Đề tài Tìm hiểu về mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát

Mục lục

A. Phần mở đầu . 1

B. Nội dung . 2

I. Cơ sở lý luận về tăng trưởng, lạm phát . 2

1. Tăng trưởng kinh tế . 2

1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế 2

1.2. Vai trò của tăng trưởng kinh tế . 3

1.3. Các chỉ số đánh giá tăng trưởng kinh tế . 5

1.4. Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế 6

2. Lạm phát 8

2.1. Khái niệm lạm phát 8

2.2. Phân loại lạm phát . 8

2.3. Nguyên nhân của lạm phát 10

2.4. Ảnh hưởng của lạm phát 12

3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát . 14

3.1. Tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế 14

3.2. Sự đánh đổi giữa mục tiêu kiềm . 15

3.3. Mối quan hệ phi tuyến tính giữa . 16

II. Tình hình tăng trưởng và lạm phát . 18

1. Tổng quan nền kinh tế Việt Nam thời kì hậu WTO . 18

2. Thực chất của tình hình tăng trưởng ở Việt Nam. 22

3. Tình trạng lạm phát của Việt Nam thời kì hậu WTO 27

4. Lựa chọn ưu tiên giữa mục tiêu tăng . 29

5. Mối quan hệ giữa tăng trường và lạm phát trong nền kinh tế Việt Nam.32

III. Kết luận và kiến nghị . 34

Tài liệu tham khảo. 35

 

 

