Đề tài Tín dụng ngân hàng và vai trò của nó đối với việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ

LỜI MỞ ĐẦU 1

Chương I 3

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 3

1.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường. 3

1.1.1 Những ý kiến khác nhau về định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ. 3

1.1.2. Những đặc điểm chủ yếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 4

1.1.3. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường. 7

1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ cao về doanh nghiệp, về thu hút lao động và đóng góp thu nhập quốc dân cho đất nước. 7

2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ đáp ứng tích cực nhu cầu tiêu dùng xã hội ngày càng phong phú, đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được. 8

3. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong lĩnh vực phân phối lưu thông và trong sản xuất, chế biến hàng hoá xuất khẩu. 8

4. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng. 10

1.1.4. Một số khó khăn và hạn chế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 12

1. Khó khăn về vốn. 12

2. Khó khăn trong việc ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới. 13

3. Khó khăn trong việc thâm nhập vào thị trường thế giới. 14

4. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mức độ rủi ro cao hơn so với các doanh nghiệp lớn. 15

1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. 16

1.2.1. Tín dụng ngân hàng hoạt động đan xen đối với các loại hình tín dụng khác. 17

1.2.2 Tính chất đa dạng hoá các hoạt động tín dụng ngân hàng. 18

1.3. Vai trò của tín dung ngân hàng đối với sự hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. 20

1.3.1. Tín dụng ngân hàng là một công cụ tích tụ và tập trung vốn để hỗ trợ cho các doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và theo chiều sâu. 20

1.3.2. Tín dụng ngân hàng là một công cụ để Nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô, góp phần chống lạm phát, ổn định tiền tệ và giá cả, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp. 22

1.3.3. Tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc tự do di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khác. 24

1.3.4. Lãi suất tín dụng ngân hàng là đòn bẩy mạnh mẽ đối với việc huy động vốn và cho vay vốn của ngân hàng. 25

1. Mức lãi suất nhận gửi của tín dụng ngân hàng phải đủ bảo tồn vốn và có lãi cho người gửi. Hay nói cách khác lãi suất nhận gửi của tín dụng ngân hàng phải bằng chỉ số trượt giá cộng với lãi suất cơ bản. Nguyên tắc này nhằm khuyến khích những người có tiền chưa dùng đến đem gửi vào ngân hàng. Vì đây là việc làm “vừa ích nước vừa lợi nhà”. 26

0 < z 28

Chương 2: 30

THực trạng tín dụng tại ngân hàng công thương Ba Đình trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta 30

