Đề tài Tình hình đầu tư bằng nguồn vốn ODA tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC

Lời nói đầu 1

Phần I: Những vấn đề lý luận chung 3

I. Một số vấn đề lý luận về đầu tư. 3

1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của đầu tư phát triển 3

2. Nguồn vốn đầu tư phát triển. 6

II. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA. 7

1. Khái niệm: 7

2. Phân loại: 7

3. Đặc điểm của vốn ODA 8

PhầnII: Tình Hình Đầu Tư Bằng Nguồn Vốn ODA Tại Việt Nam 10

I. Vai Trò Của Nguồn Vốn ODA Đối Với Việt Nam 10

1. Bổ xung cho nguồn vốn trong nước. 10

2. Tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ và phát triển nguồn nhân lực. 10

3. Hoàn thiện cơ cấu kinh tế. 11

4. Xoá đói giảm nghèo. 11

5. Tăng khả năng thu hút vốn FDI. 11

II. Tình Hình Huy Động Và Sử Dụng Nguồn Vốn ODA Giai Đoạn 1993-2001. 12

1. Tình hình huy động. 12

2. Tình hình sử dụng: 13

3. Cộng đồng các nhà tài trợ. 17

III. Đánh giá thực trạng đầu tư bằng nguồn vốn ODA 18

1. Kết quả và hiệu quả đạt được 18

2. Những hạn chế và nguyên nhân: 18

Phần III: Một số giải pháp 23

I. Phương hướng thu hút và sử dụng vốn ODA 23

1. Phương hướng thu hút 23

II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA ở Việt Nam 27

1. Hài hoà thủ tục dự án 27

2. Giải quyết tốt vốn đối ứng 28

3. Cải thiện chất lượng đầu vào. 29

4. Tiếp tục hoàn chính sách đền bù, tái định cư. 30

5. Tăng cường năng lực quản lý dự án ODA. 31

6. Tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ dự án: 34

7. Hoàn thiện chính sách thuế. 34

8. Trả nợ nước ngoài: 35

Kết luận 39

Tài liệu tham khảo 41

 