doc36 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2530 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c khi công nhân, người tiêu dùng và doanh nghiệp dự kiến nó sẽ tiếp diễn. Các kì vọng về lạm phát kích thích công nhân đòi hỏi tăng luơng cao hơn. Các nhà quản lỳ kinh doanh khi dự đoán lạm phát tiếp sẽ đáp ứng yêu cầu của công nhân, bằng cách đẩy việc tăng chi phí người tiêu dung, họ mua vật liệu và thiết bị ngay bây giờ chứ không chờ đến tương lai và trả lãi xuất cao hơn vì họ dự kiến sẽ tăng giá bán hàng hoá của họ. Những người cho vay đòi hỏi lãi xuất cao hơn vì họ dự đoán tiền bị mất giá khi thanh toán khoản cho vay sau khi giá cả đã tăng. Người tiêu dùng mua hàng hóa lâu bền đề phòng với giá tương lai cao hơn. Vì thế, một khi đã xảy ra, lạm phát sẽ tiếp diễn vì mọi người dự đoán nó sẽ tiếp tục. * Lạm phát do chính trị: khi một quốc gia có tình hình chính trị bất ổn, các đảng phái chính trị mâu thuẫn về lợi ích kinh tế. Mỗi đảng phái đều có những biện pháp để tăng cường tiềm lực tài chính của mình, điều này có thể dẫn đến việc làm cho giá cả các mặt hàng tăng lên, thị trường bất ổn và lạm phát sẽ xảy ra. 2.4. Ảnh hưởng của lạm phát - Tác dụng của lạm phát: Lạm phát không phải lúc nào cũng xấu cả. Một số nhà kinh tế lập luận rằng lạm phát có thể thúc đẩy phát triển kinh tế theo những cách sau: * Việc tài trợ lạm phát cho phép chính phủ quản lý phần tiền lớn hơn bằng cách thu hút các nguồn lực từ những lĩnh vực kém ưu tiên. * Chính phủ có thể sử dụng tín dụng dành cho lạm phát để phân phối lại thu nhập, từ người ăn lương để tiết kiệm ít đến nhà tư bản có tỷ lệ hình thành vốn sản xuất cao. * Các nhà kinh doanh thường được lợi từ lạm phát vì giá sản phẩm có xu hướng tăng nhanh hơn giá nguyên liệu đầu vào. * Lạm phát làm giảm lãi xuất thực tế và gánh nặng nợ nần thực tế đối với việc mở rộng kinh doanh. * Áp lực lạm phát đẩy nền kinh tế theo hướng đủ việc làm và sử dụng đầy đủ hơn lao động và các nguồn lực khác. - Tác hại của lạm phát: * Việc phân phối lại của chính phủ từ những người tiêu dùng nhiều đến người tiết kiệm nhiều thông qua tài trợ lạm phát chỉ có thể có hiệu quả trong những giai đoạn đầu của lạm phát. Khi người ta dự đoán lạm phát tiếp diễn, họ tìm cách bảo vệ mình. Đòi hỏi về tiền lương, những điều chỉnh tự động về chi phí sinh hoạt từ đó làm sai lệch việc phân bổ nguồn lực, thường dẫn đến sự thiếu hụt, chợ đen và tham nhũng. * Lạm phát áp đặt một mức thuế lên những người nắm giữ tiền. Chính phủ hay các nhà kinh doanh có lợi nhờ tài trợ lạm phát thu các nguồn lực từ thuế lạm phát. Để phục hồi giá trị thực tế của số tiền của mình, người ta phải tích lũy tiền bằng bổ xung theo tỷ lệ tương đương với lạm phát. Người ta tìm cách tránh thuế bằng cách giữ hàng thay cho tiền. * Lạm phát làm biến dạng hành vi kinh doanh, đặc biệt là hành vi đầu tư khi mà mọi tính toán hợp lý về lợi nhuận bị đổ vỡ. Các chủ doanh nghiệp không đầu tư mạo hiểm vào những ngành cơ sở có thời gian thu hồi vốn dài mà thường đầu tư vào tài sản mang lại lãi vốn nhằm chống lại lạm phát. Các nhà kinh doanh theo tiêu phí nhiều nỗ lực vào việc dự báo và đầu cơ theo tỷ lệ lạm phát hay ngăn ngừa những sự bất ổn kèm theo. * Lạm phát, đặc biệt khi nó không liên tục và không đều, làm suy yếu việc hình thành thị trường vốn và tín dụng. Sự không chắc chắn về tăng giá trong tương lai có thể ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của các ngân hàng tiết kiệm, cộng đồng những người để dành, thị trường trái phiếu, các quỹ an sinh xã hội, hưu trí, bảo hiểm và các công cụ nợ của chính phủ. * Các công cụ tiền tệ và tài chính ở các nước kém phát triển thường quá yếu nên khó có thể làm giảm lạm phát