Đề tài Tìm hiểu về bằng chứng kiểm toán và các phương pháp thu thập bằng chứng kiểm toán

 

Lời mở đầu 1

Nội dung 2

1. Lý luận chung về bằng chứng kiểm toán 2

1.1 Khái niệm về bằng chứng kiểm toán 2

1.2 Mục tiêu kiểm toán với việc thu thập bằng chứng kiểm toán 3

1.3 Trọng yếu và rủi ro kiểm toán chi phối việc thu thập bằng chứng kiểm toán. 5

1.4 Các quyết định về bằng chứng kiểm toán 7

1.4.1 Những thể thức kiểm toán 7

1.4.2 Qui mô mẫu 8

1.4.3 Các khoản mục phải chọn 8

1.4.4 Xác định thời gian 8

1.4.5 Chương trình kiểm toán 9

1.5 Tính thuyết phục của bằng chứng kiểm toán 9

1.5.1 Tính có giá trị 10

1.5.2 Tính đầy đủ 12

1.5.3 Tính đúng lúc 12

2. Các phương pháp thu thập bằng chứng kiểm toán 14

2.1 Kiểm toán chứng từ. 14

2.1.1 kiểm toán các cân đối kế toán 14

2.1.2 Đối chiếu trực tiếp 16

2.1.3 Đối chiếu logic 16

2.2 Các phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ 17

2.2.1. Kiểm kê 17

2.2.2 Thực nghiệm 18

2.2.3 Điều tra 18

3. Vận dụng lý luận vào chuẩn mực số 500 19

4. Mối quan hệ giữa hồ sơ kiểm toán với bằng chứng kiểm toán 24

Kết luận 26

Tài liệu tham khảo 27

 

 

