Đề tài Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp tác xã

Các hợp tác xã sản xuất hàng hóa xuất khẩu không thuộc đối tượng được hỗ trợ kinh phí từ chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia, nếu có dự án xúc tiến thương mại được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì được hỗ trợ 50% kinh phí theo quy định của chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia cho các nội dung hoạt động sau đây: Thông tin thương mại, tuyên truyền xuất khẩu; Tư vấn xuất khẩu; Đào tạo nâng cao năng lực và kỹ năng kinh doanh xuất khẩu; Tham gia hội chợ triển lãm hàng xuất khẩu; Quảng bá thương hiệu sản phẩm.

doc53 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4212 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp tác xã, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
góp sức với các hình thức trực tiếp quản lý, trực tiếp tham gia lao động sản xuất, tư vấn cung cấp kiến thức, kinh doanh và khoa học kỹ thuật cho hợp tác xã tùy thuộc vào nhu cầu của hợp tác xã; - Không được giữ các chức danh: Trưởng Ban quản trị và thành viên Ban quản trị; Trưởng Ban kiểm soát và thành viên Ban kiểm soát; Chủ nhiệm, Phó chủ nhiệm hợp tác xã; kế toán trưởng hoặc kế toán viên và các cán bộ chuyên môn nghiệp vụ của hợp tác xã; Cán bộ, công chức không có đủ các điều kiện quy định nói trên; cán bộ, công chức đang làm việc trong các lĩnh vực thuộc bí mật nhà nước, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp trong các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân không được là xã viên hợp tác xã. * Đối với hộ gia đình: Hộ gia đình muốn trở thành xã viên hợp tác xã phải đáp ứng các yêu cầu sau[15]: - Là hộ gia đình mà các thành viên trong hộ có cùng tài sản chung để hoạt động kinh tế như: diện tích đất đang sử dụng vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp; những tài sản cố định khác phục vụ sản xuất, kinh doanh của hộ gia đình; - Hộ gia đình phải cử người đại diện bằng giấy ủy quyền. Người đại diện của hộ phải có đủ các điều kiện như đối với cá nhân như quy định trên và theo quy định của Điều lệ hợp tác xã. Khi muốn thay đổi người đại diện, hộ gia đình phải có đơn đề nghị Ban quản trị xem xét, quyết định; Hộ gia đình không có đủ các điều kiện theo trên không được là xã viên hợp tác xã. * Đối với pháp nhân: Pháp nhân muốn trở thành xã viên hợp tác xã phải đáp ứng các yêu cầu sau[16]: - Là các tổ chức, cơ quan (trừ quỹ xã hội, quỹ từ thiện) theo quy định của Bộ luật Dân sự và theo quy định của Điều lệ hợp tác xã; - Có đơn xin gia nhập hợp tác xã. Người đứng tên trong đơn phải là đại diện theo pháp luật của pháp nhân và tham gia vào hoạt động của hợp tác xã, thực hiện các nghĩa vụ của một xã viên theo quy định của Điều lệ hợp tác xã. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể uỷ quyền cho cá nhân khác là người trong bộ máy lãnh đạo của pháp nhân làm đại diện tham gia hợp tác xã nếu Điều lệ hợp tác xã không quy định khác; - Góp vốn, góp sức theo quy định của Điều lệ hợp tác xã; Cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân không được sử dụng tài sản của Nhà nước và công quỹ để góp vốn vào hợp tác xã; Pháp nhân không có đủ các điều kiện quy định như trên không được là xã viên hợp tác xã. Để tạo điều kiện cho người lao động có thể phát huy những tìm năng về tư liệu sản xuất, tiền vốn, kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của họ và tăng cường thu nhập cho họ, Luật hợp tác xã quy định cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có thể là xã viên của nhiều hợp tác xã trong trường hợp Điều lệ hợp tác xã không cấm. Từ những quy định trên cho thấy, hai đối tượng mới được tham gia hợp tác xã là cán bộ, công chức và pháp nhân. Việc