mà không thiệt hại về thu nhập thực tế, việc làm và các trương trình phúc lợi xã hội. * Việc phân phối thu nhập thường kém đồng đều trong các thời kì lạm phát. Lạm phát phân phối lại thu nhập, ít nhất trong những thời kì đầu, từ những công nhân có thu nhập thấp và những người có nguồn thu nhập cố định tới các tầng lớp thu nhập cao. Việc phân phối lại này có thể không tăng tiết kiệm, vì người giàu có thể mua hàng xa xỉ bằng phần thu nhập tăng của họ. * Lạm phát làm tăng gia hàng trong nước tương ứng với hàng nước ngoài, làm giảm khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng trong nước và làm giảm xút cán cân ngoại thương. Lạm phát khuyến khích nhận các dòng vốn nước ngoài vào vì giá trị thực tế của vốn đầu tư và thu nhập chuyển về nước trong tương lai bị xói mòn. Sự thâm hụt quốc tế lớn, thường do lạm phát nhanh gây ra, có thể làm tăng gánh nặng nợ nần và hạn chế nhập khẩu những mặt hàng cần thiết. 3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát 3.1. Tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế Trong quan niệm của nhiều người, lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế vì làm giảm năng suất lao động. Lạm phát bóp méo mức độ khan hiếm tương đối (phản ánh qua giá cả) của các nguồn lực sản xuất và do đó bóp méo các quyết định đầu tư và sự phân bổ các nguồn lực khan hiếm này. Lạm phát còn làm giảm mức khấu trừ thực tế cho phép trong thuế doanh nghiệp đối với khấu hao tài sản cố định và làm tăng giá thuê tư bản, do đó làm giảm tích lũy vốn, dẫn đến giảm năng suất. Hàm lượng thông tin liên quan đến biến động giá cả giảm đi kể cả trong thời kỳ lạm phát ổn định. Như vậy, các nhà đầu tư thường có xu hướng mắc lỗi trong quyết định của mình và chọn những “gói” yếu tố sản xuất không phải là tối ưu, làm giảm hiệu quả kinh tế và, do đó, giảm năng suất. Tuy nhiên, không ít người lại lập luận rằng lạm phát ở một mức nhẹ lại có tác dụng tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, nhà kinh tế học nổi tiếng Tobin cho rằng lạm phát làm cho nhà đầu tư tái phân bổ danh mục đầu tư của mình từ tiền sang chứng khoán, làm giảm lãi suất thực tế và do đó làm tăng đầu tư và nâng cao năng suất lao động. Ông lập luận thêm rằng “một chút lạm phát giúp bôi trơn nền kinh tế” vì nó giúp thị trường lao động điều chỉnh cho phù hợp. Một số khác cũng chỉ ra rằng nhu cầu tăng lên ổn định sẽ gây ra lạm phát ở mức nhẹ, là cái mà thực ra lại làm tăng, chứ không phải giảm, năng suất lao động và, do đó, tăng tốc độ tăng trưởng. Vì thế, động thái nhằm đạt mức lạm phát bằng 0 chẳng qua là chính sách trả trước ngay bây giờ cho nhiều thiệt hại hơn sau này. Từ một khía cạnh khác, một số người cho rằng lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế nếu xét đến mối quan hệ giữa tính bất trắc của lạm phát trong tương lai với tăng trưởng sản lượng. Họ cho rằng tính bất trắc của lạm phát càng cao thì tăng trưởng sản lượng càng thấp. Sở dĩ có điều này bởi vì nhà sản xuất khai thác triệt để tính bất đối xứng về thông tin trên thị trường – thông tin có được của người tiêu dùng bị hạn chế so với nhà sản xuất – để tăng biên độ lợi nhuận, do đó làm tăng doanh thu kể cả cho những nhà sản xuất không thật sự hiệu quả. Việc phân bổ các nguồn lực sản xuất tới những nhà sản xuất không hiệu quả như vậy sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng. Nhưng ngược lại với dòng lập luận này, một số nhà kinh tế chỉ ra rằng tính bất trắc của lạm phát lại có tác động tích cực đến tăng trưởng, nhờ vào động thái tăng tiết kiệm để phòng ngừa lạm phát. Họ cũng chỉ ra thêm rằng trên thực tế, quan hệ nhân quả giữa hai biến số này là không nhất quán ở từng trường hợp nghiên cứu quốc gia. 3.2. Sự