doc28 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1510 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về bằng chứng kiểm toán và các phương pháp thu thập bằng chứng kiểm toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iểm toán viên và công ty kiểm toán luôn phải xác định làm sao chi phí kiểm toán bỏ ra ít nhất và kết quả thu được là cao nhất. kết quả ở đây chính là doanh thu mà cuộc kiểm toán mang lại. Để làm được điều này thì chi phí bỏ ra để thu thập bằng chứng kiểm toán phải hữu hiệu nhất tức là chi thu được những bằng chứng kiểm toán phù hợp nhất để đưa ra các quyết định một cách chính xác nhất. Báo cáo tài chính bao gồm các thông tin tổng hợp liên quan đến toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh trong một niên độ tài chính được kiểm toán. Với đối tượng kiểm toán rộng như vậy việc kiểm tra toàn bộ sẽ tạo ra một khoản chi phí rất lớn và tính hiệu quả của công việc không cao. Cụ thể kiểm toán viên không thể kiểm tra tất cả các phiếu chi đã thanh toán, các hoá đơn bán hàng, các đơn đặt hàng... Do đó các vấn đề đặt ra là phải xác định số lượng bằng chứng thích hợp cần thu thập để có thể đánh giá một cách toàn diện về đối tượng kiểm toán. Quyết định này của kiểm toán viên về thu thập bằng chứng kiểm toán có thể chia thành bốn quyết định chính sau. Những thể thức kiểm toán nào phải sử dụng Quy mô mẫu nào phải chọn với một thể thức đã định Những khoản mục cá biệt nào phải chọn từ tổng thể Khi nào hoàn thành các thể thức 1.4.1 Những thể thức kiểm toán Những thể thức kiểm toán là những hướng dẫn chi tiết về quá trình thu thập một loại bằng chứng kiểm toán cá biệt phải thu ở một thời điểm nào đó trong cuộc kiểm toán. Ví dụ Bằng chứng là những Báo cáo kiểm kê vật chất hàng tồn kho, những bảng so sánh giữa các phiếu chi đã thanh toán với các khoản chi tiền mặt, các bút toán nhật ký và các chi tiết trong chứng từ vật chất được thu thập có sử dụng các thể thức kiểm toán. Khi thiết kế các thể thức kiểm toán thường phải sắp xếp theo thứ tự trong những phương pháp cụ thể để giúp cho việc sử dụng chúng như những hướng dẫn trong suốt cuộc kiểm toán. Ví dụ: Lấy sổ nhật ký chi tiền mặt và so sánh tên người được chi, số tiền, và ngày ghi trên các phiếu chi đã thanh toán với sổ nhật ký chi tiền mặt. 1.4.2 Qui mô mẫu Như đã nói ở trên, đối tượng kiểm tóan là những nghiệp vụ cụ thể, những tài sản cụ thể, những chứng từ cụ thể và thường được biểu hiện bằng số tiền xác định. Số lượng các nghiệp vụ, các tài sản, các chứng từ thuộc đối tượng kiểm toán có số lượng rất lớn do vậy trong nhiều trường hợp không thể kiểm kê toàn bộ tài sản cũng không thể soát xét và đối chiếu tất cả các chứng từ kế toán, các số dư của các tài khoản. Trong khi đó, chuẩn mực thận trọng thích đáng lại không cho phép công tác kiểm toán bỏ qua những sai phạm trọng yếu để loại trừ những rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, giảm thiểu tối đa rủi ro phát hiện. Mặt khác niềm tin của những người quan tâm tới tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán cũng đòi hỏi kiểm toán viên phải đưa ra được những đánh giá chính xác về chất lượng của báo cáo tài chính. Để đáp ứng được yêu cầu của người quan tâm, của chuẩn mực thận trọng đồng thời giải quyết được công việc thì phương pháp chọn mẫu là thích hợp nhất. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt nam số 400 “ Lấy mẫu kiểm toán là áp dụng thủ tục kiểm toán trên phần tử ít hơn 100% tổng số phần tử của một số dư tài khoản hay nghiệp vụ sao cho mọi phần tử đều có cơ hội được chọn. Sau khi đã chọn được thể thức kiểm toán qui mô mẫu có thể biến động từ một vài khoản mục đến toàn bộ các khoản mục chứa trong tổng thể đang được khảo sát. Trong thể thức kiểm toán ở trên giả sử có 10000 phiếu chi để so sánh với sổ nhật ký tiền mặt. việc quyết định chọn bao nhiêu khoản mục để khảo sát phải được kiểm toán viên thực hiện cho từng thể thức kiểm toán. Quy mô mẫu với bất kỳ thể thức định sẵn nào có khả năng thay đổi từ cuộc kiểm toán này sang cuộc kiểm toán khác. 1.4.3 Các khoản mục phải chọn Sau khi quy mô mẫu đã được xác định cho từng thể thức kiểm toán cá biệt, điều cần làm là xác định các khoản mục cá biệt để kiểm tra. Ví dụ nếu kiểm toán viên quyết định chọn 500 phiếu chi đã thanh toán từ tổng thể gồm10000 phiếu chi để so sánh với sổ nhật ký chi tiền mặt. Có một số phương pháp khác nhau có thể được sử dụng để lựa chọn các phiếu chi để kiểm tra. Chọn ngẫu nhiên 500 phiếu chi, chọn 500 phiếu chi có số tiền lớn nhất,chọn 500 phiếu chi sát ngày kết thúc niên độ nhất, chọn 500 phiếu chi đầu tiên, hoặc chọn những phiếu chi mà kiểm toán viên nghĩ rằng chúng có khả năng sai sót nhiều nhất. Hoặc kết hợp tất cả các phương pháp trên. 1.4.4 Xác định thời gian Một cuộc kiểm toán các Báo cáo tài chính thường của một kỳ ví dụ như một năm. Và một cuộc kiểm toán phải mất vài tuần hoặc vài tháng sau khi kết thúc một kỳ kế toán. Xác định thời gian của các thể thức do đó có thể thay đổi từ rất sớm trong kỳ kế toán cho đến rất lâu sau khi kỳ kế toán kết thúc. Trong cuộc kiểm toán báo cáo tài chính khách hàng thường mong muốn cuộc kiểm toán được tiến hành trong vòng từ một đến ba tháng sau khi niên độ kế toán kết thúc. 1.4.5 Chương trình kiểm toán Sự diễn tả chi tiết các kết quả của bốn quyết định về bằng chứng kiểm toán trong cuộc kiểm toán đặc thù được gọi là chương trình kiểm toán. Chương trình kiểm toán luôn luôn bao gồm một danh sách các thể thức kiểm toán. Chương trình kiểm toán cũng thường nêu rõ các quy mô mẫu các khoản mục cá biệt phải chọn và thời gian của các khảo sát. Thông thường có một mục chương trình kiểm toán cho từng yếu tố cấu thành cuộc kiểm toán. Do đó sẽ có một chương trình kiểm toán với các các khoản phải thu, doanh thu, hàng tồn kho, tiền mặt... Hiện nay các công ty kiểm toán có một chương trình kiểm toán mẫu cho tất cả các cuộc kiểm toán. Khi thực hiện một cuộc kiêm toán cụ thể kiểm toán viên chính hoặc chủ nhiệm kiểm toán dựa vào chương trình kiểm toán mẫu này và thực trạng của đơn vị được kiểm toán để thiết kế ra một chương trình kiểm toán phù hợp. Khi thực hiện kiểm toán kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải dựa vào chương trình kiểm toán này để tìm ra những bằng chứng thích hợp. Khi thấy chương trình kiểm toán cần phải thay đổi kiểm toán viên phải báo với chủ nhiệm kiểm toán để chủ nhiệm kiểm toán tiến hành trao đổi với đơn vị khách hàng sau đó kế hoạch kiểm toán mới có sự thay đổi. 1.5 Tính thuyết phục của bằng chứng kiểm toán Chuẩn mực kiểm toán số 500 “bằng chứng kiểm toán” qui định “kiểm toán viên phải thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp cho mỗi loại ý kiến của mình. Sự đầy đủ và tính thích hợp luôn đi liền với nhau và áp dụng cho các bằng chứng kiểm toán thu thập được từ các thủ tục thử nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản”. Ba yếu tố quyết định tính thuyết phục của bằng chứng kiểm toán là tính có giá trị, tính đầy đủ và tính đúng lúc. 1.5.1 Tính có giá trị Tính có giá trị của bằng chứng kiểm toán chỉ liên quan với các thể thức kiểm toán đã chọn. Tính có giá trị không thể được cải thiện bằng cách chọn một qui mô mẫu lớn hơn hoặc các khoản mục ở các tổng thể khác nhau. Nó chỉ có thể được cải thiện bằng cách chọn lựa những thể thức kiểm toán có chứa một hoặc nhiều hơn sáu