quy định bổ sung hai đối tượng này có ý nghĩa rất lớn, thể hiện một cách nhìn mới về loại hình kinh tế hợp tác xã trong tầm quản lý vĩ mô của Nhà nước, coi hợp tác xã là một loại hình tổ chức kinh tế như các doanh nghiệp khác. Việc mở rộng thêm đối tượng tham gia hợp tác xã nhằm thu hút thêm nguồn nhân lực, tài lực, cũng như các nguồn lực khác để phát triển hợp tác xã. Tuy nhiên, để tránh tình trạng cán bộ, công chức không chuyên tâm đến công việc Nhà nước, chuyển sang làm việc tại các hợp tác xã sẽ gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Luật hợp tác xã năm 2003 ghi nhận quyền tham gia hợp tác xã của cán bộ, công chức nhưng giới hạn họ không được quản lý và điều hành hợp tác xã, cũng như đối với hộ gia đình và pháp nhân khi tham gia hợp tác xã phải thông qua người đại diện có đủ điều kiện như đối với cá nhân tham gia, quy định này nhằm đảm bảo tính công bằng giữa các xã viên. 2.2. Một số chính sách khuyến khích và hỗ trợ hoạt động đối với hợp tác xã 2.2.1. Đối với hợp tác xã nông nghiệp[17] Hợp tác xã có nhu cầu sử dụng đất để xây dựng trụ sở, nhà kho, sân phơi, cơ sở dịch vụ trực tiếp phục vụ xã viên sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối nhưng chưa được giao đất thì làm thủ tục xin giao đất. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào quỹ đất của địa phương xem xét, quyết định việc giao đất không thu tiền sử dụng đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hợp tác xã. Hợp tác xã đang sử dụng đất vào các mục đích xây dựng trụ sở, nhà kho, sân phơi, cơ sở dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 53 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2009 về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Ngoài diện tích đất giao không thu tiền sử dụng đất, hợp tác xã nông nghiệp được giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất trả tiền hàng năm theo quy định của pháp luật đất đai và được hưởng chính sách ưu đãi về miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất theo quy định của Chính phủ.  Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các hợp tác xã thuê lại đất, sử dụng hợp pháp đất của tổ chức, cá nhân để phát triển sản xuất kinh doanh. 2.2.2. Đối với hợp tác xã phi nông nghiệp[18] Hợp tác xã được lựa chọn hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc hình thức thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm theo quy định của pháp luật đất đai. Diện tích đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm của hợp tác xã phục vụ xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh và làm dịch vụ trực tiếp cho xã viên được xác định theo dự án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, quyết định theo quy định của pháp luật về đầu tư, xây dựng và pháp luật về đất đai. Trường hợp đất do hợp tác xã đang sử dụng mà chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 53 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2009 về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. 2.2.3. Chính sách ưu đãi về thuế[19] Hợp tác xã được ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập từ các hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất, kinh doanh của xã viên theo quy định tại Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 và Nghị định 124/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008. Đối với các hợp tác xã nông nghiệp ngoài được hưởng ưu đãi như trên còn được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập tạo ra từ hoạt động dịch vụ trực tiếp phục vụ đời sống xã viên. 2.2.4. Chính sách hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại[20] Các hợp tác xã sản xuất hàng hóa xuất khẩu không thuộc đối tượng được hỗ trợ kinh phí