng phát âm của trẻ mẫu giáo lớn I. Cơ sở tiến hành khảo sát Khảo sát thực trạng khả năng phát âm của 25 cháu ở trường Mầm non Tuỵ vân - Việt Trì Trường thuộc một xã vùng nông thôn bắc bộ. Trường hàng năm chỉ đạt trường Tiên tiến. Với địa bàn nông thôn , lại nằm trên vùng đồi nên các lớp nằm rải rác ở từng thôn (đội). Có những lớp phải ghép 2 độ tuổi, cơ sở vật chất còn thiếu thốn , nhưng lớp học rộng rãi thoáng mát. Trường luôn được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, các đoàn thể chính quyền địa phương và các bậc phụ huynh. - Trình độ của giáo viên tương đối đều : 100% giáo viên có trình độ trung cấp mẫu giáo. Trong đó có 1 giáo viên có trình độ cao đẳng, 7 giáo viên đang theo học đại học tại chức. Các giáo viên đều rất nhiệt tình yêu nghề, mến trẻ, nắm chắc phương pháp nuôi dạy trẻ trong trường mầm non. Trường có lớp mẫu giáo 5 tuổi đang tiến hành chương trình thực nghiệm về “Đổi mới hình thức tổ chức giáo dục trẻ trong trương mầm non” cho nên các cháu có rất nhiều thuận lợi trong học tập. - Trang thiết bị và đồ dùng dạy học : được trang bị tương đối đầy đủ, hàng năm nhà trường thường xuyên mua thêm đồ dùng, đồ chơi mới và phát động thi đua làm đồ dùng, đồ chơi mỗi dịp 20/10 và ngày 8/3 cho nên đồ dùng , đồ chơi rất phong phú, đẹp và hấp dẫn trẻ. Nhờ những yếu tố trên trẻ học ở trong trường có đủ điều kiện phát triển toàn diện đồng thời việc rèn khả năng phát âm cho trẻ cũng có thuận lợi hơn. I. Khách thể nghiên cứu : Chọn 25 cháu mẫu giáo 5 - 6 tuổi tại trường mầm non Thuỵ Vân - Việt Trì Dựa vào kết quả khảo sát thực trạng khả năng phát âm đúng của trẻ mẫu giáo lớn tôi đánh giá xếp loại khả năng phát âm đúng của trẻ theo 4 loại : tốt, khá, trung bình, yếu : - Cháu không mắc lỗi : Tốt - Cháu mắc từ 1 - 4 lỗi : khá - Cháu mắc từ 4 - 6 lỗi : trung bình - Cháu mắc từ 7 lỗi trở lên : Yếu II. Cách tiến hành khảo sát : Tôi đã sử dụng các biện pháp khảo sát sau : - Biện pháp thứ nhất : trò chuyện với trẻ để biết khả năng phát âm của trẻ. - Biện pháp thứ hai : Tôi gọi trẻ lên đọc các bài ca dao, đồng dao mà cháu thích để nghe phát âm của trẻ. - Biện pháp thứ 3 : Tôi đưa tranh các con vật, đồ vật, đồ chơi, các loại hoa, loại quả để nghe khả năng phát âm của trẻ. Biện pháp thứ 4 : Gọi trẻ lên kể chuyện để nghe phát âm của trẻ. Từ những kết quả trên tôi đã lập bảng khảo sát thực trạng khả năng phát âm đúng của trẻ như sau : III . Kết quả khảo sát thực trạng khả năng phát âm đúng lứa tuổi mẫu giáo lớn Qua khảo sát thực trạng cho thấy kết quả phát âm của trẻ mẫu giáo 5 tuổi ở trường mầm non Thuỵ Vân - Việt Trì như sau : Loại tốt : không mắc lỗi Loại khá : Mắc từ 1 -4 lỗi Loại