doc42 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2511 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình đầu tư bằng nguồn vốn ODA tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iai đoạnn 1993 – 2001, vốn ODA dã hỗ trợ cho lĩnh vực này là 11, 8, 86%. Mức giải ngân các dự án ODA trong ngành giáo dục, y tế tăng từ 164 triệu usd namư 1997 lên 178 triệu usd năm 1998. Trong năm 2001 mức giải ngân là: Ngành Tỷ lệ Năng lượng điện 24.57% Giao thông vận tải 27.88% Nông lâm, thuỷ sản, thuỷ lợi 12.87% Y tế, giáo dục, khoa học 14.2% Cấp thoát nước 7.2% Hỗ trợ ngân sách 5.62% Các ngành khác 7.65% Tổng số 100% 2.1.5. hỗ trợ kỹ thuật: lĩnh vực này chiếm tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu ODA trong thời gian qua. Các dự án hỗ trợ kỹ thuật đã tập trung vào các lĩnh vực chủ yuế là cải cách kinh tế vĩ mô và phaps luật, tăng cường năng lực và thể chế cho các cơ quan nhà nước, phát trieenr nguồn nhân lực và thực hiện nghiên cứu cơ bản. các dự án này đã có những đóng gpá tích cực trong việc tăng cường năng lực các cơ quan hữu qua, mở rộng tầm nhìn và bổ xung kiến thức trên nhiều lĩnh vực công nghệ, quản lý cho các quan chức chính phủ, các nhà quản lý kinh tế cả trong quốc doanh và dân doanh. Bảng : cơ cấu ngân sách vốn vay ODA giai đoạn 1996-2000 Tỷ trọng vốn ODA thời kỳ 1993 – 2001 trong các ngành được thể hiện như sau: Bảng trên cho ta thấy vốn ODA tập trung chủ yếu vào phát triển cơ sở hạ tầng, cụ thể là lĩnh vực giao thông vân tải (27, 88%) sau đó là năng lượng điện (24%) và phần còn lại dùng đểhỗ trợ cho thâm hụt ngân sách và các khoản nợ nước ngoài (5, 62%). Vậy đây mới chỉ là cam kết ODA mà trên thực tế các ngành lĩnh vực đã được tiếp nhận vốn ODA như sau: Tỷ trọng giải ngân vẫn được tập trung cao nhất vào lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng. Nguyên nhân chính là vì mục tiêu của chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ là sử dụng vốn ODA để phát triển cơ sở hạ tầng bởi thực tế cơ sở hạ tầng nước ta còn qua kém. 2.2. Theo cơ cấu vùng: thời gian vừa qua nguồn vốn ODA đá đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển cơ sỏ hạ tầng kinh tế xax hội, đóng góp vào việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế giữa các vùng, thúc đảy kinh tế từng vùng thay đổi và phát triển. Từng bước khắc phục tình trạng mất cân đối giữa các vùng. Nhiều dự án ODA đã được thực thi và hầu như tất cả các vùng đá tiếp nhận được nguồn vốn ODA. Nục tiêu trước mắt của các nhà tài trợ và chính phủ Việt Nam là đầu tư hơn nữa cho các vùng còn khó khăn theo hướng phát triển cơ sở hạ tầng, góp phần thực hiện xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực, tạo tiền đề cho phát triển nhanh và bền bững. Tuy nhiên sự chênh lêchcj về nguồn vốn ODA giữa các vùng vẫn còn lớn mặc dù gần đây việc phân bổ nguồn vốn này trên các vùng có sự tăng lên rõ rệt. Bảng: Nguồn vốn ODA ký kết theo hiệp định các vùng Tên vùng Tỷ trọng (%) trong tổng vốn ODA ký kết ODA bình quân đầu người (usd/người) Kinh tế trọng điểm bắc bộ 20 206.7 Kinh tế trọng điểm trung bộ 5.5 139.2 Kinh tế trọng điểm nam bộ 10 124.5 Tây nguyên 2.7 71.4 đồng bằng sông cửu long 10 66.9 Vùng núi bắc bộ 4.7 51.2 Qua bảng ta thấy ODA ký kết ở vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ là cao nhất bởi vì trong những năm vưà qua, phần nào đó chính phủ đã tập trung phát triẻn kinh tế ở phía bắc. thấp nhất là vùng tây nguyên, nhưng bình quân đầu người lại cao hơn vùng núi bắc b. nguyên nhân là vì dân số ở tây nguyên ít. 3. Cộng đồng các nhà tài trợ. Như dã trình bày hiện nay Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ với 25 nhà tài trợ song phương, 19 đối tác đa phương và hơn 