từ chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia, nếu có dự án xúc tiến thương mại được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì được hỗ trợ 50% kinh phí theo quy định của chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia cho các nội dung hoạt động sau đây: Thông tin thương mại, tuyên truyền xuất khẩu; Tư vấn xuất khẩu; Đào tạo nâng cao năng lực và kỹ năng kinh doanh xuất khẩu; Tham gia hội chợ triển lãm hàng xuất khẩu; Quảng bá thương hiệu sản phẩm. 2.2.5. Chính sách hỗ trợ ứng dụng đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, khuyến nông, khuyến ngư và khuyến công[21] Hợp tác xã có dự án ứng dụng đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ thì được vay vốn trung và dài hạn từ Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Quỹ phát triển khoa học công nghệ của các Bộ, ngành và địa phương. Hợp tác xã tổ chức tập huấn cho xã viên tiếp thu công nghệ mới thuộc Chương trình xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và miền núi thì được hỗ trợ 100% kinh phí. Hợp tác xã được hưởng các chính sách về khuyến nông, khuyến ngư, khuyến công theo quy định tại Nghị định số 02/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng 01 năm 2010 của Chính phủ về khuyến nông và Nghị định số 134/2004/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2004 của Chính phủ về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn. 2.2.6. Chính sách hỗ trợ hợp tác xã đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời sống của cộng đồng xã viên và tham gia các chương trình phát triển kinh tế - xã hội[22] Các hợp tác xã được hỗ trợ: Xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã và đời sống của xã viên; Xây dựng cụm công nghiệp, cụm làng nghề nông thôn để phát triển sản xuất và kinh doanh. Hợp tác xã được ưu tiên tham gia các chương trình phát triển kinh tế - xã hội sau đây: Các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn và quản lý các công trình sau khi hoàn thành, kể cả các công trình hạ tầng phục vụ phát triển cụm công nghiệp và cụm làng nghề ở nông thôn; Các dự án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác trên địa bàn phù hợp với khả năng của hợp tác xã. Hàng năm, các hợp tác xã phải chủ động đăng ký với cơ quan quản lý chương trình phát triển kinh tế - xã hội địa phương về nhu cầu và khả năng tham gia triển khai các dự án thuộc chương trình mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo để được hỗ trợ, ưu tiên tham gia. Cơ quan quản lý chương trình mục tiêu có trách nhiệm thông báo công khai tới huyện, xã về phạm vi, đối tượng và điều kiện của từng chương trình; tiếp nhận, xem xét và phê duyệt đơn đăng ký tham gia chương trình của hợp tác xã; giúp hợp tác xã làm các thủ tục cần thiết để tham gia chương trình; kiểm tra, giám sát và giải quyết các phát sinh trong quá trình triển khai dự án giao cho hợp tác xã thực hiện.                                2.2.7. Chính sách hỗ trợ tín dụng[23] Hợp tác xã có dự án đầu tư mới, đầu tư mở rộng năng lực sản xuất, kinh doanh thì được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước từ Quỹ hỗ trợ phát triển theo quy định tại Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước và Nghị định số 106/2008/NĐ-CP ngày 19 tháng 9 năm 2008 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước Đối với các hợp tác xã có dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu thuộc diện ưu đãi đầu tư thì được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định tại Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư. Các hợp tác xã có nhu cầu vay vốn từ các tổ chức tín dụng để đầu tư mới, đầu tư nâng cấp, đầu tư mở rộng năng lực sản xuất, kinh doanh, thực hiện các hoạt