2.1.Thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ 30

2.1.1. Sự hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ - thành tựu và hạn chế. 30

1. Những thành tựu đạt được của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 30

2. Những hạn chế và yếu kém của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 34

2.2. Sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 38

2.2.1. Những thành tựu đạt được của tín dụng ngân hàng trong việc hỗ tr

doc82 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1043 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tín dụng ngân hàng và vai trò của nó đối với việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta trong bối cảnh cơ chế thị trường mới hình thành đang ở giai đoạn sơ khai mang nhiều yếu tố tự phát, cơ chế chính sách, luật pháp mới được tạo lập chưa đầy đủ và đồng bộ; quan niệm về phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và mô hình kinh tế về doanh nghiệp vừa và nhỏ còn nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên phải nói rằng bên cạnh những thành tựu to lớn, những mặt được rất cơ bản đã được phân tích đánh giá ở trên, cũng cần khẳng định rằng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta trong thời gian qua chưa phát triển đúng với khả năng của nó, trong hoạt động còn nhiều khó khăn, hạn chế. Một là: Nhìn chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta còn nhỏ bé, cơ cấu ngành nghề sản xuất kinh doanh chưa hợp lý. Tại Hà Nội, trong số 1.333 doanh nghiệp thành lập theo Luật Công ty chỉ có 8 - 10% số công ty có số vốn trên 1 tỷ, 10% có doanh thu trên 5 tỷ/năm, còn lại chủ yếu dưới 1 tỷ. Sở dĩ quy mô các doanh nghiệp nhỏ bé là do các công ty thành lập theo Luật Công ty chỉ cần hai thành viên sáng lập, và tuỳ theo ngành nghề sản xuất kinh doanh, mức vốn tối thiểu là 50 triệu đồng. Phần lớn các công ty được thành lập mang tính chất gia đình, vốn tự có rất ít. Một số công ty khi thành lập chưa có vốn phải vay vốn của người khác gửi vào ngân hàng để xin xác nhận, sau khi được thành lập lại rút vốn ra trả nợ. Trong cơ cấu ngành nghề có đến 70% số doanh nghiệp kinh doanh thương mại và dịch vụ, số doanh nghiệp còn lại đầu tư vào sản xuất kinh doanh các ngành nghề. Nhưng do thiếu vốn, chưa tìm được phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, chưa có thị trường tiêu thụ sản phẩm một cách ổn định, lại bị cạnh tranh gay gắt với hàng nước ngoài,... nên có tới 1/3 số doanh nghiệp lập ra chưa hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng, thua lỗ. Hai là: Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thấp, thị trường cũ bị hạn hẹp, còn thị trường mới chưa tạo được thế đứng ổn định, vì chất lượng hàng hoá chưa cao, mẫu mã, hình thức, chủng loại sản phẩm kém trong khi đó lại bị hàng nhập khẩu, hàng tiểu ngạch lậu thuế cạnh tranh. Một nguyên nhân nữa của tình trạng trên là do kỹ thuật và công nghệ trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn lạc hậu chưa có vốn để đổi mới, nên năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao, chất lượng sản phẩm kém. Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng: ở Hà Nội, chỉ có 10 - 13% doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh nhập được dây chuyền sản xuất, thiết bị mới từ nước ngoài, số còn lại là thiết bị cũ, tự trang tự chế. Nhìn chung trình độ máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta so với các nước trong khu vực lạc hậu 2-4 thế hệ, có nhiều xí nghiệp công nghiệp địa phương còn sử dụng các thiết bị chế tạo từ năm 1939 - 1945. Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới thành lập trong những năm gần đây chủ yếu mua lại các thiết bị thanh lý của các doanh nghiệp Nhà nước đã khấu hao. Việc đa dạng hoá sản phẩm, thiết kế và sáng tạo ra những mấu hàng mới đang còn rất kém. Khoảng 50% doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ sản xuất một loại sản phẩm, 25% sản xuất hai loại sản phẩm và 25% sản xuất từ ba loại sản phẩm trở lên; Còn các hộ gia đình thì có đến 61% số hộ sản xuất một loại sản phẩm. Trong những năm qua, chúng ta chưa có chính sách thoả đáng để tạo nguồn vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới thiết bị, công nghệ; còn chính sách thuế thì có một số điểm chưa hợp lý, chẳng hạn như đối với các loại máy móc thiết bị phụ tùng và nguyên vật liệu nhập từ nước ngoài thì phải nộp thuế đầy đủ, trong khi đó hàng hoá tiêu dung do chính chúng ta sản xuất được những vẫn cho nhập bằng nhiều thủ đoạn trốn lậu thuế. Như vậy là chúng ta đã tạo ra môi trường cạnh tranh không bình đẳng giữa hàng hoá được sản xuất trong nước với hàng hoá nước ngoài mà người bại trận là các doanh nghiệp vừa và nhỏ của chúng ta. Ba là: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ít được thông tin về thị trường nhất là thị trường nước ngoài, họ chưa có điều kiện nắm bắt kịp thời các yêu cầu về kỹ thuật, công nghệ, tiêu chuẩn và chất lượng ở các nước nên hàng hoá của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó khăn trong việc thâm nhập thị trường thế giới; cũng như việc tìm đối tác đầu tư, tìm thị trường xuất khẩu và chuyển giao công nghệ mới, hiện đại. Trong những năm qua đã có ba tổ chức hỗ trợ phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam được hình thành như: Trung tâm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trực thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường, Hội đồng liên minh các hợp tác xã Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Ba trung tâm này trong thời gian qua đã làm được một số việc như tổ chức một số khoá đào tạo chủ doanh nghiệp, ra các ấn phẩm phổ biến kinh nghiệm và giải đáp chính sách, nghiên cứu tiêu chuẩn phân loại doanh nghiệp, tiến hành xây dựng các cơ sở dữ liệu, thông tin chuyên đề phục vụ doanh nghiệp vừa và nhỏ, thông tin về công nghệ và đổi mới kỹ thuật v.v.... Song chưa có các tổ chức tư vấn để giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ về các mặt như: - Giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ xây dựng các dự án có tính khả thi, có khả năng đem lại hiệu quả cao, để các tổ chức tín dụng có thể xem xét đầu tư vốn, và trên cơ sở các dự án có tổ chức tư vấn giúp các doanh nghiệp tìm đối tác đầu tư. Giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ giới thiệu sản phẩm ra nước ngoài, hoàn thiện công nghệ, thiết bị, máy móc mới v.v.... Bốn là: Trình độ đội ngũ giám đốc, chủ doanh nghiệp và các cán bộ quản lý phần lớn còn thấp, trình độ chuyên môn chưa qua các lớp bồi dưỡng về quản trị kinh doanh, nghiệp vụ quản lý. Tay nghề của số đông công nhân trong các doanh nghiệp còn thấp kém. Thợ lành nghề chỉ chiếm 10%, chủ yếu là những người công nhân trong các doanh nghiệp Nhà nước đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức. Năm là: Khó khăn nổi bật nhất trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ là thiếu vốn để đầu tư mở rộng, đổi mới thiết bị công nghệ. Qua nghiên cứu và trực tiếp điều hành ở một chi nhánh ngân hàng cơ sở, chúng tôi nhận thấy vốn tự có của các doanh nghiệp rất thấp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ địa phương quản lý và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Vốn tự có so với toàn bộ vốn hoạt động chỉ chiếm từ 10 - 15%. Trong khi đó Luật Doanh nghiệp quy định một doanh nghiệp thành lập ít nhất phải có 30% Vốn lưu động tự có . Nhiều doanh nghiệp được thành lập theo Nghị định 388/HĐBT, Nhà nước ghi vốn pháp định nhưng thực tế không được cấp đầy đủ. Cơ chế chính sách tạo cho các doanh nghiệp tự huy động vốn hiện nay chưa được xác lập; Còn vốn