đặc điểm dưới đây của bằng chứng có chất lượng cao hơn. Thích đáng: Bằng chứng phải đi đôi hoặc thích hợp với mục tiêu mà kiểm toán viên đang khảo sát trước khi nó có thể thuyết phục. Ví dụ: Qua các khảo sát kiểm toán viên nghi ngờ rằng một số hoá đơn bán hàng của công ty khách hàng không được ghi sổ (vi phạm tính đầy đủ ) khi đó kiểm toán viên không thể đối chiếu từ sổ sách kế toán với các chứng từ được vì như vậy chỉ phát hiện ra sự vi phạm nguyên tắc về tính hiện hữu mà thôi. Thể thức kiểm toán phù hợp ở đây là so sánh từ các chứng từ vào sổ sách kế toán. Tính thích đáng chỉ có thể nghiên cứu trong các điều kiện của mục tiêu kiểm toán đặc thù. Bằng chứng có thể phù hợp với mục tiêu này nhưng lại không với mục tiêu khác. Độc lập với người cung cấp: chứng cứ có được từ một nguồn từ bên ngoài công ty thì đáng tin cậy hơn chứng cứ có từ bên trong. Ví dụ, chứng cứ bên ngoài như những tin tức từ các ngân hàng, luật sư hoặc các khách hàng thường là đáng tin cậy hơn những câu trả lời có được từ các cuộc thẩm vấn công ty khách hàng và từ các chứng từ của công ty khách hàng. Tính hiệu quả trong cơ cấu kiểm soát nội bộ của công ty khách hàng: khi một cơ cấu kiểm soát nội bộ của công ty khách hàng có hiệu quả, bằng chứng thu được khi đó sẽ đáng tin cậy hơn so với một cơ cấu yếu kém. Chính vì vậy trước khi tiến hành lập kế hoạch kiểm toán công ty kiểm toán phải tiến hành tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị khách hàng. Thông qua việc hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng, tính chính trực của ban giám đốc... kiểm toán viên có được những thông tin cơ sở để tiến hành lập kế hoạch kiểm toán. Để làm được điều đó kiểm toán viên phải sử dụng các phương pháp kỹ thuật như: Đưa ra một hệ thống câu hỏi về kiểm soát nội bộ. Đòi hỏi đơn vị khách hàng cung cấp một bảng tường thuật về hệ thống kiểm soát của mình, hoặc dùng phương pháp lưu đồ. Trong quá trình thực hiện kiểm toán các kiểm toán viên vẫn phải tiếp tục thu thập những thông tin về hệ thống kiểm soát nội bộ thông qua trắc nghiệm công việc để từ đó tiếp tục đưa ra những phương pháp thu thập bằng chứng một cách hiệu quả. Để xem xét hệ thống kiểm soát nội bộ trước khi tiến hành lập kế hoạch kiểm toán viên thường đưa ra một bảng câu hỏi cho từng khoản mục và yêu cầu kế toán đơn vị được kiểm toán trả lời. Ví dụ về hệ thống câu hỏi đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của các khoản phải thu, phải trả như sau: Các bước công việc Có Không Không áp dụng Ghi chú 1. Có theo dõi riêng biệt từng khoản phải thu, phải trả của khách hàng không. 2. Có đối chiếu công nợ thường xuyên với khách hàng không 3. những người chịu trách nhiệm theo dõi các khoản phải thu, phải trả có được tham gia giao hàng không 4. Khách hàng đã lập dự phòng cho những khoản phải thu khó đòi chưa. 5. Có thường xuyên rà soát lại các khoản công nợ để sử lý kịp thời không? 6. Việc hạch toán các khoản phải thu, phả trả có dựa trên căn cứ chứng từ không? 7. việc hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh có đúng kỳ không? 8. Cuối kỳ các khoản công nợ có gốc bằng ngoại tệcó được đánh giá lại theo tỷ giá cuối kỳ không? Kết luận: Hệ thống kiểm soát nội bộ của các khoản phải thu, phải trả: Khá Trung bình Yếu Kiến thức trực tiếp của kiểm toán viên: Bằng chứng do kiểm toán viên thu được một cách trực tiếp thông qua quá trình xem xét thực tế, quan sát, tính toán, và điều tra thì có giá trị hơn thông tin thu được một cách gián tiếp.Ví dụ, nếu kiểm toán viên tính tổng số dư như một tỉ lệ % của doanh thu và đem so sánh với các kỳ trước đó, chứng cứ đó sẽ đáng tin cậy hơn nhiều nếu kiểm toán viên chỉ dựa