động dịch vụ phục vụ phát triển kinh tế và đời sống xã viên thì được các tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi để vay vốn và áp dụng hình thức đảm bảo tiền vay phù hợp với loại hình kinh tế hợp tác xã. Việc cho vay được thực hiện theo các quy định hiện hành. Các hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn vay vốn các tổ chức tín dụng theo quy định hiện hành về chính sách tín dụng nông nghiệp và nông thôn.             2.3. Trình tự thành lập đăng ký kinh doanh hợp tác xã             2.3.1. Thủ tục báo cáo Ủy ban nhân dân cấp xã về ý định thành lập Sáng lập viên là công dân Việt Nam, từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ luật Dân sự; đại diện có đủ thẩm quyền của hộ gia đình hoặc pháp nhân, có hiểu biết pháp luật về hợp tác xã và khẳng định bằng văn bản cam kết sẽ xây dựng và phát triển hợp tác xã do mình khởi xướng thành lập. Các sáng lập viên sẽ là nòng cốt cho việc chuẩn bị thành lập hợp tác xã. Sáng lập viên báo cáo bằng văn bản với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi dự định đặt trụ sở chính của hợp tác xã về việc thành lập, địa điểm đóng trụ sở, phương hướng sản xuất, kinh doanh và kế hoạch hoạt động của hợp tác xã, đồng thời tiến hành các công việc tuyên truyền, vận động các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân và cán bộ, công chức nhà nước có nhu cầu tham gia hợp tác xã; xây dựng phương hướng sản xuất, kinh doanh; dự thảo Điều lệ và xúc tiến các công việc cần thiết khác để tổ chức hội nghị thành lập hợp tác xã. Việc báo cáo với Ủy ban nhân dân cấp xã chỉ mang tính chất thông báo, chứ không mang ý nghĩa xin phép. Vì vậy, ngay sau khi việc thực hiện thông báo, các sáng lập viên tiến hành các hoạt động tiếp theo để chuẩn bị cho sự ra đời hợp tác xã, mà không cần phải chờ đợi được sự đồng ý hay không đồng ý cho thành lập của Ủy ban nhân dân cấp xã. Quy định này, một mặt, tránh được sự phiền hà, gây khó khăn cho việc thành lập hợp tác xã từ phía chính quyền địa phương, mặt khác, tạo sự chủ động cho các sáng lập viên trong việc nhanh chóng xúc tiến việc thành lập hợp tác xã. 2.3.2. Tổ chức hội nghị thành lập hợp tác xã Hội nghị thành lập hợp tác xã là Hội nghị đầu tiên quyết định việc thành lập hợp tác xã. Hội nghị thành lập hợp tác xã do sáng lập viên tổ chức. Thành phần tham gia hội nghị bao gồm sáng lập viên và cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân khác có nguyện vọng trở thành xã viên. Hội nghị thảo luận và thống nhất về phương hướng sản xuất, kinh doanh; kế hoạch hoạt động của hợp tác xã; dự thảo Điều lệ hợp tác xã; tên, biểu tượng (nếu có) của hợp tác xã và lập danh sách xã viên. Những vấn đề cần được thảo luận và biểu quyết theo đa số tại hội nghị thành lập hợp tác xã được ấn định tại khoản 3 Điều 11 Luật hợp tác xã năm 2003 trên cơ sở kế thừa khoản 3 Điều 13 Luật hợp tác xã năm 1996. Tuy nhiên, để phù hợp với tình hình phát triển chung của các loại hình doanh nghiệp, tạo sự chủ động, tự quyết định của hợp tác xã, Luật hợp tác xã năm 2003 đã bổ sung một số quy định mới cho phù hợp: - Về số lượng xã viên: Theo quy định tại Điều 4 Luật hợp tác xã năm 1996 thì Điều lệ mẫu của các hợp tác xã do Chính phủ ban hành phải quy định rõ số lượng xã viên tối thiểu. Như vây, tuy cùng loại hình hợp tác xã nhưng hoạt động trên các lĩnh vực, ngành, nghề khác nhau thì hợp tác xã có số lượng xã viên tối thiểu không giống nhau. Điều này, đã tạo sự phức tạp cho hợp tác xã khi thành lập. Để khắc phục hạn chế đó, Luật hợp tác xã năm 2003 đã quy định rõ số lượng xã viên tối thiểu chung cho tất cả các hợp tác xã hoạt động trong mọi lĩnh vực, ngành, nghề khác nhau là 7 xã viên. - Ngoài việc thông qua Điều lệ, Luật hợp tác xã năm 2003 