trung bình : Mắc từ 5 - 7 lỗi Loại yếu : Mắc từ 8 đến 10 lỗi Xếp loại : 1. Lớp 5 - 6 tuổi A1 : Loại tốt : Không Loại khá : 02 cháu : 20 % Loại trung bình : 5 cháu = 50% Loại yếu : 03 cháu = 30% 2. Lớp 5- 6 tuổi A2 : Loại tốt : Không Loại khá : 01 cháu : 10 % Loại trung bình : 6 cháu = 60% Loại yếu : 03 cháu = 30% 3. Lớp 5- 6 tuổi A3 : Loại tốt : Không Loại khá : Không Loại trung bình : 05 cháu = 50% Loại yếu : 05 cháu = 50% Phân tích kết quả cho thấy khả năng phát âm của trẻ cũng tăng dần theo tháng tuôỉ của cháu. Cháu nào sinh vào những tháng cuối năm thì khả năng phát âm hơi yếu hơn các cháu sinh vào những tháng đầu năm. Sau đây là một số cháu mắc lỗi nhiều với lý do cụ thể như sau : - Cháu Nguyễn Thế Bường sinh ngày 2/5/1998 bị mắc 08 lỗi, gia đình cháu đông anh em lại gặp khó khăn nên cha mẹ đi làm xa không có thời gian quan tâm đến con caí, cháu bị suy dinh dưỡng hay ốm phải nghỉ học nên cháu còn mắc nhiều lỗi phát âm. - Cháu Lê Công Hiệu lớp 5 tuổi A1 sinh ngày 20 -9 -1998 có bố đi làm thợ xây, mẹ đi chợ nên không có thời gian quan tâm để ý đến cháu, cháu mắc 10 lỗi. - Cháu Phạm Thị Hà lớp 5 tuổi A2 sinh ngày 10- 6 - 1998, mẹ cháu đi nước ngoài, bố đi làm thợ nên thiếu sự quan tâm dẫn đễn cháu mắc 9 lỗi, trong đó có cả thanh điệu. - Cháu Nguyễn Văn Kiên sinh ngày 10/10/1998, bố mẹ cháu gửi cháu cho ông bà để đi làm ăn xa, gia đình ông bà lại đông cô chú, mặt khác cháu lại hơi nghễnh ngãng khả năng nghe kém ảnh hưởng đến sự phát âm của cháu. Cháu mắc 10 lỗi, trong đó có cả thanh điệu, phụ âm, phần vần. Qua khảo sát thực trạng phát âm của trẻ thì ở độ tuổi mẫu giáo lớn các cháu vẫn còn mắc lỗi về phụ âm, thanh điệu, phần vần. Trẻ phát âm khó, còn lẫn lộn phụ âm và thanh điệu với một số phần vần phát âm khó và thanh điệu gãy. Nguyên nhân chính là do bộ máy phát âm của trẻ như môi, lưỡi chuyển động chưa được linh hoạt nên dẫn đến sai sót trên; Do tiếng địa phương hay nói ngọng (l, n) cho nên các cháu cũng ảnh hưởng phụ âm đó; Do một số gia đình các chaú làm nông nghiệp không có điều kiện quan tâm đến sự phát âm của trẻ, không sửa sai cho trẻ; Do các cháu nhút nhát ít giao tiếp nói năng với bạn bè, cô giáo. Khi cô giáo hỏi không dám nói còn sợ sệt cũng ảnh hưởng tới khả năng phát âm của trẻ. Vì vậy trẻ phát âm sai mà không biết. CHương III Một số biện pháp luyện phát âm cho trẻ mẫu giáo lớn 1. Dạy phát âm là dạy trẻ biết phát âm chính xác những thành phần của âm tiết, không ngọng, không lắp. Muốn dạy trẻ phát âm đúng ta cần phải có biện pháp sau : - Cho trẻ bắt chước tiếng kêu của con vật, đồ vật và gọi đúng tên. - Dạy trẻ đọc thuộc thơ, những câu ca dao, câu đồng dao. - Trò chuyện