đánh đổi giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng và lạm phát là hai đỉnh có tầm quan trọng hàng đầu của tứ giác mục tiêu thuộc mọi quốc gia (tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư). Nhưng đó là mục tiêu lý tưởng, rất khó có nước nào đạt được cùng một lúc, nên cần có sự lựa chọn ưu tiên, tuỳ hoàn cảnh của từng nước, trong từng giai đoạn, thậm chí trong từng thời gian ngắn. Để có thể hạn chế tới mức thấp nhất những tác hại của lạm phát thì ta phải chấp nhận đánh đổi. Trong những lĩnh vực phải chịu sự trả giá và đánh đổi, thì trước hết và quan trọng nhất là phải chấp nhận tăng trưởng kinh tế bị chậm lại so với mục tiêu đã đề ra. Tăng trưởng kinh tế chậm lại để tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát. Một mặt, mục tiêu tăng trưởng kinh tế là vì con người, mà con người lại vừa là mục tiêu vừa là động lực của tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, kiềm chế lạm phát là để ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường sản suất kinh doanh tốt hơn, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế trung và dài hạn. Kiềm chế lạm phát thì phải thắt chặt tiền tệ. Nhưng đối với những lĩnh vực sản xuất hàng hoá cho thị trường trong nước để tăng cung hàng hoá cũng như sản xuất hàng xuất khẩu thì không những không được thắt chặt, mà còn phải được bảo đảm đủ vốn, thậm chí còn được ưu tiên, vừa để bảo đảm cho sự bền vững của tín dụng, vừa duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Khi kiềm chế lạm phát được ưu tiên thì phải cắt giảm đầu tư công (từ ngân sách nhà nước), kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước. Muốn vậy, một mặt cần chuyển dịch cơ cấu đầu tư, mặt khác cần nâng cao hiệu quả đầu tư. Chuyển dịch cơ cấu đầu tư trong điều kiện hiện nay là chuyển dịch trên các mặt: tăng nguồn vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước, nguồn vốn đầu tư nước ngoài để bù cho phần cắt giảm nguồn vốn đầu tư của khu vực nhà nước; tập trung đầu tư cho những ngành, lĩnh vực tạo ra sản phẩm đang có giá nóng hoặc trong nước có lợi thế sản xuất, nhưng đã phải nhập khẩu; đầu tư cho thiết bị kỹ thuật công nghệ tiêu hao ít nguyên nhiên vật liệu. Nâng cao hiệu quả đầu tư bằng việc tập trung cho những công trình hoàn thành sớm đưa vào hoạt động, giảm thiểu chi phí và thời gian giải phóng mặt bằng, giảm thiểu lãng phí, thất thoát... 3.3. Mối quan hệ phi tuyến tính giữa tăng trưởng và lạm phát Tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư là một tứ giác đẹp, tứ giác lý tưởng của mọi quốc gia. Giữa các "đỉnh" của tứ giác này có mối quan hệ khá chặt chẽ, đặc biệt là giữa tăng trưởng và lạm phát. Tăng trưởng kinh tế cao thì lạm phát thấp; khi thiểu phát hoặc lạm phát cao quá lại làm cho kinh tế tăng trưởng thấp. Giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát thường có mối quan hệ nhất định. Tuy nhiên mức độ gắn kết như thế nào vẫn là vấn đề tranh cãi. Một số nghiên cứu theo lối kinh nghiệm cho thấy, lạm phát có thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế khi nó vượt qua một ngưỡng nhất định. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát là phi tuyến tính. Fischer (1993) là người đầu tiên nhiên cứu vấn đề này với kết luận, khi lạm phát tăng ở mức độ thấp mối quan hệ này có thể không tồn tại , hoặc thậm trí mang tính đồng biến, và lạm phát ở mức cao mối quan hệ này là nghịch biến. Một số các nhà Nhiên cứu sau này như Sarel (1996), Gosh và philíp(1998), Shan và Senhadji(2001), và một số các nhà nghiên cứu khác đã cố gằng tìm ra đặc điểm đặc biệt về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Bằng các nghiên cứu khác nhau họ đã tìm ra một ngưỡng lạm phát, mà