còn bổ sung thông qua Nội quy hợp tác xã. Bởi vì, đây là một văn bản quan trọng quy định về những vấn đề trong nội bộ hợp tác xã, làm cơ sở cho hoạt động quản lý và điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã và có giá trị lâu dài đối với hợp tác xã. - Về việc thành lập bộ máy quản lý và điều hành hợp tác xã: Luật hợp tác xã năm 1996 chỉ quy định hợp tác xã chỉ tổ chức duy nhất một bộ máy vừa thực hiện chức năng quản lý, vừa thực hiện chức năng điều hành hợp tác xã là Ban quản trị và Ban kiểm soát. Chủ nhiệm là là người đứng đầu Ban quản trị do Hội nghị thành lập hợp tác xã bầu cùng với các thành viên khác của Ban quản trị, Ban kiểm soát. Những quy định trên không còn phù hợp với sự phát triển của hợp tác xã trong điều kiện tình hình mới. Hiện nay, có những hợp tác xã với số lượng xã viên đông, quy mô phát triển lớn, vốn đầu tư nhiều và thị trường rộng đòi hỏi phải có sự tách biệt giữa chức năng quản lý và chức năng điều hành trong tổ chức hoạt động. Do vậy, nếu tiếp tục duy trì mô hình tổ chức quản lý, điều hành như quy định tại Luật hợp tác xã năm 1996 thì không còn phù hợp, tạo ra lực cản kiềm hãm sự phát triển của các hợp tác xã có tiềm năng. Vì vậy, để đáp ứng đòi hỏi khách quan, đồng thời để tạo sự chủ động trong tổ chức và hoạt động của hợp tác xã trên nguyên tắc gọn nhẹ và có hiệu quả, Luật hợp tác xã năm 2003 đã đưa ra hai loại hình tổ chức bộ máy quản lý và điều hành đối với hợp tác xã: Một là, hợp tác xã thành lập một bộ máy vừa quản lý vừa điều hành: Số lượng thành viên Ban quản trị, Ban kiểm soát do Hội nghị thành lập hợp tác xã quyết định căn cứ vào số lượng xã viên tại thời điểm thành lập. Trong thời gian hoạt động Đại hội xã viên quyết định tăng hay giảm số lượng thành viên Ban quản trị, Ban kiểm soát cho phù hợp và báo cáo bằng văn bản tới cơ quan đăng ký kinh doanh. Đại hội xã viên bầu Ban quản trị và Chủ nhiệm; Ban kiểm soát và Trưởng Ban kiểm soát. Chủ nhiệm hợp tác xã đồng thời là Trưởng Ban quản trị; quyết định số lượng Phó chủ nhiệm hợp tác xã. Hai là, hợp tác xã thành lập riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành: Số lượng thành viên gồm Ban quản trị, Ban kiểm soát. Đại hội xã viên trực tiếp bầu Ban quản trị và Trưởng Ban quản trị trong số thành viên Ban quản trị; quyết định bầu hoặc thuê Chủ nhiệm hợp tác xã; quyết định số lượng Phó chủ nhiệm hợp tác xã. 2.3.3. Điều lệ hợp tác xã Điều lệ hợp tác xã là tôn chỉ, là mục đích của hợp tác xã, gồm những quy định nội bộ phù hợp với điều kiệ cụ thể về ngành nghề kinh doanh của hợp tác xã, được toàn thể xã viên nhất trí thông qua, là căn cứ pháp lý để giải quyết các mối quan hệ giữa các xã viên với nhau, cũng như giữa các xã viên với hợp tác xã và có giá trị lâu dài trong hợp tác xã. Khi thành lập, mỗi hợp tác xã phải xây dựng Điều lệ riêng. Điều lệ hợp tác xã phải phù hợp với Điều 12 của Luật hợp tác xã năm 2003 và Nghị định 77/2005/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2005 của Chính phủ quy định về việc ban hành mẫu hướng dẫn xây dựng Điều lệ hợp tác xã. Điều lệ hợp tác xã do các sáng lập viên dự thảo trình Hội nghị thành lập hợp tác xã thảo luận và biểu quyết thông qua. Tại Hội nghị, các thành viên tham gia hợp tác xã thảo luận thông qua từng điều khoản của Điều lệ theo nguyên tắc đa số với trên 50% số xã viên tham gia Hội nghị nhất trí tán thành. Trong trường hợp biểu quyết mà số phiếu tán thành và số phiếu không tán thành ngang nhau thì ý kiến của bên người Chủ trì hội nghị được xem như quyết định. Luật hợp tác xã năm 2003 đã bỏ quy định về điều lệ mẫu, thay vào đó luật chỉ quy định Chính phủ ban hành mẫu hướng dẫn xây dựng điều lệ cho hợp tác xã, mà cụ thể là được Nghị định 77/2005/NĐ-CP điều