vay của các ngân hàng thương mại thì không được nhiều, vì bị giới hạn bởi mức vốn tự có của các doanh nghiệp thấp; Tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng thì nhiều doanh nghiệp chưa có hoặc chưa bảo đảm tính pháp lý v.v.... Sáu là: Vấn đề cuối cùng là cơ chế chính sách và luật pháp của Nhà nước để hỗ trợ cho các doanh nghiệp tuy đã có nhưng chưa đầy đủ, đồng bộ, chưa phù hợp. Việc giúp đỡ hỗ trợ của Chính phủ, của các ngành còn hạn chế. Theo chúng tôi, chính sách cơ bản để hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là: - Chính sách hỗ trợ vốn đầu tư chiều sâu và vốn kinh doanh với lãi suất ổn định thời gian dài. - Chính sách miễn giảm thuế theo quy định. - Chính sách ưu đãi về quyền sử dụng đất đai. - Chính sách đào tạo chủ doanh nghiệp, công nhân kỹ thuật v.v.... Và một số luật pháp nhằm bảo vệ và hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có như: - Luật cấm độc quyền, hạn chế sự bành trướng của các doanh nghiệp quá lớn. - Luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ để bảo vệ và hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cuối cùng là việc phải có một tổ chức bộ máy để lãnh đạo, chỉ đạo các doanh nghiệp vừa và nhỏ như hiệp hội, uỷ ban v.v.... 2.2. Sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cơ chế kế hoạch hoá tạp trung đã phát huy hiệu quả cao trong công cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc, trong hành gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế và đời sống. Song việc duy trì quá lâu cơ chế quản lý đó nên không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế quốc doanh, hạn chế việc khai thác tiềm năng và sáng tạo của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, kìm hãm sản xuất, gây nhiều rối loạn trong sản xuất và lưu thông, phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Trước tình hình nói trên, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã kêu gọi toàn Đảng, toàn dân phải thực hiện công cuộc đổi mới một cách toàn diện. Thực hiện đổi mới kinh tế ở nước ta thực chất là vận dụng chính sách kinh tế mới của Lênin, tiến hành điều chỉnh lớn về quan hệ sản xuất nhằm phát triển tốt lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Nội dung chủ yếu của việc đổi mới kinh tế ở nước ta là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định xã hội chủ nghĩa và thực hiện chiến lược kinh tế mở hội nhập với nền kinh tế thế giới. Sau Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng và Nhà nước đã lần lượt ban hành hàng loạt chính sách và biện pháp nhằm đổi mới cơ bản cơ chế quản lý thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VI. Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới, nền kinh tế phải đương đầu với nhiều thử thách: Hậu quả nhiều năm của cơ chế cũ để lại còn nặng nề, những tiến bộ về kinh tế chưa đủ khắc phục khó khăn, đất nước còn bị bao vậy cấm vận, chi phí về quốc phòng còn lớn. Từ đầu thập kỷ 90 nền kinh tế nước ta đã có dấu hiệu khởi sắc ở nhiều mặt: Nhịp độ tăng GDP bình quân hàng năm trong kế hoạch 5 năm 1995 - 1999 đạt 8,2%; nhịp độ tăng bình quân hàng năm về sản xuất công nghiệp là 13,3%, sản xuất nông nghiệp 4,5%, kim ngạch xuất khẩu tăng 20%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6% năm 1994 lên 29,1% năm 1999, tỷ trọng dịch vụ từ 38,6% lên 41,9%, tỷ trọng nông lâm, ngư nghiệp từ 38,7% năm 1994 xuống còn 29% năm 1999; Bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế; vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội năm 1994 chiếm 15,8% GDP, năm 1999 là 27,4%, trong đó nguồn vốn đầu tư trong nước chiếm 16,7% GDP; đến tháng 8 năm 2000 tổng số vốn đăng ký của các dự án đầu tư nước ngoài là 20 tỷ 447 triệu USD; lạm phát giảm từ 67,1% năm 1995 xuống còn 12,7% năm 1999. Sự thành công của quá trình