Đề tài Tình hình xuất khẩu tại công ty cổ phần phát triển sản xuất thương mại Sài Gòn

Hiệu quả xã hội của hoạt động kinh doanh XK của công ty được phản ánh qua mức đóng góp cho ngân sách Nhà nước, tạo công ăn việc làm cho xã hội

Các khoản đóng góp của doanh nghiệp cho ngân sách Nhà nước gồm: thuế, tiền thuê đất, thuê tài sản cố định, bảo hiểm Và hoạt động XK của công ty hàng năm đã đóng góp cho ngân sách Nhà nước một số tiền không nhỏ, cụ thể trong năm 2008 là xấp xỉ 500 triệu đồng.

Ngoài ra, hoạt động kinh doanh XK của công ty còn thu hút một số lượng lao động mới, góp phần tạo công ăn việc làm cho xã hội, từ đó phát triển kinh tế địa phương và các ngành khác.

 

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2060 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình xuất khẩu tại công ty cổ phần phát triển sản xuất thương mại Sài Gòn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SADACO 2006-2008. Ta thấy cơ cấu thị trường XK sản phẩm gỗ của SADACO có nhiều thay đổi qua các năm. Châu Á đang là thị trường NK chính những sản phẩm của công ty, kim ngạch XK vào khu vực này tăng trưởng đáng kể qua từng năm. Trong khi đó các thị trường Châu Âu, Châu Úc thì liên tục có sự sụt giảm, Châu Âu có tăng nhưng không nhiều. Nguyên nhân của sự chuyển dịch này là do Châu Á là một thị trường rộng lớn với nhu cầu tiêu dùng đa dạng và tương đối dễ tính hơn so với các thị trường còn lại. Hơn nữa, người tiêu dùng Châu Á vẫn có những nét sinh hoạt tương đồng, chuộng những sản phẩm mang tính truyền thống hơn. Bảng 2.3: Cơ cấu thị trường XK theo các quốc gia 2006-2008. Đơn vị: USD, % Thị Trường Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Giá Trị Tỷ Trọng Giá Trị Tỷ Trọng Giá Trị Tỷ Trọng Malaysia 26.790 0,69 343.939 9,15 372.634 8,19 UAE 24.630 0,63 98.543 2,26 141.642 3,12 Korea 23.450 0,60 14.378 0,38 16.553 0,36 Hongkong 20.630 0,53 125.269 3,33 193.267 4,25 Thailand 7.215 0,19 222.182 5,91 287.369 6,32 Japan 53.400 1,38 18.225 0,49 16.789 0,37 China 715.790 19,22 1.050.497 27,26 1.275.463 28,05 Taiwan 1.015.890 26,18 777.085 20,68 888.095 19,53 Germany 15.415 0,40 17.648 0,47 19.324 0,42 England 23.150 0,60 - - - France 46.974 1,20 - - - Holland 45.415 1,17 120.159 3,20 155.359 3,42 Netherland 720.350 18,56 101.412 2,70 165.326 3,64 USA 125.445 3,23 - - - Australia 415.220 10,70 66.591 1,77 69.375 1,53 Newzealand 600.520 15,48 413.619 11,01 492.691 10,84 Russia - - 10.364 0,28 15.232 0,33 Canada - - 10.445 0,28 19.961 0,44 Ireland - - 97.851 2,60 165.343 3,64 Spain - - 203.874 5,43 123.124 2,70 Denmark - - 34.600 0,92 89.714 1,98 Tổng 3.880.000 100 3.757.000 100 4.524.000 100 “Nguồn: Phòng Kinh Doanh – XNK” Qua bảng số liệu có thể thấy được các nước Châu Á là những nước NK phần lớn sản phẩm của SADACO. Trong đó, thị trường trọng điểm là Trung Quốc, Đài Loan. Những năm gần đây, Trung Quốc trở thành một trong những thị trường XK chính của công ty với gia trị XK tăng dần theo từng năm. Châu Úc là một thị trường có quan hệ làm ăn lâu dài với công ty, đây cũng là một thị trường có rất nhiều tiềm năng vì Australia và Newzealand là 2 quốc gia có nền kinh tế rất ổn định. Tuy nhiên, giá trị XK vào thị trường này có dấu hiệu giảm sút qua các năm. Vì vậy trong tương lai công ty nên tập trung vào phục hồi vị thế của mình trên thị trường này dựa vào mối quan hệ lâu năm trước đó sẽ dễ dàng hơn. Những năm gần đây giá trị XK vào thị trường Châu Âu có sự tăng giảm thất thường, tuy có mở rộng được thị trường nhưng giá trị XK vẫn chưa tương xứng. Những thị trường quen thuộc vẫn là Hà Lan, Đức,… và hiện nay công ty cũng đã mở