chỉnh đã bổ sung chi tiết hơn Điều 12 của Luật hợp tác xã năm 2003, để từ đó giúp cho các hợp tác xã có điều kiện dựa vào đó xây dựng điều lệ của mình một cách dễ dàng. Điều lệ hợp tác xã có các nội dung chủ yếu sau[24]: - Tên hợp tác xã, biểu tượng của hợp tác xã (nếu có); - Địa chỉ trụ sở chính của hợp tác xã; - Ngành, nghề sản xuất, kinh doanh; - Các quy định về đối tượng, điều kiện, thủ tục gia nhập hợp tác xã và ra hợp tác xã của xã viên; - Các quy định về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của xã viên; - Nguyên tắc và đối tượng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc; - Vốn điều lệ của hợp tác xã; - Vốn góp tối thiểu: mức góp, hình thức góp, thời hạn góp và điều kiện trả lại vốn góp của xã viên; - Thẩm quyền và phương thức huy động vốn; - Nguyên tắc trả công, xử lý các khoản lỗ; chia lãi theo vốn góp, theo công sức đóng góp của xã viên và theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã; trích lập, quản lý và sử dụng các quỹ của hợp tác xã; - Thể thức quản lý, sử dụng, bảo toàn và xử lý phần tài sản chung, vốn tích luỹ của hợp tác xã khi hợp tác xã đang hoạt động và khi hợp tác xã giải thể; - Cơ cấu tổ chức quản lý hợp tác xã; chức năng, quyền, nhiệm vụ và trách nhiệm của Ban quản trị, Trưởng Ban quản trị, Chủ nhiệm hợp tác xã, Ban kiểm soát, Trưởng Ban kiểm soát và các bộ phận giúp việc cho hợp tác xã; - Người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã; - Thể thức tiến hành Đại hội và thông qua quyết định của Đại hội xã viên; - Chế độ xử lý vi phạm Điều lệ hợp tác xã và nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ; - Thể thức sửa đổi Điều lệ hợp tác xã; - Các quy định khác do Đại hội xã viên tự quyết định nhưng không trái với quy định của pháp luật. Như vậy, so với Điều 14 của Luật hợp tác xã năm 1996, nội dung điều lệ hơp tác xã theo quy định tại Điều 12 của Luâth hợp tác xã năm 2003 đã được bổ sung như sau: Bổ sung về nguyên tắc và đối tượng đóng bảo hiểm bắt buộc. Theo Luật hợp tác xã năm 2003, đối tượng tham gia hợp tác xã khá đa dạng, đồng thời để đảm bảo quyền lợi của xã viên và người lao động, cũng như việc hợp tác xa thực hiện các quy định của Luật bảo hiểm và Luật lao dộng. Chính vì vậy mà cần được bổ sung vào Điều lệ hợp tác xã. Hơn nữa, việc chi trả các khoản bảo hiểm xã hội có liên quan trực tiếp đến điều kiện tài chính của hợp tác xã, mà cụ thể là quyền lợi của xã viên. Vì vậy, vấn đề xác định nguyên tắc và đối tượng đóng bảo hiểm bắt buộc phải được Đại hội xã viên thông qua và ghi trong Điều lệ hợp tác xã. Bổ sung về thẩm quyền và phương thức huy động vốn. Vốn là yếu tố hết sức quan trọng đối với mọi loại hình doanh nghiệp, vốn giúp duy trì, mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh. Do đó, việc huy động vốn là hết sức cần thiết đối với hợp tác xã. Tuy nhiên, việc huy động nguồn vốn cũng gắn liền với nghĩa vụ thanh toán các khoản huy động dưới các hình thức khác nhau, có thể ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính và sự tồn tại của hợp tác xã. Vì thế, việc xác định giao cho ai thẩm quyền huy động vốn, cũng như phương thức huy động vốn như thế nào phải do chính các xã viên quyết định và ghi nhận vào Điều lệ hợp tác xã. Bên cạnh đó, việc ghi nhận trên vừa đảm bảo nguyên tắc huy động vốn, vừa giúp cho cơ quan điều hành hợp tác xã chủ động trong quá trình thực hiện công việc của mình và tránh tình trạng lợi dụng quyền hạn làm ảnh hướng đến quyền lợi chính đáng của hợp tác xã và xã viên. Bổ sung thể thức quản lý, sử dụng, bảo toàn và xử lý phần tài sản chung, vốn tích luỹ của hợp tác xã khi hợp tác xã đang hoạt động và khi hợp tác xã giải thể. Với đặc thù của loại hình hợp tác xã, nguồn tài sản chung của hợp