đổi mới kinh tế đã tạo điều kiện cho việc đổi mới hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng. 2.2.1. Những thành tựu đạt được của tín dụng ngân hàng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong lĩnh vực ngân hàng thành tựu đáng kể sau Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay là bước đầu xây dựng hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng thích ứng với cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; góp phần đẩy lùi lạm phát, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Riêng đối với việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta phát triển, trong những năm qua, tín dụng ngân hàng đã có sự đóng góp tích cực. 1. Nguồn vốn huy động tăng trưởng khá, đáp ứng được nhu cầu vốn ngày càng tăng của nền kinh tế nói chung và cho sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Việc đổi mới hệ thống tổ chức, mở rộng mạng lưới kinh doanh của các ngân hàng thương mại, cùng với chủ trương các ngân hàng thương mại phải tự huy động vốn để cho vay đã tạo điều kiện và động lực thúc đẩy các ngân hàng thương mại quan tâm đến công tác huy động vốn. Những năm qua các ngân hàng thương mại đã có nhiều cố gắng khai thác các nguồn vốn nhàn rỗi trong các tổ chức kinh tế, xã hội và các tâng lớp dân cư bằng nhiều giải pháp bao gồm cả về tổ chức, quản lý và chính sách huy động vốn. Ngân hàng Công thương Ba Đình đã đưa ra nhiều hình thức huy động vốn như huy động vốn không kỳ hạn; có kỳ hạn ngắn 3 tháng, 6 tháng và 1 năm; có kỳ hạn dài 2 năm, 3 năm. Thể thức huy động vốn cũng rất đa dạng như: tiết kiệm bằng đồng tiền Việt Nam và ngoại tệ, tiết kiệm có đảm bảo giá trị đồng tiền theo vàng, kỳ phiếu thương mại bằng đồng tiền Việt Nam và ngoại tệ, trái phiếu ngân hàng thương mại, tiết kiệm xây dựng nhà ở v.v.... Kết quả nguồn vốn huy động trong những năm qua tăng trưởng khá: Năm 1998 nguồn vốn huy động chỉ có 580 tỷ đồng, đến năm 2001 lên tới 850 tỷ đồng tăng gấp 1,5 lần, cụ thể qua các năm như sau: Biểu 8: Tình hình huy động vốn qua các năm của Ngân hàng Công thương Ba Đình Đơn vị tính: Tỷ đồng Năm Tổng số vốn huy động TIết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn 1998 580 320 1999 700 452 2000 703 413 2001 850 550 Số liệu trên cho chúng ta thấy: Tốc độ phát triển nguồn vốn huy động ở thời điểm tháng 12/2001 so với năm 1998 tăng gấp 1,5 lần, riêng tiền gửi tiết kiệm tăng gấp 1,4 lần. Điều đó chứng tỏ nguồn vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế còn nhiều khả năng tiềm tàng. Nếu chúng ta có mạng lưới huy động vốn rộng khắp, thủ tục gửi vốn rút vốn dễ dàng nhanh chóng thuận lợi, bảo đảm bí mật, an toàn và lợi ích cho người gửi, thì khả năng huy động vốn trong các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế còn có thể tăng hơn nữa. Riêng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tuy khả năng nguồn vốn có hạn, luôn đói vốn cần phải được hỗ trợ về vốn của các tổ chức tín dụng. Song do tính chất luân chuyển vốn của loại hình này nhanh, nếu chú ý khai thác thì cũng có thể huy động được lượng vốn tạm thời nhàn rỗi bằng các biện pháp đẩy mạnh việc mở tài khoản tư nhân, phát hành séc thanh toán cá nhân, cải tiến các phương thức thanh toán như chuyển tiền nhanh, thánh toán điện tử v.v.... thì cũng có thể huy động được. 2. Tín dụng ngân hàng đã góp phần thực hiện chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phát triển các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh. Đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra và đấn Đại hội VII, Đảng ta đã khẳng định rằng: Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên xã hội chủ nghĩa, có tác dụng to lớn trong việc động viên nhân dân xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế nói trên, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã ban hành tạo điều kiện và khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng, thời kỳ bao cấp chủ yếu đầu tư cho các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh không được coi trọng. Vốn của tín dụng ngân hàng tập trung tới 90% cho các doanh nghiệp Nhà nước, còn các đơn vị kinh tế tập thể và cá thể chỉ có 10%. Những năm 1995 - 1999, tín dụng ngân hàng đã hướng vào việc đầu tư phát triển cho tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt chú trọng đầu tư, hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển.Từ tháng 3/1997, ngân hàng đã xoá bỏ sự phân biệt lãi suất cho vay giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm cho các thành phần kinh tế bình đẳng trong quan hệ tín dụng với ngân hàng. Ngân hàng có đã có thể lệ tín dụng áp dụng chung cho các thành phần kinh tế. Ngân hàng không những đầu tư vốn ngắn hạn mà còn đầu tư cả vốn trung, dài hạn và vốn ngoại tệ cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Sở dĩ trong những năm qua, hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam đã đầu tư cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói chung và cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng, với tốc độ tăng nhanh như thế là vì hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam đã xác định đây là thị trường vốn quan trọng để mở rộng tín dụng của mình. 3. Cơ cấu tín dụng đã thay đổi theo hướng nâng dần tỷ trọng cho vay vốn trung hạn, dài hạn đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh đổi mới thiết bị theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Theo chủ trương của Nhà nước vốn ngân sách Nhà nước chỉ đầu tư vào các dự án lớn có tầm cỡ quốc gia và đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng. Còn vốn đầu tư để đổi mới thiết bị, công nghệ, đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp phải dựa vào các nguồn vốn tín dụng. Từ những năm 1994 về trước tín dụng ngân hàng phải tập trung cho vay vốn ngắn hạn là chủ yếu, chiếm tỷ trọng tới 95%. Những năm gần đây, Ngân hàng công thương Ba Đình đã chú ý dành một tỷ lệ vốn đầu tư thích đáng để nâng dần tỷ trọng cho vay vốn trung hạn và dài hạn. Mặc dù nguồn vốn huy động dài hạn của ngân hàng còn ít, nhưng ngân hàng đã sử dụng một phần vốn ngắn hạn và đi vay vốn ngoại tệ dài hạn của các ngân hàng nước ngoài và tổ chức tín dụng quốc tế để làm quỹ cho vay; tranh thủ các nguồn tài trợ để đầu tư chiều sâu và đầu tư mở rộng. Tỷ trọng cho vay từ 5% năm 1994 lên 31% năm 1999, cụ thể như sau: Biểu 10: Tỷ trọng các loại cho vay tại ngân hàng công thương Ba Đình(%) Loại cho vay 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Ngắn hạn 95 85 83 77 67 69 Trung hạn 5 2 4 14 18 24 Dài hạn 13 13 9 15 7 Tổng số 100 100 100 100 100 100 Nguồn:NHCTBĐ 2.2.2. Những khó khăn tồn tại. 1. Tín dụng ngân hàng chưa bảo đảm được yêu cầu vốn dài hạn cho sự nghiệp công nghiệp hoá nói chung, cho doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả là những vấn đề đang được Chính phủ và ngành tài chính, ngân hàng quan tâm; có huy động được nguồn vốn trong nước mới có thể đáp ứng được nhu cầu vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những năm qua, mặc dù hệ thống ngân hàng có nhiều cố gắng trong việc huy động các nguồn vốn trong nước với khối lượng ngày càng tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cho đến nay, ngân hàng cũng mới đáp ứng khoảng 30% so với nhu cầu đầu tư trong nước và 8% so với nhu cầu đầu tư của toàn xã hội. Sở dĩ nguồn vốn ngân hàng huy động được còn rất nhỏ so với nhu cầu vốn của xã hội là do nước ta mới ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tuy có tăng trưởng khá nhưng chưa vững chắc, mức thu nhập của dân cư còn thấp, nên nguồn vốn trong dân có hạn, các doanh nghiệp thiếu