cùng với trẻ để sửa lỗi phát âm. - Luyện phát âm cho trẻ ở môn LQMTXQ Những biện pháp tác động vào trẻ để luyện khả năng phát âm đúng cụ thể như : - Dạy trẻ đọc thuộc thơ, những câu ca dao, câu đồng dao. Việc rèn phát âm cho trẻ bằng cách dạy trẻ học thuộc các bài ca dao, đồng dao chính là để rèn bộ máy phát âm của trẻ. Muốn rèn phát âm cho trẻ thì trước hết cô phải là người phát âm đúng, chính xác. Lúc đầu cô cho trẻ đọc các bài thơ ngắn, đơn giản rồi sau đó cô nâng dần lên với những bài thơ dài hơn và khó hơn để làm tăng khả năng phát âm của trẻ. Cô chú ý vào những từ trẻ hay mắc lỗi, cho trẻ đọc nhiều lần và kiên trì sửa sai cho trẻ. Vd : Để luyện lỗi phát âm lẫn lộn giữa “l” và “n” ta có thể dùng bài đồng dao sau : Mồng một lưỡi trai Mồng hai lá lúa Mồng ba câu liêm Mồng bốn lưỡi liềm Mồng năm liềm giật Mười rằm trăng náu Mười sáu trăng treo Nu na nu nống Con cống nằm trong Con ong nằm ngoài Củ khoai chấm mật Hoặc bài thơ : Làm anh Làm anh khó đấy Đâu phải chuyện đùa Với em bé gái Phải người lớn kia… Khi chữa lỗi phát âm cho trẻ không nên nhắc nhiều đến lỗi, cần hướng sự chú ý của trẻ tập trung vào phát âm cho đúng. Khi dạy trẻ đọc thuộc các bài thơ cô rèn cho trẻ cách phát âm đúng chữ “n” trong bài “nu na nu nống”. Khi đọc các cháu phải đặt đầu lưỡi chạm vào răng hàm trên và miệng mở khi phát âm “n” . Cô phát âm mẫu rồi cho cả lớp phát âm lại. Cô tập cho trẻ phát âm nhiều lần các từ đó rồi cho các cháu học thuộc thì các từ khó, dễ nhầm các cháu sẽ dần dần sửa được. Sửa lỗi cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi như kể chuyện cho trẻ nghe; cho trẻ đàm thoại; kể chuyện và trong các hoạt động khác. Cô hướng dẫn trẻ khi đọc chữ L thì lưỡi để lên phía trước của hàm răng trên, uốn lưỡi cong lên phía trên chỗ người ta gọi là hàm ếch. Cô đọc nhấn mạnh để trẻ cố gắng phát âm đúng. Những trẻ hay mắc lỗi cô cho đọc trong cả những giờ đón và trả trẻ như : “Rộn ràng, ríu rít, châu chấu, chân trâu, bâng khuâng, cái nồi, lôi thôi, leo trèo, chói chang, con lợn…”.Cô đọc chậm, rõ ràng, mạch lạc giúp trẻ hứng thú đọc các bài thơ này VD : Khi đọc câu thơ : “Mồng một lưỡi trai Mồng hai lá lúa” Thì từ “lá lúa” cô nhấn mạnh để các cháu sửa sai. Với những cháu phát âm sai phần vần “anh , oanh” thành “Ăn, oăn” thì cô sử dụng bài thơ sau : Bắp cải xanh Xanh man mát Lá bắp cải Sắp vòng tròn Bắp cải non Nằm ngủ giữa Hay bài : Con gà cục tác lá chanh Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi Con chó khóc đứng khóc ngồi Bà ơi đi chợ mua tôi đồng giềng. Với những bài thơ để luyện phát âm phần vần cho trẻ, cô cũng sử dụng biện pháp đọc nhấn mạnh và cho trẻ đọc nhiều lần. Đồng