350 tổ chức phi chính phủ. Trong đó ba nhà tài trợ chủ yếu là: nhật bản, ngân hàng thế giới (wb) và ngân hàng phát triển châu á có giá trị các hiệp định đã ký kết là 9, 82 tỷ usd, chiếm 79% tổng giá trị ký kết. Mức cụ thể của các nhà tài trợ nỳa như sau: Nhật bản: 5, 449 triệu usd chiếm 43, 8%. WB: 2, 64 triệu usd chiếm 21, 2%. Ngân hàng châu á: 1, 737 triệu usd chiếm 21, 2%. Trong ssố các nhà tài trợ chỉ có một vài nhà cung cấp viện trợ không hoàn lại như australia và canada. Cũng trong lĩnh vực này nhật bản vẫn là nhà tài trợ lớn cho Việt Nam kể từ 1993. III. Đánh giá thực trạng đầu tư bằng nguồn vốn ODA 1. Kết quả và hiệu quả đạt được Qua 8 làn hội nghị Chính phủ Việt Nam đã ký kết với các nhà tài trợ quốc tế điều ước quốc tế cụ thể về ODA trị giá 14,3 tỷ USD đạt 81,5% tổng vốn ODA đã cam kết, trong đó ODA vốn vay khoảng 12 tỷ USD (83,9%) và ODA vốn vay không hoàn lại khoảng 2,3 tỷ USD (16,1%). Tình hình thực hiện ODA đã có bước tiến triển khá, năm sau khá hơn năm trước và thực hiện tốt kế hoạch giải ngân hàng năm. Từ năm 1993 đến năm 2001 vốn ODA giải ngân khoảng 9,728 tỷ USD. Nguồn vốn ODA đã tập trung cho lĩnh vực hỗ trợ phát triển kinh tế, xã hội ưu tiên của Chính phủ đó là: năng lượng điện (24%), ngành giao thông (27,5%), phát triển nông nghiệp, nông thôn (12,74%), cấp thoát nước (7,8%) y tế giáo dục khoa học công nghệ môi trường (11,78%) Ngoài ra nguồn vốn ODA hỗ trợ đáng kể cho ngân sách Chính phủ để thực hiện điều chỉnhcca kinh tế và thực hiện chính sách cải cách kinh tế . 2. Những hạn chế và nguyên nhân: 2.1. Những hạn chế: Thiếu công bằng giá các ngành, các vùng, tốc độ triển khai dự án chậm. Khi đi vào sử dụng vốn ODA, phía Việt Nam đã không thoả mãn yêu cầu của nhà tài trợ. Trong công tác đấu thầu, nhiều nhà thầu trong nước đã không đủ khả năng cung cấp thiết bị cho các dự án ODA, khi thực hiện kết quả đấu thầu nhiều trường hợp chỉ là nhà thầu phụ thi công xây lắap các công trình bằng nguồn vốn ODA. Tốc độ đầu tư công cộng chậm cũng sẽ ảnh hưởng tới môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tương lai. Đối với vốn vay ODA, chậm giải ngân còn giảm tính ưu đãi (thời gian ân hạn bị rút ngắn) trong theo dõi đánh giá dự án ODA có lúc còn chậm. Qua tình hình thực hiện vốn ODA trong thời gian qua, về phía Việt Nam có thể rút ra những nguyên nhân nổi cộm sau: 2.2.1. Nguyên nhân khách quan: Quy định về điều kiện tài trợ của các nhà tài trợ rất đa dạng, có khi phức tạp. Quy trình thực hiện dự án của các nước và các tổ chức tài trợ và quý trình của Việt Nam có những điều chưa phù hợp lẫn nhau. Các khoản vay ràng buộc về phương thức mua sắm, đấu thầu, chọn tư vấn. Có nhiều dự án thực hiện trên địa bàn trải rộng (các dự án dân số, y tế, cấp thoát nước, giáo dục, giao thông nông thôn) thường trải dài trong phạm vi từ 6 –18 tỉnh. Một số nhà tài trợ chậm trả lời những vấn đề phát sinh hoặc thay đổi đột ngột trong chính sách tài trợ (Anh). Ngoài ra, gần đây còn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước trong khu vực đã làm cho một số dự án gặp khó khăn do thiếu vốn và do việc ký vay bằng tiền tệ, nhưng hợp đồng mua sắm hoặc xây dựng căn cứ theo giá tính bằng USD, quy ra bản lệ theo giá cố định, khi đồng bản tệ bị mất giá thì nhà thầu bị lỗ vốn không thể tiếp tục thực hiện dự án theo cam kết. 2.2.2. Nguyên nhân chủ quan: 2.2.2.1.Việc thẩm định, phê duyệt dự án còn kéo dài: Nhiều hiệp định đã ký kết, nhưng chỉ có tên là dự án mà chưa hoàn thành báo cáo nghiên cứu khả thi, chưa hoàn thành thủ tục phê duyệt dự án đầu tư như các hiệp định vay của Nhật Bản (tài khoá 1993), Pháp, ấn Độ, Đan Mạch, Thụy Sỹ. Do chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tổng hợp và bộ chủ quản. Quá trình lập, duyệt dự án không kịp thời thường mất từ 1 –3 năm, có dự án sau khi ký hiệp định lại thay đổin quy trình công nghệ hay thay đổi mục tiêu của dự án. Có một số dự án trong quá trình lập nghiên cứu khả thi không thấy có hiệu quả chuyển sang dự án khác. Một số dự án do chuẩn bị khá lâu nên khi thẩm định, phê duyệt thì nhiều hạng mục trong dự án đã lạc hậu so với tình hình mới. 2.2.2.2. Quá trình đấu thầu, mua sắm kéo dài: Nhìn chung việc tổ chức đấu thầu mua sắm, xây lắp thường kéo dài do Việt Nam mới bắt đầu làm quen với các nguyên tắc và đấu thầu theo thông lệ quốc ế (như dự án điện phả lại, điện Phú Mỹ vay của Nhật việc đấu thầu kéo dài hơn hai năm) hoặc giá cả cao do buộc phải mua máy móc thiết bị từ các nhà tài trợ nên chủ dự án không chấp nhận. Bộ kế hoạch và đầu tư, bộ chủ quản và các chủ dự án phải keó dài thời gian đàm phán, thẩm định keó dài thời gian trong hợp đồng trong một số trường hợp phải chuyển sang dự án khác. Quan hệ giữa các nhà thầu chính, nhà thâù phụ chưa rõ ràng. 2.2.2.3. Chính sách và công tác đền bù giải phóng mặt bằng: Chính sách và công tác đền bù giải phóng mặt bằng đối với các công trình giao thông khác với các chính sách của Việt Nam nên quá trình thương lượng điều chỉnh chính sách để đi đến thống nhất thường kéo dài hơn 1 năm. Có những dự án đã thống nhất về chính sách nhưng việc triển khai đền bù của các chủ dự án tiến hành thường chậm. Giải phóng mặt bằng thường gắn với các chính sách xã hội như tái định cư, việc làm hoặc đền bù, hơn nữa, năng lực, trình độ cán bộ quản lý thực hiện công tác này và vấn đề thông tin khác cũng gây tác động không nhỏ. Nhiều bất cập trong quá trình thực hiện không được thông tin đầy đủ và xử lý kịp thời dẫn đến làm chậm tiến độ triển khai dự án. 2.2.3.4.Vốn đối ứng: Vốn đối ứng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng vốn đầu tư cho dự án nhưng lại ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án. Việc lập kế hoạch nguồn vốn đối ứng tuy gần đầu đã có tiến bộ nhưng còn bị động. Mặc dù Chính phỉ đã có ưu tiên cao để bố trí vốn đối ứng song do khâu lập dự toán của chủ dự án chưa phản ánh hoặc không kịp thời hạn đưa vào kế hoạch ngân sách năm nên việc bố trí vốn đối ứng thuộc ngân sách nhà nước của Bộ kế hoạch và đầu tư ngay từ đầu năm chưa đủ, việc điều chỉnh bổ sung vốn đối ứng có khó khăn gây bị động cho ngân sách nhà nước, chủ dự án không chủ động thu xếp nguồn vốn đối ứng. 2.2.3.5. Cơ chế, năng lực quản lý còn nhiều bất cập Trong các thông tư, nghị định của chính phủ nêu rõ: Nhà nước thống nhất quản lý ODA. Tuy nhiên, thời gian qua chúng ta chưa coi trọng lĩnh vực này như đã từng khẳng định. Bởi lẽ, theo cơ chế quản lý hiện hành thì Thủ tướng Chính phủ là người có quyền quyết định cao nhất, dưới nữa là Ban công tác liên ngành quản lý nguồn vôn này, trong đó đại diện Bộ kế hoạch và đầu tư, đại diện văn phòng chính phủ, đại diện Bộ tài chính, đại diện bộ ngoại giao, đại diện ngân hàng nhà nước, những thành phần này làm việc kiêm nhiệm, do đó quỹ thời gian dành cho công tác quản lý dự án ODA không nhiều. Vì các đại diện này còn phải làm nhiều trong lĩnh vực mình, ở đây không có cán bộ chuyên trách quản lý. Với cơ chế quản lý trên, về hình thức thành phần nhận vốn có vẻ như được quản lý chặt chẽ từ trên xuống, nhưng thực chất có nhiều Bộ, ngành phân chia quyền lực với nhau, nên nguồn vốn viện trợ gần như bị buông lỏng, thất thoát vốn là điều không thể tránh khỏi. Ngoài ra, vì nhiều cơ quan bộ ngành đều có quyền nên khi thống nhất ý kiến đồng tâm, phối hợp chặt chẽ với nhau vì công việc chung. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng vốn đầu tư không tập trung vào các chương trình trọng điểm hoặc thời gian thực hiện thường kéo dài hơn so với kế hoạch. Công tác quản lý ODA còn bị chồng chéo, chưa tách bạch trách nhiệm của các cấp, làm giảm hiệu lực điều hành quản lý vốn ODA. Theo đánh giá của nhiều nhà phân tích trong và ngoài nước, mặc dù Việt Nam đã qua một thời gian khá dài tiếp nhận nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (8 năm) nhưng khả năng và năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý ODA còn quá yếu so với yêu cầu quốc tế và yêu cầu của nhà tài trợ. Đây là một vấn đề đã nhiều người quan tâm xem xét. 2.2.3.6. Về chính sách thuế: Việc áp dụng chính sách thuế đối với các dự án ODA hiện nay chưa được nhất quán và phải xử lý từng trường hợp. Bộ tài chính đã có văn bản trình thủ tướng Chính phủ ban hành quy định chính sách thuế đối với các dự án sử dụng ODA nhằm khắc phục tình trạng này. phần III Một số giải pháp I. Phương hướng thu hút và sử dụng vốn ODA 1. Phương hướng thu hút Để đạt các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm 2001 –2005 mà Đại hội Đảng IX nêu ra là: Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm là 7, 5%, tổng GDP năm 2005 gấp 2 lần so với 1995: Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001 –2010, GDP tăng ít nhất gấp đôi so với năm 2000. Để đạt các chỉ tiêu kinh tế – xã hội thì nhu cầu vốn đầu tư là rất lớn, trong đó vốn ODA đóng vai trò rất quan trọng, thể hiện ở bảng sau: Đơn vị: Tỷ USD 2001-2005 2001-2010 Tổng vốn đầu tư 60-65 170-250 Vốn trong nước 40-42 120-180 Vốn nước ngoài 20-23 50-70 * ODA 9-10 15-20 * FDI 11-13 35-50 Bảng: Dự báo nhu cầu vốn đầu tư đến năm 2010 Bảng 7: Như vậy, theo tính toán, để đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế là 7, 5%/ năm giai đoạn 2002-2005 thì cần phải có khoảng 60 –65 tỷ USD tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Dù rằng vốn trong nước là chính, đóng vai trò quyết định, nhưng cần phải nhìn thẳng vào sự thật và khả năng huy động các nguồn vốn này sẽ gặp nhiều khó khăn. Bởi vì nguồn vốn ngân sách còn hạn chế, khó có thể tăng nhanh được so với bình quân khoảng 1 tỷ USD/ năm trong thời kỳ 1996-2000; nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cũng hạn chế do nhiều doanh nghiệp hiện đang bị thua lỗ (doanh nghiệp nhà nước) tích luỹ thấp và cũng đang trông đợi vào ngân sách cấp hoặc vốn nước ngoài; nguồn vốn của dân cư rất khó xác định vì tâm lý của dân cư còn thiếu tin tưởng vào hệ thống ngân hàng – tài chính và thiên về đầu tư tích trữ vàng, đô la, đất…Như vậy, trong ban nguồn hạn chế, còn một nguồn khó xác định thì khó có thể huy động tổng vốn đầu tư như dự kiến nếu không chú trongj thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt về thu hút vốn FDI giữa các quốc gia, thì vốn ODA của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế là hết sức cần thiết. Tính bình quân giai đoạn 2002 –2005, Việt Nam cần khoảng 2 tỷ vốn ODA chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong vốn đầu tư nước ngoài (45%). Như vậy, hơn lực nào hết trong giai đoạn hiện nay Việt Nam có thể coi nguồn vốn ODA như là một “giải pháp cứu cánh” để khắc phục khó khăn tạm thời về vốn, đồng thời tạo đà cho thu hút đầu tư của khu vực tư nhân, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội và giải quyết các vấn đề khác như xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống thông qua các phúc lợi công cộng như phát triển y tế cộng đồng, tăng đầu tư giáo dục. Vì vậy có thể coi vốn ODA là một nhân tố quan trọng góp phần tạo nên sự tiến bộ của nền kinh tế Việt Nam. Theo nhận định thì khả năng tăng vốn ODA là khả thi qua các năm. Do đó Việt Nam cần tăng cường vận động trong việc tiếp nhận vốn ODA. 2. Phương hướng sử dụng 2.1. Phương hướng