trên các tính toán của kế toán trưởng. Trình độ chuyên môn của những cá nhân cung cấp thông tin: Mặc dù nguồn của thông tin là độc lập, chứng cứ chỉ đáng tin cậy khi cá nhân cung cấp nó có đủ trình độ chuyên môn để làm điều đó. Vì lý do này, những xác nhận từ các luật sư và các ngân hàng rõ ràng được đánh giá cao hơn những xác nhận về các khoản phải thu từ những người không quen thuộc với kinh doanh. Tương tự, chứng cứ thu được trực tiếp bởi kiểm toán viên có thể không đáng tin cậy nếu anh ta thiếu trình độ chuyên môn để đánh giá chứng cứ. Mức độ khách quan: chứng cứ có tính khách quan đáng tin cậy hơn chứng cứ mà cần có sự phán xét đáng kể để đi đến quyết định là nó đúng hay không. 1.5.2 Tính đầy đủ Số lượng chứng cứ thu thập quyết định tính đầy đủ của nó. Do đó, qui mô mẫu mà kiểm toán viên lựa chọn rất quan trọng trong việc quyết định tính đầy đủ của chứng cứ. Đối với một thủ tục kiểm toán đã định, chứng cứ thu được từ một mẫu gồm 200 cá thể thường sẽ đầy đủ hơn một mẫu gồm 100 cá thể. Ngoài qui mô mẫu, các khoản mục cá biệt được khảo sát có ảnh hưởng đến tính đầy dủ của chứng cứ. Các mẫu bao gồm các khoản mục có trị giá bằng tiền lớn, các khoản mục có khả năng sai sót cao, và các khoản mục có tính đại diện cho tổng thể thì thường được cho là đầy đủ. Ngược lại phần lớn kiểm toán viên cho rằng mẫu không đầy đủ khi chỉ gồm các khoản mục có giá trị bằng tiền lớn trong tổng thể. 1.5.3 Tính đúng lúc Tính đúng lúc của chứng cứ kiểm toán có thể dựa vào hoặc thời gian chứng cứ được thu thập hoặc thời kỳ được kiểm toán. Đối với các tài khoản trên bảng cân đối tài sản, chứng cứ thường có tính thuyết phục hơn khi nó được thu thập càng gần ngày lập bảng cân đối tài sản. Ví dụ sự kiểm tra của kiểm toán viên về các chứng khoán thị trường vào ngày lập bảng cân đối tài sản sẽ có tính thuyết phục hơn sự kiểm tra vào hai tháng trước đó. Đối với các tài khoản trên báo cáo kết quả kinh doanh chứng cứ có tính thuyết phục hơn nếu mẫu được lấy trong suốt thời kỳ kiểm toán so với mẫu được lấy từ một phần của cả kỳ. Ví dụ, mẫu ngẫu nhiên được lấy từ các nghiệp vụ bán hàng của cả năm sẽ có tính thuyết phục hơn mẫu được lấy từ sáu tháng đầu năm. Như vậy sức thuyết phục của chứng cứ chỉ có thể được đánh giá sau khi xem xét tổng hợp tính có giá trị, tính đầy đủ và tính đúng lúc. Một mẫu gồm chứng cứ có giá trị cao chỉ có tính thuyết phục khi đồng thời nó cũng đúng lúc. Tương tự, một mẫu lớn gồm chứng cứ không đáng tin cậy không có sức thuyết phục. Có những mối quan hệ trực tiếp giữa bốn quyết định về việc tập hợp chứng cứ với ba tính chất xác định tính thuyết phục của chứng cứ. Bảng3 trình bày mối quan hệ này. Bảng 3: Các mối quan hệ giữa các quyết định về chứng cứ với tính thuyết phục Các quyết định về chứng cứ các tính chất ảnh hưởng đến tính thuyết phục của chứng cứ Thể thức kiểm toán Có giá trị thích đáng. Độc lập với người cung cấp Tính hiệu quả của cơ cấu kiểm soát nội bộ Kiến thức trực tiếp của kiểm toán viên Trình độ chuyên môn của người cung cấp Tính khách quan của chứng cứ Qui mô và các khoản mục phải chọn Tính đầy đủ Qui mô mẫu đầy đủ Sự chọn lựa các khoản mục thích hợp trong tổng thể Xác định thời gian Tính đúng lúc khi nào các thể thức được hoàn thành Khoảng thời gian được kiểm toán trong kỳ. Tính thuyết phục bằng chứng kiểm toán được sắp xếp theo thứ tự giảm dần như sau: Bằng chứng do kiểm toán viên tự xác lập (do kiểm toán ngoài chứng từ hoặc để xác minh lại sai sót trọng yếu ) Bằng chứng do người bên ngoài cung cấp và kiểm toán viên kiểm tra. Bằng chứng từ chứng từ kiểm toán trong điều kiện kiểm soát nội bộ có hiệu lực cao. Bằng chứng từ chứng từ trong điều kiện kiểm soát nội bộ chưa có hiệu lực tốt. Bằng chứng bằng miệng. 