thời cô khuyến khích động viên trẻ đọc giống cô để sửa sai. Với các cháu phát âm sai phụ âm”r” và “d” thì cô sử dụng những bài thơ sau : Rì rà rì rà Đội nhà đi chơi Tối lặn mặt trời úp nhà đi ngủ Rềnh rềnh ràng ràng Ra gang chiếu trải Xích lại cho gần Một người hai chân Hai người bốn chân Ba người sáu chân Bốn người tám chân Chân gày chân béo Dệt vải cho bà Vải hoa vải trắng Đến khi trời nắng Đem vải ra phơi Đến mốt đẹp trời Đem ra may áo Rềnh rềnh ràng ràng Dạy trẻ đọc thuộc những bài thơ, ca dao, đồng dao như : “ Chú bộ đội hành quân trong mưa” nhằm mục đích để luyện phát âm cho trẻ , giúp cho sự chuyển động của lưỡi được linh hoạt dẫn đến sự phát âm đúng. Để luyện cho những cháu phát âm sai “s” và “x” cô sử dụng bài : Hoa sen đã nở Rực rỡ đầy hồ Thoang thoảng gió đưa Mùi hương man mát Lá sen xanh ngắt đọng hạt sương đêm gió rung êm đềm sương long lanh chạy. 3. Trò chuyện cùng với trẻ Khi trò chuyện cùng với trẻ cô phát hiện ra trẻ phát âm sai để cô kịp thời uốn nắn riêng cho từng cháu. Biện pháp luyện phát âm cho trẻ là cô luyện phát âm ở mọi lúc, mọi nơi , với giờ hoạt động vui chơi “hoạt động góc”, cô cùng trao đổi với trẻ về các đồ chơi, đồ dùng học tập, các trò chơi dân gian. Cô chú ý sửa sai cho các cháu ngay sau khi trẻ mắc lỗi. Với giờ hoạt động ngoài trời, cô cùng trẻ quan sát cảnh vật xung quanh, cô trò chuyện với các cháu về một vài chủ đề nào đó như về các mùa chẳng hạn : Với trẻ phát âm sai “trời nắng” thành “trời lắng” cô sửa ngay bằng cách cô phát âm mẫu rồi cho trẻ phát âm lại hai, ba lần. Thỉnh thoảng cô kiểm tra lại xem mức độ tiến bộ của trẻ đến đâu. Nếu trẻ chưa phát âm đúng cô kiên trì sửa lại cho trẻ. Trong quá trình thử nghiệm việc luyện phát âm cho trẻ bằng các biện pháp trên ta thấy nếu có sự quan tâm tác động thường xuyên tới trẻ thì khả năng phát âm đúng của trẻ sẽ tiến bộ rất nhiều, bởi vì trẻ tiếp thu rất nhạy bén cách phát âm của người lớn xung quanh, nhất là cô giáo là người luôn theo dõi uốn nắn, chăm sóc và dạy dỗ trẻ. Rèn trẻ thông qua các môn học như đọc thơ, ca dao, đồng dao, kể chuyện…là biện pháp đem lại hiệu quả tốt nhất. Sau đây là bảng khảo sát kết quả sau khi đã làm thực nghiệm sử dụng các biện pháp luyện phát âm tác động vào trẻ Sau khi dùng các biện pháp tác động vào trẻ để luyện phát âm, ta có kết quả sau : 1. Lớp 5 - 6 tuổi A1: Loại tốt : 3 cháu 30% Loại khá :7 cháu 70% Loại TB : Không 2. Lớp 5 - 6 tuổi A2 Loại tốt : 1 cháu 10% Loại khá :9 cháu 90% Loại TB : Không 3. Lớp 5 -6 tuổi A3 Loại tốt : 2 cháu 20% Loại khá :5 cháu 50% Loại TB : 3 cháu 30% Bảng so sánh khả năng phát âm của trẻ qua hai giai đoạn 1. Lớp 5 - 6 tuổi A1 Stt Họ và tên