tại ngưỡng đó nếu lạm phát vượt ngưỡng sẽ có tắc động tiêu cực (tác động ngược chiều) đến tăng trưởng. Sarel ngưỡng lạm phát là 8%,Shan và Senhadji ngưỡng lạm phát cho các nước đang phát triển là 11-12%, các nước công nghiệp khoảng 1-3%. Gân đây nhất là nghiên cứu của tác giả Khan(2005) đã tập trung nghiên cứu xác định mức lạm phát tối ưu . Kết quả Khan đã tìm ra mức lạm phát tối ưu đối với các nước vùng trung đông và trung á là khoảng 3.2%. Học thuyết kinh tế vĩ mô đã khẳng định, nếu sản lượng thực tế vượt sản lượng tiềm năng sẽ làm lạm phát gia tăng. Thực tế 2005-2006 lạm phát thế giới gia tăng, ngoài nguyên nhân giá dầu còn do nền kinh tế nhiều nước phát triển quá nóng. Sử dụng mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, một số nước đã sử dụng lạm phát cao để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng, đây là giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng kém bền vững. Hay còn nói đó là giải pháp tăng trưởng “ bong bóng”. Xu hướng các nước phát triển chọn giải pháp tăng trưởng kinh tế thực chất, đó là dựa trên cơ sở giá cả ổn định ở mức thấp. Căn cứ biện luận cho giải pháp này là: Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát ổn định thì tình dự báo được nâng cao. Điều đó giúp các nhà đầu tư có thể xây dựng được các phương án đầu tư hiệu quả. Đối với người tiêu dùng thì chi tiêu yên tâm, họ không phải lo cân nhắc các mặt hàng khác để thay thế do giá tăng. Tất cả điều đó đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thưc chất. Hiện nay các nước phát triển chọn mức lạm phát gần 2% là mức tối ưu cho tăng trưởng. Tuy nhiên cũng phải hiểu rằng, lạm phát ổn định chỉ là điều kiện đủ cho tăng trưởng kinh tế, còn điều kiện cần cho tăng trưởng phải là vấn đề của Chính phủ trong việc phát triển nguồn lực, vốn và công nghệ kỹ thuật..... II. Tình hình tăng trưởng và lạm phát của Việt Nam thời kì hậu WTO 1. Tổng quan nền kinh tế Việt Nam thời kì hậu WTO Sau gần hai năm gia nhập, WTO đã thực sự đưa nước ta bước vào một kỉ nguyên của những cơ hội và rủi ro đồng thời tạo động lực cho Việt Nam đẩy nhanh quá trình cải cách thể chế theo hướng minh bạch, phù hợp với các quy tắc kinh tế thị trường, tạo môi trường kinh doanh hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài, nâng cao được năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế và doanh nghiệp trong nước. Vậy sau hai năm gia nhập chúng ta đã đạt được những thành tựu gì? Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO và thực hiện cam kết PNTR (Thương mại bình thường vĩnh viễn) với Hoa Kỳ, do đó thị trường xuất khẩu mở rộng, các rào cản thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn chế. Nhờ đó kinh tế cả nước trong năm 2007 tiếp tục phát triển toàn diện và hầu hết các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ là thành tựu nổi bật nhất, cơ bản nhất của nền kinh tế Việt Nam năm 2007. Tổng sản phẩm trong nước ước tăng 8,44%, đạt kế hoạch đề ra (8,0 - 8,5%), cao hơn năm 2006 (8,17%) và là mức cao nhất trong vòng 11 năm gần đây. Với tốc độ này, Việt Nam đứng vị trí thứ 3 về tốc độ tăng GDP năm 2007 của các nước châu Á sau Trung Quốc (11,3%) và Ấn Độ (khoảng 9%) và cao nhất trong các nước ASEAN (6,1%). Tốc độ tăng trưởng GDP cả 3 khu vực kinh tế chủ yếu đều đạt mức khá: Khu vực nông - lâm nghiệp và thủy sản ước tăng 3,0%/ so với mức 3,32% cùng kỳ 2006, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,33% (riêng công nghiệp tăng 10,32%)/ so với mức 10,4% và 10,32% cùng kỳ và khu vực dịch vụ tăng 8,5%/ so với mức 8,29% của năm 2006. (tính theo giá so sánh năm 1994). Cơ cấu kinh tế theo giá thực tế chuyển dich theo hướng tích cực. Tỷ trọng GDP khu vực nông - lâm nghiệp - thủy sản giảm còn dưới 20,0% so với 20,81% năm 2006, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng dần và chiếm trên 41,7% so với 41.56% và khu vực dịch vụ tăng nhẹ, chiếm 38,3% so với 38,08% trong 2 năm tương ứng. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt mức kỷ lục: Ước tính vốn đăng ký mới và vốn tăng thêm của các dự án cũ bổ sung cả năm 2007 đạt trên 20,3 tỉ USD, tăng 8,3 tỉ USD, so năm 2006 (12 tỉ USD), vượt kế hoạch 7 tỉ USD và là mức cao nhất từ trước đến nay. Tổng số vốn FDI năm 2007 đạt mức gần bằng vốn đầu tư của 5 năm 1991 - 1995 là 17 tỉ USD và vượt qua năm cao nhất 1996 là 10,1 tỉ USD. Thu nhập bình quân đầu người năm 2007 đạt 835 USD, tăng 15 USD so kế hoạch. Dự trữ ngoại tệ đạt 20 tỉ USD, cao so với các năm trước. Chi trả nợ nước ngoài đạt kế hoạch. Nợ công và nợ nước ngoài vẫn ở mức kiểm soát được. Thị trường chứng khoán đi vào ổn định khi các nhà đầu tư bắt đầu thận trọng hơn. Tuy nhiên thị trường thế giới biến động lớn, phức tạp đã gây nhiều yếu tố bất lợi cho nền kinh tế Việt Nam. Giá cả nhiên liệu, vật tư, nhất là xăng dầu, phôi thép, thép, nguyên liệu sợi, vải, vật liệu phục vụ công nghiệp dệt may, da giày, hóa chất, phân bón, thức ăn chăn nuôi tăng cao. Thị trường xuất khẩu một số mặt hàng biến động phức tạp như dệt may, da giày, thủy sản, thủ công mỹ nghệ, xe đạp và phụ tùng, động cơ điện... Điều đó đã làm cho giá cả tiêu dùng trong nước tăng cao liên tục chưa có điểm dừng. Chỉ số giá tiêu dùng ước tăng 12,4% so với tháng 12-2006. Đây là tốc độ tăng giá cao nhất trong những năm gần đây, vượt qua tốc độ tăng GDP và không đạt mục tiêu đề ra. Đầu tư xây dựng cơ bản không đạt kế hoạch giải ngân vốn ngân sách nhà nước. Chung cả năm, ước tính không đạt kế hoạch đề ra về nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn ngân sách nhà nước thông qua các chương trình, dự án quốc gia. Tiến độ giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản cả năm rất chậm. Đến cuối năm 2007, cả nước mới thực hiện 84,1 nghìn tỉ đồng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đạt 84,6% kế hoạch năm, lý do là công tác quy hoạch, giải phóng mặt bằng, thủ tục hành chính và nhất là giá cả vật tư như tăng cao khiến nhiều nhà thầu phải ngưng thực hiện dự án hoặc tiến độ giải ngân chậm. Tốc độ giải ngân vốn ODA tuy có nhanh hơn, nhưng vẫn chậm so với yêu cầu. Trong 2 năm 2006 - 2007 cả nước mới giải ngân đươc 3,9 tỉ USD, tương đương 32% tổng vốn ODA dự kiến giải ngân thời kỳ 2006 - 2010. Bước vào năm 2008 Việt Nam chịu tác động mạnh mẽ hơn từ những bất ổn của kinh tế thế giới, đặc biệt khủng hoảng tài chính kéo theo sự suy giảm của nhiều nền kinh tế. Thiên tai, dịch bệnh trong nước liên tiếp xảy ra gây thiệt hại nhiều cho sản xuất và đời sống dân cư. Tuy nhiên, Chính phủ đã tiếp tục chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành thực hiện 8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội nên kinh tế-xã hội nước ta 10 tháng năm 2008 vẫn phát triển ổn định, kết quả hoạt động sản xuất cụ thể của từng ngành và lĩnh vực như sau: Giá trị sản xuất công nghiệp 10 tháng đầu năm 2008 ước tính tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế Nhà nước tăng 5,5% (Trung ương quản lý tăng 7,7%; địa phương quản lý giảm 1,7%); khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 21,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,8% (dầu mỏ và khí đốt giảm 8,2%; các ngành khác tăng 20,6%). Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến ngày 15/10/2008 ước tính đạt 102,2% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 96,5%; thu từ dầu thô đạt 98,9%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 121,7%. Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/10/2008 ước tính đạt 87,8% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 75,7% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 71,9%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể (gồm cả chi cải cách tiền lương) đạt 87,5%; chi trả nợ và viện trợ đạt 86,6%. Lạm phát đã bắt đầu tăng chậm lại. Những nỗ lực kềm chế lạm phát của chính phủ đã bắt đầu có kết quả, với lạm phát tính theo CPI trong tháng 4 được giữ ở mức 2.2% so với tháng trước. Tuy nhiên, so với cùng kỳ năm trước, lạm phát tháng 4 là 21%, cao nhất trong vòng các năm gần đây. Giá tiêu dùng tháng 10/2008 giảm 0,19% so với tháng trước, là lần giảm đầu tiên kể từ đầu năm trở lại đây. Mười tháng đầu năm 2008, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 53,8 tỷ USD, tăng 36,7% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 24,1 tỷ USD, tăng 41,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt 20,2 tỷ USD, tăng 28,6%; dầu thô đạt 9,5 tỷ USD, tăng 43,2%. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 10 tháng ước tính đạt 70,1 tỷ USD, tăng 42,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt trên 45,8 tỷ USD, tăng 44,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 24,2 tỷ USD, tăng 39%. Như vậy qua hai năm là thành viên của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới ta có thể thấy rằng WTO không phải là một bài thuốc thần kì cho sự phát triển của Việt Nam. Chúng ta có những cơ hội lớn nhưng bên cạnh đó cũng là những thách thức không nhỏ. Nền kinh tế đã duy trì được một tốc độ tăng trưởng cao, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng, các thể chế, chính sách đã được minh bạch hóa để phù hợp với các điều luật quốc tế nhưng bên cạnh đó lại nổi lên hai vấn đề lớn là tình trạng nhập siêu và lạm phát ngày càng gia tăng. Đề có thể tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng cao, kìm chế lạm phát, đưa đất nước thoát khỏi ảnh hưởng của cơn suy thoái tài chính đang ngày càng lan rộng trên thế giới đòi hỏi nhà nước phải tiếp tục có những biện pháp điều tiết mạnh mẽ hơn, chủ động hơn, hợp lý hơn thì mới có thể bắt kịp nhịp độ phát triển cũng như tính biến động vô cùng phức tạp của nền kinh tế hiện đại ngày nay. 2. Thực chất của tình hình tăng trưởng ở Việt Nam Mức độ tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào các yếu tố đầu vào và đầu ra. Nghiên cứu về sự đóng góp của các yếu tố đối với tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa về nhiều mặt, không những xác định vị trí của từng yếu tố để có kế hoạch khai thác, mà còn có ý nghĩa xác định được yếu tố tiềm ẩn gia tăng lạm phát. * Tăng trưởng do các yếu tố đầu vào: Tăng trưởng kinh tế xét ở đầu vào, có ba yếu tố đóng góp. Đó là sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư, đóng góp của số lượng lao động và đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Theo tính toán ban đầu, yếu tố số lượng vốn đầu tư đã đóng góp khoảng 57%, yếu tố số lượng lao động đóng góp khoảng 20%, yếu tố TFP đóng góp 23%. Từ sự đóng góp như trên, có thể rút ra một số nhận xét đáng lưu ý. Một là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều đã vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006 đạt 41%, ước năm 2007 đạt 40,4%), kế hoạch năm 2008 còn cao hơn, lên đến 42%. Đây là tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau tỷ lệ trên dưới 44% của Trung Quốc - một tỷ lệ làm cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt cao nhất thế giới, đã nhiều năm liền tăng hai chữ số, hiện đang giữ kỷ lục thế giới về số năm tăng trưởng liên tục (28 năm), nhưng Trung Quốc đưa ra mục tiêu giảm độ nóng của tăng trưởng