chung: Định hướng và sử dụng nguồn vốn ODA trong thời kỳ 2002 –2005 của Việt Nam là tiếp tục tranh thủ sự hỗ trợ của cộng đồng các nhà tài trợ về nguồn vốn ODA nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực và tạo ra những tiền đề cần thiết cho sự phát triển nhanh và bền vững. Việt Nam cần dành khoảng 15% vốn ODA cho đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn, kết hợp mục tiêu phát triển nông nghiệp nông thôn với mục tiêu xoá đói giảm nghèo, dành khoảng 25% cho năng lượng và công nghiệp ; 25% giành cho giao thông vận tải và bưu điện, coi trọng sử dụng vốn ODA trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực xã hội giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và môi trường. 2.2. Phương hướng cụ thể 2.2.1. Trong cơ cấu vốn ODA 2.2.1.1. Đối với vốn ODA không hoàn lại được ưu tiên sử dụng cho những chương trình, dự án thuộc các lĩnh vực xã hội, xoá đói giảm nghèo, trước hết tại các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, y tế dân số và phát triển, giáo dục và phát triển nguồn nhân lực, các vấn đề xã hội (tạo việc làm, cấp nước sinh hoạt, phòng chống dịch bệnh, phòng chống các tệ nạn xã hội) bảo vệ môi trường; bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên, nghiên cứu khoa học và công nghệ; nâng cao năng lực nghiên cưú và triển khai. Nghiên cứu cơ bản để chuẩn bị chương trình, dự án đầu tư phát triển (quy hoạch, điều tra cơ bản, tổng quan nghiên cứu khả thi), cải cách hành chính tư pháp, tăng cường năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương, địa phương và phát triển thể chế. 2.2.1.2. Đối với vốn vay ODA được ưu tiên sử dụng cho những chương trình, dự án thuộc các lĩnh vực : Xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp và nông thôn ; giao thông vận tải, thông tin liên lạc, Năng lượng, cơ sở hạ tầng xã hội (các công trình công cộng, y tế, giáo dục, cấp thoát nước, bảo vệ môi trường) ; hỗ trợ một số lĩnh vực sản xuất nhằm giải quyết các vấn đề xã hội (tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo, khắc phục các tệ nạn xã hội) ; hỗ trợ cán cân thanh toán. 2.2.2. Cơ cấu vùng: Trong 5 năm 2001 – 2005, cùng các nguồn vốn trong nước, cần tập trung hơn nữa nguồn vốn ODA cho các vùng nghèo có nhiều khó khăn như: Đồng bằng sông Cửu Long, vùng duyên hải miền trung, tây nguyên, vùng núi phía bắc để thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp và nông thôn. 2.2.3. Cơ cấu ngành: Về năng lượng: Tiếp tục đầu tư cho phát triển các nguồn điện, hệ thống đường dây tải điện và các trạm biến thế, quan tâm tới việc mở rộng lưới điện về nông thôn, vùng khó khăn, chú trọng phát triển các trạm thuỷ điện nhỏ cho các vùng miền núi, điện gió và năng lượng mặt trời cho các vùng sâu, vùng hải đảo… Về công nghiệp: Có thể sử dụng vốn ODA để đổi mới trang thiết bị để nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm, nhằm giữ ổn định về công ăn việc làm, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Về giao thông vận tải: Tiếp tục phát triển đi đôi với nâng cấp và duy tu bảo dưỡng hệ thống đường quốc lộ và các cầu cố tính huyết mạch, khôi phục nâng cấp các tuyến tỉnh lộ. Giành nguồn vốn ODA thích đáng phát triển các đường nhánh nối với đường quốc lộ, đảm bảo giao thông thông suốt đến các vùng dân cư nhất là các vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi… Về bưu điện: Tập trung vốn ODA cho phát triển viễn thông nông thôn Về nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ lợi, kết hợp với nông thôn và xoá đói giảm nghèo: Nguồn vốn ODA sẽ hỗ trợ đa dạng cho phát triển nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt các vùng sâu, vùng xa. Gắn với chương trình quốc gia về mục tiêu xoá đói