2. các phương pháp thu thập bằng chứng kiểm toán Cũng như các môn khoa học khác kiểm toán có phương pháp chung, phương pháp luận và phương pháp kỹ thuật để hình thành những phương pháp xác minh và bày tỏ ý kiến ( phương pháp thu thập bằng chứng kiểm toán để từ đó nó đáp ứng được sự mong mỏi đợi chờ của những người quan tâm tới những thông tin tài chính của đơn vị khách hàng cũng như đáp ứng được những yêu cầu về hiệu qủa và chất lượng kiểm toán). Cơ sở phương pháp luận của kiểm toán là phép biện chứng duy vật. Quan điểm biện chứng không những chỉ ra tính logic của quá trình nhận thức mà còn vạch ra các mối quan hệ và quy luật vận động của mọi sự vật hiện tượng. Cái gốc của phương pháp luận hình thành nên các phương pháp thu thập bằng chứng kiểm toán là kế toán. Để có thể tiến hành một cuộc kiểm toán một kiểm toán viên phải nắm vững chắc chế độ kế toán mà doanh nghiệp áp dụng cho báo cáo tài chính của mình, am hiểu luật pháp và hiểu rõ ngành nghề kinh doanh của khách hàng. Thực trạng của ngành kiểm toán tài chính cho thấy một phần của hoạt động tài chính được phản ánh trên các tài liệu kế toán và một phần khác chưa được phản ánh trên tài liệu này. Trên cơ sở này kiểm toán chia ra làm hai phương pháp thu thập bằng chứng kiểm toán chủ yếu là phương pháp kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ. Kiểm toán chứng từ gồm 3 phương pháp : Kiểm toán các cân đối kế toán Đối chiếu trực tiếp Đối chiếu logic Phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ cũng gồm 3 phương pháp tạo nên là: Phương pháp kiểm kê Phương pháp điều tra Phương pháp trắc nghiệm Sau đây em sẽ lần lượt trình bày từng phương pháp nhỏ trong 2 phương pháp kiểm toán cơ bản là kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ. 2.1 Kiểm toán chứng từ. 2.1.1 kiểm toán các cân đối kế toán Trong hàng loạt các mối liên hệ giữa các mặt của sự vật, hiện tượng suất hiện mối liên hệ thống nhất và mâu thuẫn giữa hai mặt đối lập. Trong hoạt động kinh tế tài chính cũng suất hiện các mối liên hệ như vậy. Các quan hệ này được cụ thể hoá bằng các quan hệ cân đối khác nhau: cân đối giữa nguồn lực và kết quả, cân đối giữ số phất sinh nợ với số phát sing có …. Trong kiểm toán trước hết phải xét tới cân đối tổng quát theo mô hình cân đối tổng quát. Ví dụ: Với bảng cân đối tài sản Tài sản = vốn chủ sở hữu + công nợ ( Hoặc :Tổng tài sản = tổng nguồn vốn) Nếu chỉ số cân bằng này bị phá vỡ có nghĩa là báo cáo tài chính đã chứa đựng những sai sót cần điều chỉnh lại. Mà để phát hiện ra những sai sót này ta phải phải tiến hành những phương pháp kiểm toán khác. Nếu cân bằng được đảm bảo thì vẫn không có nghĩa là báo cáo tài chính không chứa đựng những sai lầm, khi đó kiểm toán viên vẫn phải triển khai các phương pháp khác để phát hiện ra chúng. Có điều là khi thấy sự cân bằng được đảm bảo kiểm toán viên sẽ có cái nhìn khác hơn về trình độ kế toán cũng như hệ thống kiểm soát nội bộ. Trong thực tế, kế toán của các doanh nghệp thường xuyên sửa đổi số liệu nhằm tạo ra sự cân bằng giả tạo. Ví dụ khi lập bảng cân đối thử kế toán thấy thông cân bằng giữa tài sản và nguồn vốn để đỡ mất thời gian kiểm tra lại tại sao có sự không cân bằng đó anh (chị) ta liền cho thêm một khoản đúng bằng số hụt đó vào bên tài sản hay nguồn vốn đó. Như vậy báo cáo tài chính đã hoàn thành với một sự cân đối giả tạo. Để phát hiện ra sự cân đối giả tạo này cũng là cả một vấn đề. Thực tế cũng cho thấy có những trường hợp các mối quan hệ cân bằng này thường xuyên không được duy trì. Khi đó phải xem xét bản chất riêng của mối liên hệ. Trong một số trường hợp, do bản thân