và đẩy mạnh chống lạm phát do tốc độ tăng giá tính theo năm của tháng 2/2008 đã lên đến 8,3%, cao nhất trong 12 năm qua. Hai là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan trọng vào yếu tố số lượng lao động, sự quan trọng này được xét trên hai mặt. Một mặt, do nguồn lao động hàng năm vẫn còn tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu người mỗi năm. Mặt khác, do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao. Ba là, nếu tính cả sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và sự đóng góp của yếu tố số lượng lao động, thì hai yếu tố này đã đóng góp trên ba phần tư tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Điều đó chứng tỏ, sự đóng góp của yếu tố TFP đối với tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế còn nhỏ, chưa được một phần tư, thấp chỉ bằng hai phần ba tỷ trọng đóng góp của yếu tố này của các nước trong khu vực hiện nay. Điều đó cũng chứng tỏ, nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn đi theo hướng tăng trưởng về số lượng, chưa chuyển sang tăng trưởng về chất lượng, vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chưa chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu. Hiệu quả sử dụng vốn chưa cao: TFP là tổng hợp của các nhân tố hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và năng suất lao động. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được thể hiện ở nhiều chỉ tiêu. Gần đây, trên các diễn đàn hội thảo và trên một số phương tiện thông tin đại chúng, khi đề cập đến hiệu quả đầu tư các chuyên gia thường dùng hệ số ICOR. Chỉ tiêu này được tính bằng nhiều cách, song theo cách tính đơn giản mà các chuyên gia đề cập là lấy tỷ lệ vốn đầu tư/GDP chia cho tốc độ tăng trưởng GDP. Hệ số ICOR càng lớn thì hiệu quả đầu tư càng thấp và ngược lại. Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP và tốc độ tăng GDP thì ICOR qua các thời kỳ như sau: Tính chung ICOR của Việt Nam trong thời kỳ 1991-2007 là 4,86 lần, cao hơn nhiều so với 2,7 lần của Đài Loan (trong thời kỳ 1961-1980), 3 lần của Hàn Quốc (trong thời kỳ 1961- 1980), 3,7 lần của Indonesia (trong thời kỳ 1981-1995), 4 lần của Trung Quốc (trong thời kỳ 2001-2006), 4,1 lần của Thái Lan (trong thời kỳ 1981-1995); cũng cao hơn so với 4,6 lần của Malaysia (trong thời kỳ 1981-1995). Điều đó chứng tỏ, hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn thấp Hiệu quả đầu tư còn được tính theo cách lấy GDP chia cho vốn đầu tư hàng năm (đều tính theo giá thực tế). Theo cách này, thì GDP/vốn đầu tư (có nghĩa là 1 đồng vốn đầu tư tạo ra được bao nhiêu đồng GDP) của Việt Nam đã bị sút giảm qua các thời kỳ: nếu thời kỳ 1991-1995 đạt 3,55 đồng/đồng, thì năm 1996-2000 còn 3,0 đồng/đồng, 2001-2005 còn 2,56 đồng/đồng, 2006-2007 còn 2,46 đồng/đồng. Năng suất lao động của toàn nền kinh tế thấp (năm 2007) mới đạt 25.886.000 đồng/người, của nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản còn đạt thấp hơn chỉ có 9.607.000 đồng/người, ngay cả nhóm ngành công nghiệp-xây dựng cao nhất cũng mới đạt 55.072.000 đồng/người và của nhóm ngành dịch vụ cũng chỉ đạt 38.159.000 đồng/người. (quy ra USD các số liệu tương ứng: khoảng 1.600 USD, 600 USD, 3.438 USD, và 2.385 USD). Các con số trên còn thấp xa so với năng suất lao động chung của thế giới (trên 14.600 USD), còn thấp hơn cả mức bình quân đầu người của thế giới (khoảng 6.500 USD/người). Với năng suất thấp như trên thì giá trị thặng dư còn đang rất nhỏ nhoi. Một nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn, mà hiệu quả đầu tư thấp, nhất là hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước còn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24993.doc
Tài liệu liên quan