vốn nên triệt để vay vốn vòng, phát sinh tín dụng thương mại. Song về chủ quan, ngân hàng chưa đưa ra được các hình thức huy động vốn hấp dẫn, thuận tiện cho người gửi vốn, các hình thức huy động vốn dài hạn như tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm đảm bảo bằng vàng có đưa ra nhưng dân không hưởng ứng. Hiện nay các ngân hàng đang thừa vốn một cách giả tạo, vốn huy động không cho vay được, do đó ngân hàng càng huy động càng bị lỗ, vì lãi suất huy động thấp nhất 0,4% một tháng và cao nhất 0,85% một tháng, nhưng nếu không cho vay được phải gửi vào ngân hàng Nhà nước thì lãi suất chỉ có 0,1% một tháng, nhiều ngân hàng đã phải hạn chế huy động vốn hoặc không huy động vốn dài hạn 9 tháng và 1 năm. Hiện nay nguồn vốn huy động của ngân hàng chủ yếu là vốn ngắn hạn, vốn huy động dài hạn trên 1 năm không đáng kể. Việc hình thành thị trường vốn nhằm khai thác tối đa nguồn vốn của các tổ chức tín dụng cũng đã đạt được một số kết quả. 2. Lãi suất tín dụng chưa hợp lý hạn chế vai trò thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong chương I, chúng tôi đã phân tích khá kỹ về chính sách lãi suất ngân hàng trong nước năm qua. Quá trình thực hiện chính sách này đã đạt được một số thành tựu nhất định góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển và kiềm chế lạm phát có kết quả. Tuy nhiên trong việc xây dựng và chấp hành chính sách lãi suất còn một số mặt chưa được hợp lý, hạn chế vai trò là công cụ điều tiết nền kinh tế, hỗ trợ cho các thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, những tồn tại đó là: - Chính sách lãi suất hiện nay còn bao gồm nhiều trần và nhiều sàn dẫn đến việc chấp hành quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chưa triệt để và nghiêm túc. Xu hướng vượt trần và dưới sàn càng trở nên phổ biến, đã làm cho phần chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất nhận gửi lớn hơn mức chênh lệch do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định. Những năm 1999 trở về trước, do nguồn vốn huy động của ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu cho vay nên phải phát hành kỳ phiếu có mục đích với lãi suất cao hơn lãi suất trần của Ngân hàng Nhà nước. Do đó, khi cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ngân hàng đều áp dụng lãi suất thoả thuận rất cao. Ví dụ: vào cuối năm 1999, lãi suất cho vay trần là 2,1% tháng. Do đó không tạo điều kiện hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Còn có sự chênh lệch quá đáng giữa lãi suất cho vay vốn nội tệ với vốn ngoại tệ, nên một số doanh nghiệp tìm mọi cách vay vốn ngoại tệ để được hưởng lãi suất thấp bằng cách ký các hợp đồng uỷ thác nhập khẩu để được vay ngoại tệ, nhưng thực chất là mua hàng trong nước. Nhiều nhà doanh nghiệp đã lợi dụng cơ chế bất hợp lý này để vừa kinh doanh hàng hoá vừa kinh doanh tiền tệ. Đó là ký các hợp đồng trả chậm để bán hàng lấy tiền gửi tiết kiệm hưởng lãi suất cao. Làm cho hoạt động tín dụng ngân hàng bị thu hẹp nhường chỗ cho tín dụng thương mại hoạt động trong khi đó luật thương phiếu và hối phiếu của ta chưa có. Còn có tình trạng lãi suất tín phiếu kho bạc thường cao hơn lãi suất huy động của ngân hàng, dẫn đến tình trạng một bộ phận tiền gửi ở ngân hàng chạy sang tín phiếu kho bạc gây nên sự chuyển dịch vốn một cách tự phát. - Trong nhiều năm chúng ta chưa thực hiện được nguyên tắc lãi suất cho vay dài hạn phải cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Từ năm 2000 tới nay đã thực hiện được nguyên tắc này nhưng lại có mâu thuẫn là lãi suất cho vay trung và dài hạn quá cao (tại thời điểm này lãi suất cho vay ngắn hạn của ngân hàng công thương là 1,45%; lãi suất trung hạn 1,5%) nên nhiều dự án xin vay trung hạn và dài hạn của khách hàng đã bị xoá bỏ, do đó việc đổi mới công nghệ, thiết bị thông qua các dự án này không thực hiện được. Nhìn chung lãi suất huy động vốn và cho vay của nước ta so với các nước trong khu vực và thế giới là còn quá cao. Năm 1999 lãi suất trần của nước ta là 2,1%/tháng hay 25,2%/năm, sau khi trừ tỷ lệ lạm phát 12,7%/năm thì mức thực lãi là 12,5%/năm; trong khi đó tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế chưa vượt quá con số 6,5% năm. Tình hình lãi suất như trên đã hạn chế khả năng vay vốn của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. 