các quy định, chế độ về kinh tế nói chung và về kết toán nó riêng làm cho quan hệ này không cân bằng về lượng. Thông thường trong tổ chức quản lý có các đơn vị kế toán cơ sở (độc lập) có liên hệ dọc theo ngành kinh tế kỹ thuật hoặc ngành chuyên sâu quá chặt chẽ về tài chính, các đơn vị kế toán được nhận cấp tài chính không đầy đủ, các đơn vị độc lập trong ngành độc quyền … các đơn vị này nếu không quy định cụ thể về kỹ thuật kế toán tài chính thì bảng cân đối kế toán thường không duy trì được cân bằng về lượng. Trong một số trường hợp khác có thể cân bằng không tồn tại trong một khoảng thời gian dài do lỗ về sử lý tài chính. Các trường hợp này thường gặp trong các đơn vị khó phân định trong việc sử lý các mối liên hệ từ liên kết qua hợp đồng chuyển qua liên doanh hoặc trong các đơn vị không xử lý triệt để về tài chính trong trường hợp tài sản, vốn tự có thất thoát hoặc thừa ra trong kiểm kê. Trong kinh doanh cũng có thể do cố ý không thực hiện quy tắc tài chính đều dẫn đến tình trạng mất cân bằng về kế toán như lập quyết toán giả tạo để nhận vốn dẫn đến vốn không cân đối với tài sản thực. Trong một số trường hợp khác, thiếu cân bằng này hoàn toàn do lỗi của kế toán. Chẳng hạn do kế toán hay làm tắt, do tâm lý khi ghi sổ, khoá sổ …. Như vậy dù quan hệ cân đối tổng quát có tồn tại hay không cân đối cũng phải đặt ra. Trong cân đối cụ thể phải dựa vào cân đối giữa số ghi có với số ghi nợ hoặc giữa số dư đầu kỳ với số tăng trong kỳ, với số cuối kỳ và số giảm trong kỳ của kế toán. Để kiểm toán ta phải chọn mẫu sau đó suy rộng ra cho quần thể mẫu. 2.1.2 Đối chiếu trực tiếp Đối chiếu trực tiếp là so sánh của cùng một chỉ tiêu trên các chứng từ kiểm toán. Đối chiếu này thường có trong các trường hợp sau: Đối chiếu giữa giữa số cuối kỳ và số đầu năm hoặc giữa các kỳ trên các bảng cân đối để nghiên cứu động thái của các mặt hoạt động tương ứng với các chỉ tiêu đó (đối chiếu ngang) hoặc các bộ phận tổng thể để xem xét cơ cấu phân bố từng quần thể (đối chiếu dọc) Đối chiếu giữa số dự đoán định mức kế hoạch với số thực tế để đánh giá mức độ phấn đấu thực hiện các mục tiêu thể hiện trên chỉ tiêu tương ứng. Đối chiếu trị số của cùng một chỉ tiêu trong cùng một thời kì trên các chứng từ khác nhau chẳng hạn chỉ tiêu lợi nhuận hay lợi nhuận còn lại trên các bảng cân đối, các sổ tổng hợp. Đối chiếu các con số của cùng một chứng từ nhưng được bảo quản và lưu chữ ở các địa điểm khác nhau. Loại đối chiếu này được thể hiện phổ biến trong kiểm toán các khoản tiền thu và bán hàng… Đối chiếu trị số của các chỉ tiêu với trị số của các yếu tố cấu thành chỉ tiêu đó chẳng hạn đối chiếu các yếu tố số lượng đơn giá với số tiền trong các chứng từ gốc; đối chiếu các khoản mục cấu thành các loại tài sản hoặc nguồn vốn trong bảng cân đối kế toán, đối chiếu các khoản chi thu với các loại hoạt động trong bảng lưu chuyển tiền tệ hoặc báo cáo kết quả kinh doanh … Đối chiếu trực tiếp được sử dụng rất rộng dãi tuy nhiên nó chỉ phù hợp trong trường hợp các chỉ tiêu hạch toán theo cùng một chuẩn mực trong cùng khoảng thời gian và điều kiện tương tự nhau. 2.1.3 Đối chiếu logic Đối chiếu logic là việc xem xét mức biến động tương ứng về trị số của các chỉ tiêu có quan hệ kinh tế trực tiếp song có thể có mức biến động khác nhau và có thể theo hướng khác nhau do tính chất của kế toán kép nên mức biến động của tài sản, nguồn vốn phải theo hướng sau: Tài sản tăng, nguồn vốn tăng Tài sản giảm, nguồn vốn giảm - Tài sản tăng, nguồn vốn giảm Nguồn vốn tăng, nguồn vốn giảm Ví dụ: Hàng tồn kho giảm có thể dẫn tới tiền mặt, tiền gửi hoặc các khoản phải thu tăng. Xu hướng biến động giữa hàng tồn kho và các khoản