giảm nghèo, Khôi phục và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn như điện, đường, trường học, cấp nước sinh hoạt, trồng và bảo vệ rừng, công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ hải sản. Hỗ trợ và cải trách thể chế nắm giúp cho hoạt động nông nghiệp gắn với thị trường, thúc đẩy sản xuất, tăng cường, tạo công ăn việc làm. Mở rộng phạm vi các hoạt động tài chính nông thôn nhằm tạo vốn cho người nông dân phát triển sản xuất tăng thu nhập. Về y tế, xã hội: Cải tạo, nâng cấp và tăng cường trang thiết bị cho các bệnh viện tỉnh, nâng cấp các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, thành phố chưa được sử dụng vốn ODA giai đoạn 1996 –2000. Tăng cường năng lực cho hệ thống y tế tuyến huyện, xã, xây dựng một số xí nghiệp thuốc đạt tiêu chuẩn, tăng cường năng lực kiểm soát sử dụng thuốc, thực hiện chương trình dân số và phát triển, chương trình thanh toán một số bệnh xã hội, chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, chương trình phòng chống H IV/AIDS. Hỗ trợ cải cách các chính sách y tế. Về giáo dục và đào tạo: Nguồn ODA sẽ hỗ trợ cơ sở vật chất kỹ thuật cho hệ thống đào tạo ở các cấp: Hỗ trợ phát triển mạng lưới các trường dạy nghề; tăng cường năng lực quản lý ngành giáo dục và đào tạo ; nâng cao trình độ giáo viên và cung cấp học bổng cho công tác đào tạo và nghiên cứu. Về cấp thoát nước đô thị và bảo vệ môi trường: Tập trung để hỗ trợ, nâng cấp hệ thống nước cho các thị xã chưa nhận vốn ODA giai đoạn 1996 –2000, ưu tiên nâng cấp hệ thống cấp thoát nước tại các huyện lỵ và vùng nông thôn. Quan tâm tới hệ thống thoát nước, vệ sinh môi trường, xử lý rác thải ở thành phố, thị xã đông dân đang bị ô nhiễm nặng. II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA ở Việt Nam 1. Hài hoà thủ tục dự án Dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA phải trải qua hai khâu thẩm định các quá trình thẩm định và phê duyệt dự án diễn ra từ phía các cơ quan Chính phủ và các nhà tài trợ. Để đảm bảo việc phê duyệt dự án được suôn sẻ, cần phải cải tiến thủ tục và phối hợp của hai phía. Trước hết phía Việt Nam cần nâng cao chất lượng các báo cáo nghiên cứu khả thi. Có nâng cao chất lượng công tác này thì quá trình thẩm định và phê duyệt dự án mới tiến hành nhanh được. Thực tế hiện nay cho thấy tiến trình thẩm định và phê duyệt dự án đang còn trục trặc, các văn bản nghiên cứu khả thi (F/S) được chuẩn bị thường không đáp ứng yêu cầu cho năng lược chuẩn bị F/S của chủ đầu tư còn nhiều hạn chế, dẫn tới chậm trễ trong việc trình và phê duyệt F/S, và thiếu nhất quán giữa nội dung các báo cáo nghiên cứu khả thi được phê duyệt và kết quả thẩm định của nhà tài trợ. Do đó nâng cao chất lượng lập báo cáo nghiên cứu khả thi (F/S) là việc làm mà Việt Nam phải làm trước khi trình lên nhà tài trợ để thẩm định. Cả hai bên cần nghiên cứu, điều chỉnh để thủ tục thẩm định của hai bên tiến tới đồng bộ, thống nhất và phối hợp nhịp nhàng với nhau cả về nội dung và thời điểm thẩm định của mọi “quy trình thẩm định chung” nhưng vẫn là hai lần thẩm định khách quan. Trong “quy trình thẩm định chung” này, nên để thẩm định của nhà tài trợ sau khi có phê duyệt F/S của Chính phủ. Đồng thời, để tránh lãng phí thời gian, nên giảm bớt những thủ tục không cần thiết trong quá trình phê duyệt F/S. Ngoài ra, chủ đầu tư cần được bố trí nghiên cứu tiền khả thi và xúc tiến nghiên cứu khả thi cho các dự án nằm trong danh mục các dự án được ưu tiên sử dụng vốn ODA đã được Chính phủ phê duyệt và nhà tài trợ xem xét. Trong công tác đấu thầu, Việt Nam cần hiểu rõ các nguyên tắc và đièu kiện đấu thầu theo thông lệ quốc tế. Bởi vì, Việt Nam mới chuyển đổi cơ chế kinh tế, nên công tác đấu thầu mới được đặt ra