rộng được sang các thị trường mới như Tây Ban Nha, Đan Mạch, dù giá trị XK chưa cao. Bên cạnh đó, Hoa Kỳ mặc dù là một thị trường đầy tiềm năng nhưng đến 2007 và sang 2008 giá trị XK giảm mạnh đến gần như là mất trắng. Chắc chắn trong tương lai công ty cần xúc tiến tìm ra các giải pháp thiết thực nhất để khôi phục lại thị trường này. Nhìn chung, mặc dù tổng giá trị XK có sự gia tăng đáng kể, nhưng điều đáng quan tâm ở đây đó là sự sụt giảm của các thị trường đầy tiềm năng như Hoa Kỳ, Châu Âu, Châu Úc, mà nguyên nhân chủ yếu là do sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của các doanh nghiệp cùng ngành cả trong lẫn ngoài nước. Hơn nữa, đây là những thị trường tương đối khó tính nên đòi hỏi chất lượng sản phẩm phải không ngừng được nâng cao. Ngoài ra, ảnh hưởng suy thoái kinh tế từ Mỹ lan ra toàn cầu cũng tác động không nhỏ đến việc tiêu thụ sản phẩm ở các thị trường này. Vì vậy, vấn đề quan trọng trước mắt là cần tìm ra các giải pháp xúc tiến đẩy mạnh hoạt động XK để gia tăng giá trị XK cho công ty. Bên cạnh đó, từ năm 2007 công ty đã thâm nhập được thêm một số thị trường mới. Chính vì đây là các thị trường mới và mối quan hệ làm ăn với các đối tác mới, do đó chúng ta chưa hiểu nhiều về tập quán kinh doanh của họ nên rất cần phải tìm hiểu kỹ thêm về uy tín của họ, từ đó mới có các quyết định đúng đắn, đặt mối quan hệ lâu dài. Cơ cấu XK theo nhóm ngành hàng 2006-2008. Bảng 2.4: Cơ cấu mặt hàng XK. Đơn vị: 1000USD, % Mặt Hàng Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Giá Trị Tỷ Trọng Giá Trị Tỷ Trọng Giá Trị Tỷ Trọng Nông Sản - - 423 11,25 552 12,59 Hàng Công Nghiệp 80 2,00 82 2,18 88 2,00 Lâm Sản 3.800 98,00 3.235 86,10 3.725 84,97 Hàng Khác - - 17 0,47 19 0,44 Tổng 3.880 100 3.757 100 4.384 100 “Nguồn: Phòng Kinh Doanh – XNK” Chất lượng và giá sản phẩm XK. Mặt hàng XK chủ lực của công ty vẫn là mặt hàng lâm sản, chiếm khoảng 86% trong kim ngạch XK của công ty. Hiện công ty có 3 mặt hàng gỗ XK là: + Sản phẩm gỗ tinh chế. + Sản phẩm mỹ nghệ. + Ván tinh chế. Trong đó, sản phẩm gỗ tinh chế được thị trường nước ngoài ưa chuộng nhất. Tuy nhiên, một vấn đề hiện nay đó là 3 mặt hàng trên đang phải gặp sự cạnh tranh gay gắt khi xuất vào các thị trường như Mỹ, Đài Loan,… Sản phẩm gỗ tinh chế là hàng mộc cao cấp, được gia công chế biến tinh vi, có điêu khắc, chạm trổ, trang trí bề mặt, sơn mài,… đa dạng về mẫu mã và chủng loại; sản phẩm chất lượng cao, kiểu dáng đẹp, trang nhã, toát lên được giá trị của sản phẩm, và xuất chủ yếu vào các thị trường như Bắc Mỹ, Châu Âu, Nhật,…Riêng sản phẩm mỹ nghệ được sản xuất thủ công, bằng máy, hoặc kết hợp thủ công và máy. Sản phẩm thường gồm các mặt hàng có kiểu dáng thuyền buồm, gốc rễ cây tạo dáng mỹ thuật… Những sản phẩm này thường đắt tiền do đòi hỏi sức lao động cao và thường xuất cho các thị trường cao cấp. Tất cả sản phẩm làm ra đều đảm bảo yêu cầu chất lượng, được kiểm tra đồng bộ chặt chẽ và luôn có mẫu cho khách hàng kiểm tra. Ngoài những sản phẩm trên thì đũa tre và các sản phẩm bằng tre cũng là một thế mạnh của công ty. Năm 2008, chỉ riêng đũa tre giá trị XK đạt gần 390.000 USD và hiện công ty đang chiếm 20% thị phần đũa tre ở Đài Loan. Hiện nay công ty đang tập trung vào mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm hơn nữa, cải tiến mẫu mã để đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng. * Đặc điểm hàng XK của công ty: là những mặt hàng lâm sản, nông sản được gia công chế biến công phu, tinh vi từ nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước (tuy cũng có NK một số từ nước ngoài). Tận dụng nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ, cần cù, chịu khó, trong nhiều năm qua lượng hàng xuất của SADACO liên tục tăng trưởng ổn định, mang về một lượng ngoại tệ không nhỏ cho công ty. * Giá cả sản phẩm XK: SADACO nhận thấy rằng việc định giá cần phải mang tính chất hướng ngoại ra thị trường bên ngoài, giá đó phải là giá chịu sự chi phối của chi phí sản xuất, điều kiện thị trường, tình hình cạnh tranh, …Tù trước đến nay, công ty vẫn thường xuất theo giá FOB. Việc xuất bán theo điều kiện này làm cho công ty mất quyền kiểm soát sản phẩm sau khi giao hàng lên tàu tại cảng bốc. Đối với những khách hàng giao dịch lần đầu và những khách hàng khó tính, họ sẽ không an tâm về điều kiện giao hàng này. Do đó, công ty đang xem xét chuyển sang xuất hàng theo giá CIF nhằm tạo uy tín nơi khách hàng và khẳng định trách nhiệm của mình đối với lô hàng xuất đi. 5. Phương thức thanh toán, vận chuyển, thông quan. 5.1. Phương thức thanh toán. Hầu hết hoạt động XK của SADACO chủ yếu thanh toán bằng hai phương thức phổ biến là TTR và L/C. v Thanh toán theo phương thức TTR. Đây là hình thức chủ yếu mà SADACO sử dụng và thường là trả 100% giá trị hóa đơn. Tuy thanh toán theo phương thức TTR đơn giản nhưng quyền lợi của người bán không được đảm bảo vì việc chuyển tiền phụ thuộc vào người mua. Do đó, công ty chỉ thực hiện theo phương thức này khi người mua là đối tác lâu năm. Do SADACO đã hoạt động trong thời gian dài nên có uy tín và tạo được sự tin cây của đối tác. Vì vậy việc thanh toán theo phương thức TTR vừa chứng tỏ sự tin tưởng của SADACO vào đối tác, vừa tạo được niềm tin và uy tín của khách hàng. Tuy nhiên, Rủi ro của phương thức thanh toán này là người mua có khả năng không trả tiền mà vẫn nhận được hàng của công ty giao. Như vậy, việc thanh toán hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn của người mua, nếu có rủi ro gì xảy ra công ty có kiện được cũng rất khó khăn. v Thanh toán theo phương thức L/C (Letter of Credit). Thanh toán bằng L/C chỉ chiếm khoảng 30% hoạt động thanh toán của công ty. Ưu điểm của phương thức này là tương đối an toàn, ít xảy ra rủi ro, đảm bảo công ty nhận được tiền từ phía ngân hàng. Tuy nhiên thanh toán bằng L/C đôi khi cũng bất lợi nếu trường hợp công ty sai sót khi lập bộ chứng từ thanh toán, hoặc khi người mua cố tình lừa đảo, ràng buộc các điều kiện về chứng từ không thể thực hiện được trên L/C mà cả phía ngân hàng và công ty đều không phát hiện được cho đến khi hàng đã giao nhưng bộ chứng từ bị từ chối. Ngoài ra, nhược điểm của phương thức thanh toán này còn ở chỗ thủ tục phức tạp, phí cao, có nhiều sửa đổi, khó khăn để kiểm tra. 5.2. Phương thức vận chuyển. Thông thường SADACO ký hợp đồng xuất hàng theo điều kiện FOB và CFR (Incoterms 2000). + Đối với hợp đồng xuất hàng theo điều kiện FOB quy định giao hàng tại nước người XK (SADACO) thì người NK phải thuê phương tiện và trả cước phí vận chuyển hàng về nước. Thông thường người NK sẽ ủy thác việc thuê tàu, lưu cước cho một công ty hàng hải như: Công ty thuê tàu và môi giới hàng hải (Vietfracht), Công ty đại lý tàu biển (VOSA),… + Đối với hợp đồng xuất hàng theo điều kiện CFR quy định người XK (SADACO) thuê phương tiện để chuyên chở hàng đến địa điểm đích thì công ty phải thực hiện nghĩa vụ thuê phương tiện vận chuyển. à Bất lợi của 2 phương thức này là việc mua bảo hiểm cho hàng hóa không nằm trong phạm vi trách nhiệm của công ty. Hiện công ty đã thực hiện xuất một số đơn đặt hàng theo điều kiện CIF, tỏ ra khá thuận lợi và hiệu quả. Do đó, trong tương lai công ty có xu hướng sẽ chuyển sang sử dụng phương thức này. 5.3. Hoạt động thông quan. Các