3. Hiệu quả tín dụng chưa cao, nợ khê đọng khó đòi và nợ quá hạn lãi treo phát sinh ngày một tăng. Một là: Nợ khê đọng khó đòi: Do hậu quả của thời gian dài bao cấp, và do khó khăn của những năm đầu đổi mới cơ chế quản lý của nền kinh tế nước ta, nên nợ vay ngân hàng bị đóng băng lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Phân tích nguyên nhân khách quan và chủ quan những khoản nợ của ngân hàng, không có khả năng thu hồi ta thấy: - Do các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài. - Do các doanh nghiệp bị thiên tai, lũ lụt. - Do có dự chuyển đổi cơ chế, chính sách của Nhà nước. - Do có những biến động bất khả kháng trên thị trường tài chính - tiền tệ thế giới. - Do sự quản lý điều hành hoạt động kinh doanh tiền tệ của tín dụng ngân hàng còn nhiều yếu kém. Để giúp cho các doanh nghiệp giải quyết khó khăn về tài chính, chấn chỉnh và sắp xếp lại sản xuất, kinh doanh nhanh chóng chuyển đổi và thích nghi với cơ chế mới, từ năm 1996 tới nay Chính phủ đã hai lần cho phép các ngân hàng thương mại được khoanh số nợ thiếu khả năng thanh toán của một số doanh nghiệp Nhà nước. Tính đến cuối năm 1998, số nợ đã được khoanh của Ngân hàng công thương Ba Đình là 2,8 tỷ đồng. Song vấn đề đặt ra là: Chủ trương khoanh nợ chỉ mới được đặt ra đối với doanh nghiệp Nhà nước, còn đối với các hợp tác xã và các tổ chức kinh tế tập thể vay vốn ngân hàng vẫn chưa được khoanh nợ. Riêng hệ thống ngân hàng công thương số nợ đóng băng của các hợp tác xã đã giải thể lên tới trăm tỷ. Hai là: Nợ quá hạn và lãi treo. Một vấn đề nổi cộm trong công tác tín dụng ngân hàng ở nước ta nước năm gần đây là tỷ lệ nợ qua hạn có chiều hướng gia tăng và lãi treo phát sinh lớn. Đến cuối năm 1999, tỷ lệ nợ quá hạn trên bảng cân đối của ngân hàng Nhà nước là 5,1% so với năm 1998 tăng 0,26% nếu tính cả nợ khoanh thì tỷ lệ nợ quá hạn là 7,3%. Riêng hệ thống Ngân hàng công thương Ba Đình nợ quá hạn phát sinh trong hai năm 1998 - 1999 như sau: Biểu 11: Tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng công thương Ba Đình Đơn vị tính: tỷ đồng Năm 2000 Năm 2001 Tổng Trong đó Tổng Trong đó Nợ quá hạn số nợ quá hạn Ngoài quốc doanh Quốc doanh số nợ quá hạn Ngoài quốc doanh Quốc doanh Tổng số nợ quá hạn 7 4,2 2,8 11 6,4 4,6 1. Không có khả năng thu hồi 2 1 1 2,8 1,3 1,5 2. Dưới 6 tháng 1 0,6 0,4 3,6 2,4 1,2 3. Dưới 12 tháng 1,5 0,7 0,8 1,3 0,9 0,4 4. Trên 12 tháng 2,5 1,9 0,6 3,3 1,8 1,5 Nguồn: Ngân hàng công thương Ba Đình Sở dĩ nợ quá hạn và lãi treo của Ngân hàng Công thương Ba Đình nói riêng tăng nhanh, nhất là 6 tháng đầu năm 2001 là do những nguyên nhân khách quan và chủ quan dưới đây: * Về nguyên nhân khách quan: - Quá trình đổi mới nhanh chóng của chính sách, cơ chế và pháp luật, cùng với sự hoà nhập vào thị trường thế giới làm cho nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không theo kịp với sự diễn biến của thị trường trong nước và thế giới. Sự sản xuất và lưu thông hàng hoá của họ gặp phải không ít khó khăn, bị động, lúng túng. Một số doanh nghiệp lâm vào tình trạng làm ăn sa sút, thua lỗ, dẫn đến phá sản, thiếu khả năng thanh toán. - Từ đầu năm 2000 đến nay, tỷ lệ lạm phát so với các năm trước cùng kỳ giảm nhiều. Tính chung 8 tháng đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0238.doc
Tài liệu liên quan