tác xã là phần tài sản quan trọng. Chính vì lẽ đó, việc quản lý, sử dụng và bảo toàn tài sản đó không chỉ liên quan đến hiệu quả hoạt động của hợp tác xã, quyền lợi của xã viên, mà còn liên quan đến sinh hoạt của cộng đồng dân cư, đặc biệt là đối với các hợp tác xã nông nghiệp. Với tư cách là một tổ chức kinh tế tập thể hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm, việc sử dụng các nguồn vốn, trong đó có vốn tích lũy của hợp tác xã khi hợp tác xã đang hoạt động hoặc giải thể, ngoài phần xử lý theo quy định của Luật hợp tác xã năm 2003 và các quy định pháp luật khác có liên quan, tập thể xã viên được quyết định xử lý phần tài sản quan trọng này thông qua thỏa thuận và ghi nhận trong Điều lệ hợp tác xã. Bổ sung về người Đại diện theo pháp luật của hợp tác xã. Là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, do vậy, mọi quan hệ hoạt động của hợp tác xã với các chủ thể bên ngoài phải được xác lập thông qua người đại diện. So với Luật hợp tác xã năm 1996, thì người đại diện của hợp tác xã là Chủ nhiệm hợp tác xã, tuy nhiên, Luật hợp tác xã năm 2003 đã mở rộng thêm mô hình quản lý của hợp tác xã, nên người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã không chỉ riêng Chủ nhiệm hợp tác xã mà còn có thể là Trưởng ban quản trị, điều đó phụ thuộc vào từng loại mô hình tổ chức, quản lý, điều hành của hợp tác xã. Mặt khác, Chủ nhiệm hợp tác xã là người đứng đầu bộ máy điều hành và có thể do hợp tác xã thuê. Do đó, không phải trong mọi trường hợp Chủ nhiệm hợp tác xã đương nhiên trở thành người Đại diện theo pháp luật của hợp tác xã. Vì vậy, để phân định rõ ràng tư cách và trách nhiệm trước pháp luật, nên việc khẳng định người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã trong Điều lệ là hết sức cần thiết và phù hợp với thực tế khách quan. Bổ sung về chế độ xử lý vi phạm Điều lệ hợp tác xã và nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ. Điều lệ, Nội quy hợp tác xã điều chỉnh những quan hệ nội bộ trong hợp tác xã, tạo cơ sở cho ổn định trong tổ chức quản lý, sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã. Trong trường hợp có vi phạm Điều lệ hợp tác xã của các xã viên, thì tùy theo tính chất mức độ vi phạm mà bị kiển trách, cảnh cáo, khai trừ khỏi hợp tác xã, nếu gây thiệt hại tài sản thì phải bồi thường. Bên cạnh đó, nếu trong nội bộ hợp tác xã có tranh chấp phát sinh thì có thể giải quyết trên cở sở hòa giải giữa các xã viên với nhau và giữa xã viên với hợp tác xã theo nguyên tắc bình đẳng, hợp tác; trường hợp không giải quyết được thì trình Đại hội xã viên xem xét, quyết định, nếu không được thì đề nghị Tòa án nhân dân có thẩm quyền sẽ giải quyết. Việc bổ sung nội dung trên vào Điều lệ hợp tác xã có ý nghĩa rất quan trọng nhằm làm ổn định quan hệ trong nội bộ hợp tác xã và tăng cường kỷ luật trong tổ chức có đặc thù mang tính xã hội sâu sắc như hợp tác xã. Bổ sung về thể thức sửa đổi Điều lệ hợp tác xã. Điều lệ hợp tác xã là văn bản quan trọng, có thể xem đây là “Luật” đối với hợp tác xã, có nội dung liên quan đến mọi hoạt động của hợp tác xã, cũng như quyền lợi của các xã viên và do chính các xã viên thông qua. Vì vậy, việc sửa đổi Điều lệ hợp tác xã để cho phù hợp với tình hình của hợp tác xã trong từng giai đoạn phát triển cũng phải do tập thể xã viên quyết định. Ngoài ra, Luật hợp tác xã năm 2003 và Nghị định 77/2005/NĐ-CP còn bổ sung trong Điều lệ hợp tác xã một số nội dung khác như: điều kiện trả lại vốn của xã viên; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chức danh quản lý, điều hành, kiểm soát; ghi nhận thêm một số chức danh khác như

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu những quy định của pháp luật về hợp tác xã.doc
Tài liệu liên quan