từ năm 1986, chưa quen với đấu thầu quốc tế. Nhiều nàh tài trợ yêu cầu công tác đấu thầu rất khắt khe, ví dụ WB và ADB quy định các doanh nghiệp nhà nước không tham gia đấu thầu với những gói thầu mà chủ đầu tư là Bộ chủ quản. Để làm tốt công tác này, trong thời gian tới chúng ta cần có pháp lệnh về đấu thầu, vì hiện nay chỉ có quy chế đấu thầy nằm trong nghị định 88/CP. Cần quy định rõ ràng hơn điều kiện nào được chỉ định thầu. Quy định rõ ràng về quan hệ giữa nhà thầu chính và nhà thầu phụ. 2. Giải quyết tốt vốn đối ứng Vốn đối ứng cho các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn ODA là phần vốn trong nước tham gia chương trình dự án ODA được cam kết giữa phía Việt Nam và phía nước ngoài trong các hiệp định, văn kiện dự án, quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền. Các dự án vay vốn của Chính phỉ Nhật Bản hoặc ngân hàng thế giới, ngân hàng phát triển Châu á thường yêu cầu vốn đối ứng trong nước chiếm từ 15 –30% tổng giá trị dự án, các dự án viện trợ của các tổ chức liên hiệp quốc thường cũng phải đòi hỏi vốn đối ứng khoảng 20% giá trị dự án. Thực tế, vốn đối ứng của Việt Nam thường chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA. Nhiều dự án, phía Việt Nam không đủ vốn đối ứng nên tỷ trọng rất nhỏ có khi dưới 10%. Để triển khai dự án được nhanh, không phụ thuộc vào phía nhà tài trợ nhiều thì việc cần làm là phía Việt Nam cần tranh thủ đi trước một bước là tăng tỷ trọng vốn đối ứng. Bởi vì nhiều dự án, phía nước ngoài nhìn vào tỷ trọng vốn đối ứng Việt Nam tham gia vào dự án đâu đó mới giải ngân. Về nguyên tắc, vốn đối ứng của chương trình, dự án thuộc cấp nào thì cấp đó xử lý từ nguồn ngân sách của mình. Trường hợp một số địa phương có vốn đối ứng phát sinh quá lớn, vượt khả năng cân đối thì trình thủ tướng để xin hỗ trợ thêm ngay từ khi lập dự án. Tuy nhiên, thực tế vấn đề vốn đối ứng không phải lúc nào cũng trôi chảy mà đang là một trong những nguyên nhân gây nên sự chậm trễ dự án. Cơ chế vốn đối ứng khác nhau cho những dự án cùng loại là câu hỏi đang chờ giải đáp. Bên cạnh đó, một số dự án do vốn đầu tư lớn nên càng khó khăn về vốn đối ứng, đặc biệt là vốn đối ứng với các địa phương. Do vậy, trong khâu lập dự toán chủ đầu tư phải đề xuất kịp thời vốn đối ứng đưa vào ngân sách để Bộ kế hoạch và đầu tư bố trí vốn đối ứng ngay từ đầu năm, còn nếu chủ đầu tư không lập dự toán vốn đối ứng, trong quá trình thực hiện nếu thiếu vốn thì chủ dự án phải tự thu xếp nguồn vốn đối ứng nhằm tháo gỡ những khó khăn về vốn đối ứng, cần quy hoạch cụ thể hơn về cơ chế vốn đối ứng, đảm bảo vốn đối ứng được cấp đầy đủ và kịp thời theo tiến độ thực hiện dự án, thống nhất cơ chế vốn đối ứng với những dự án cùng loại. Mặt khác, cần tăng cường quản lý và sử dụng vốn đối ứng cho các dự án ODA phù hợp với quy định của Chính phủ và không được sử dụng vốn đối ứng ngoài các mục đích của dự án. 3. Cải thiện chất lượng đầu vào. Để cải thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA, giảm thiểu gánh nặng nợ nần, phải quan tâm hơn nữa tới chất lượng đầu vào của nguồn vốn ODA. Phải lựa chọn các dự án cho phù hợp, phục vụ việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn và trung hạn. Các dự án cần gắn với quy hoạch tổng thể phát triển ngành vùng lãnh thổ. Cần chú trọng tới cơ cấu và tính bền vững của nguồn vốn ODA. Công tác kế hoạch ODA phải chủ động, tranh thủ nguồn ODA từ các nhà tài trợ nhưng phải đảm bảo trình tự cho quốc gia. Công tác điều phối nguồn vốn ODa phải gắn với quy hoạch, kế hoạch sử dụng nguồn vốn ODA nhằm thực hiện đúng mục tiêu phát triển và công bằng xã hội. Để tăng cường chất lượng đầu vào của c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100121.doc