Ngày sinh Thực trạng Sau khi tác động 1 Ng. Thế Bường 2/5/1998 Yếu Khá 2 Ng. Việt Cường 10/6/1998 Khá Tốt 3 Tạ Thị Châm 15/2/1998 Khá Tốt 4 Lê Thị Linh 3/6/1998 TB Khá 5 Hoàng Mỹ Linh 11/10/1998 TB Khá 6 Ng.Thị Linh 5/3/1998 Tb Tốt 7 Ng. thị Hương 24/8/1998 TB Khá 8 Lê Công Hiệu 20/9/1998 Yếu Khá 9 Tạ Văn Hà 20/2/1998 TB Khá 10 Đỗ Thị Hoa 2/2/1998 Yếu Khá 2. Lớp 5 - 6 tuổi A2 Stt Họ và tên Ngày sinh Thực trạng Sau khi tác động 1 Tạ Đức Chung 2/2/1998 TB Khá 2 Lê Mạnh Hùng 7/3/1998 TB Khá 3 Nguyễn Thị Hiền 10/8/1998 Yếu Khá 4 Tạ Thị Thu Hiền 2/5/1998 TB Khá 5 Ng. Hữu Tuấn 11/10/1998 Tb Khá 6 Phùng Q. Trường 3/4/1998 Tb Khá 7 Lê Q. Trường 2/8/1998 Yếu Khá 8 Tạ Tuấn Vũ 15/1/1998 Khá Tốt 9 Vi Thị Thu Hồng 5/4/1998 TB Khá 10 Phạm Thị Hà 10/6/1998 Yếu Khá Lớp mẫu giáo 5 -6 tuổi A3 Stt Họ và tên Ngày sinh Thực trạng Sau khi tác động 1 Ng. Hồng Ngọc 2/11/1998 Yếu Khá 2 Tạ Thị Ngọc 7/6/1998 TB Tốt 3 Ng. Văn Kiên 10/10/1998 Yếu Khá 4 Lê Trọng Kiên 2/8/1998 TB Khá 5 Lê T. Phượng 6/6/1998 TB Tốt 6 Phạm T. Phương 5/9/1998 Yếu TB 7 Trần Thế Sang 4/2/1998 TB Khá 8 Ng. Ngọc Vững 3/3/1998 Yếu TB 9 Lê Đình Quý 15/5/1998 Yếu TB 10 Tạ Thị Quỳ 30/4/1998 TB Khá Kết luận Qua khảo sát ta thấy khả năng phát âm đúng của trẻ được tăng dần theo tháng tuổi là phù hợp với sự phát triển của trẻ, phù hợp với sự hoàn thiện của cơ quan phát âm một cách bình thường. Tuy nhiên sự tác động của cha mẹ và những người lớn xung quanh trẻ cũng có ảnh hưởng lớn đến sự phát âm của trẻ. Trong quá trình học phát âm đúng của trẻ, cô giáo mẫu giáo có vai trò hết sức quan trọng. Nếu cô giáo mẫu giáo luôn chú ý đến việc luyện phát âm cho trẻ thì khả năng phát âm đúng của trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo lớn là lứa tuổi hoàn thiện khả năng phát âm nhanh nhất. Muốn vậy, việc luyện phát âm đúng cho trẻ phải được tiến hành thường xuyên, liên tục ở mọi nơi, mọi lúc. Đặc biệt là việc dạy trẻ đọc thuộc các bài ca dao, đồng dao có liên quan đến luyện phát âm đúng cho trẻ,hoặc cho trẻ bắt chước tiếng kêu con vật, đồ vật và trò chuyện với trẻ để sửa lỗi phát âm. Thông qua việc làm thực nghiệm tác động các biện pháp trên để luyện phát âm đúng với các cháu mẫu giáo lớn ở trương mầm non Thuỵ Vân - Việt Trì . Kết quả thu được sau khi làm thực nghiệm là khả năng phát âm đúng của các cháu tăng lên rõ rệt. PHầN III Kết luận - kiến nghị sư phạm I. Kết luận Mỗi con người khi sinh ra đã có sẵn bộ máy phát âm, đó là tiền đề vật chất để sản sinh ra ngôn ngữ. Nó là một trong những điều kiện vật chất quan trọng nhất mà thiếu nó không thể có ngôn ngữ . Khi sinh ra đứa t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu luan 15.doc