mục liên quan là ngược nhau và mức biến động có thể không đồng nhất trên từng khoảng mục Vốn bằng tiền giảm có thể dẫn tới hàng hoá vật tư tăng hoặc các khoản phải trả giảm…. Cách đối chiếu này được sử dụng rất phổ biến trong việc xem xét khái quát các mối quan hệ kinh tế tài chính thuộc đối tượng kiểm toán trên cơ sở đó định hướng cho việc kiểm toán các đối tượng cụ thể khi phát hiện những mâu thuẫn trong mức và xu hướng biến động của các chỉ tiêu có liên quan. 2.2 Các phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ 2.2.1. Kiểm kê Kiểm kê là phương pháp kiểm tra tại chỗ các loại tài sản. Đây là phương pháp kiểm tra đơn giản, phù hợp với chức năng xác minh của kiểm toán. Do vậy trong nhận thức phải luôn gắn chặt kiểm kê vào quy trình chung của kiểm toán đặc biệt là ngoại kiểm. Trong thực tế, nhiều công ty kiểm toán đựơc mời sau khi đơn vị được kiểm toán đã kiểm kê xong. Trường hợp này rủi ro kiểm toán rất lớn và là một trong những yếu tố tạo ra sự khác biệt về kì vọng giữ kiểm toán viên và những người quan tâm. Tất nhiên chức năng của kiểm toán được thực hiên với nhiều đối tượng khác nhau, trong nhiều khách thể và với những chủ thể khác nhau và ở những thời gian khác nhau. Vì vậy phương pháp kiểm kê cũng đượcthực hiện thích ứng về thời điểm và về loại hình. Trong mọi trường hợp để phát huy tác dụng và nâng cao hiệu quả kinh tế, công tác kiểm kê cần được thực hiện theo quy trình chung từ khâu chuẩn bị đến thực hành và kết thúc kiểm kê. Chuẩn bị kiểm kê phải căn cứ vào mục tiêu quy mô thời hạn kiểm kê để bố trí lực lượng và cơ cấu nhân viên, các thiết bị đo lường phù hợp và chính xác. Đây là yếu tố quyết định chất lượng của cuộc kiểm kê. Thực hành kiểm kê phải theo đúng yêu cầu và ghi chép đầy đủ theo từng mã cân hoặc lô hàng. Phiếu kiểm kê là chứng từ kiểm toán. Kết thúc kiểm kê cần có biên bản trong đó phải nêu rõ chênh lệch, các nguyên nhân và xử lý cụ thể. Biên bản cần phải được đính kèm với phiếu kiểm kê và bảng kê chênh lệch về kết quả kiểm kê. Trên thực tế có một số tài sản mà kiểm toán viên mới gặp lần đầu hoặc loại hàng hoá là rất mới mẻ với những người trong nước lúc đó kiểm kê chỉ có tính chính xác tương đối vì mặt hàng này về ta là mới nhưng nó có thể được sử dụng ở nước ngoài vài chục năm mà vẫn được tính với giá của hàng hoá mới … 2.2.2 Thực nghiệm Thực nghiệm là phương pháp diễn lại hoặc nghiên cưú, phân tích từng yếu tố cấu thành của một tài sản, một quá trình đã có, đã diễn ra và cần xác minh lại. Chẳng hạn cần xác minh lại giá thành sản suất của một loại thành phẩm tồn kho kiểm toán viên có thể tiến hành làm thử một mẻ hàng đó để có kết luận đúng đắn. Phương pháp này thu được bằng chứng có chất lượng cao tuy nhiên chi phí kiểm toán rất lớn lại tốn nhiều thời gian nên nó rất ít khi được sử dụng. 2.2.3 Điều tra Điều tra là phương pháp xác định lại một tài liệu hoặc một thực trạng để đi đến những quyết định hay kết luận kiểm toán. Điều tra được sử dụng rất rộng dãi trong kiểm toán chẳng hạn: - Tìm hiểu khách thể kiểm toán hay làm quen với khách hàng có thể tìm hiểu được trực tiếp hoặc qua các kiểm toán viên đã tiếp nhận hoặc giữ phiếu điều tra … đây là bước điều tra sơ bộ nhằm đưa ra những quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận thư hẹn kiểm toán của khách hàng. - Tiếp cận với các bên có liên quan dò hỏi, phỏng vấn thu lượm và tích luỹ dữ liệu, loại dần và thu gọn đối tượng xác minh cho từng đối tượng kiểm toán. - Chọn mẫu hoặc chọn điển hình cho các đối tượng kiểm toán, xác minh làm rõ các vấn đề kiểm toán. Để đảm bảo hiệu quả kiểm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK1274.doc
Tài liệu liên quan