doanh nghiệp khi XNK hàng hóa cần phải tiến hành làm thủ tục hải quan cho hàng hóa cần XNK. Đây là một khâu khá phức tạp, đòi hỏi doanh nghiệp phải tuân thủ theo các thủ tục, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc khai đúng về hàng hóa trong các chứng từ. SADACO cũng vậy. Việc thông quan hàng xuất tại SADACO được thực hiện tại cảng biển (Cát Lái). Công ty có nhân viên phụ trách hoạt động này, tuy nhiên để đảm bảo an toàn và tiết kiệm thời gian, công ty thường thuê môi giới hải quan thực hiện. Hiện tại, công ty rất ít sử dụng thông quan điện tử, chủ yếu vẫn là thông quan thường. 6. Các hoạt động hỗ trợ XK khác. Các hoạt động marketing được đề ra dựa theo tình hình thực tế tại công ty và các chiến lược phát triển trong tương lai. Hiện nay công ty đã đưa ra các biện pháp nhằm đẩy nhanh tốc độ thâm nhập thị trường như: + Tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế. à Thông qua đó công ty tự giới thiệu mình với các khách hàng và tìm đối tác kinh doanh. Về hoạt động này, công ty nhờ vào uy tín của mình tranh thủ sự giúp đỡ của Hiệp Hội Gỗ và Lâm Sản Việt Nam, Phòng Công Nghiệp Việt Nam, Trung Tâm Xúc Tiến Thương Mại Xuất Khẩu Thành Phố Hồ Chí Minh để nắm bắt thông tin và tham gia vào các hội chợ chuyên ngành. + Quảng cáo trên các tạp chí nước ngoài hoặc các tạp chí tiếng nước ngoài tại Việt Nam như: Asia Weekly, the Economists, … Hiện nay hàng năm công ty trích từ 2- 3% doanh thu cho việc quảng cáo trên các báo Vietnam News, Saigon Times & Daily, Economics… + Quảng cáo trên các sách phát hành ở nước ngoài có số lượng độc giả lớn và có uy tín như: Information Data Company, Vietnam Business Directory, danh bạ các doanh nghiệp,… Các sách này giúp người đọc tra cứu rất nhanh chóng nên các doanh nghiệp rất thuận tiện khi dùng. + Một kênh quảng cáo rất uy tín và hiệu quả cao mà chi phí tương đối rẻ là Phòng Thương Mại. à Công ty đã đăng ký tên tại Phòng Thương Mại để các doanh nghiệp dễ dàng tra cứu và tìm hiểu thông tin cần thiết. II. Đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh XK tại SADACO. Hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh XK của công ty được phản ánh qua các chỉ tiêu: lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận /chi phí, vốn… Bảng 2.5:Kết quả hoạt động kinh doanh XK 2006-2008. Đơn vị: USD Chỉ Tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 1.Doanh thu 1.588.361,66 2.845.603,49 4.178.998,35 2. Chi phí 1.547.651,951 2.761.601,275 4.039.419,8 + Chi phí sản xuất 1.537.534,087 2.742.877,204 4.011.838,42 + Chi phí bán hàng 4.828,6195 8.821,3708 13.372,79 + Chi phí quản lý 5.289,2444 9.902,7002 14.208,59 3. Lợi nhuận 40.709,709 84.002,215 139.578,55 4. Tỷ suất lợi nhuận/chi phí (%) 2,63 3,04 3,46 “Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo tài chính của công ty 2006-2008” + Lợi nhuận từ hoạt động XK của SADACO tăng liên tục qua từng năm và có xu hướng ngày càng tăng nhanh. Đây là một dấu hiệu khá lạc quan cho tình hình XK của công ty theo định hướng mà công ty đã đề ra. Nhìn vào con số tỷ suất lợi nhuận /chi phí qua từng năm, ta thấy được hoạt động kinh doanh XK của công ty có xu hướng tăng trưởng rõ rệt. Tuy nhiên, mức tăng trưởng năm 2008 so với năm 2007 lại thấp hơn mức tăng trưởng năm 2007 so với 2006. Nguyên nhân là do sự biến động về tình hình giá cả nguyên vật liệu, giá thuê nhân công tăng (do vật giá leo thang) góp phần làm cho chi phí gia tăng nên ảnh hưởng tới lợi nhuận thu được. Trong điều kiện như vậy, muốn tăng lợi nhuận buộc công ty phải áp dụng máy móc thiết bị hiện đại cùng với việc tăng giá trị các đơn đặt hàng. 2. Hiệu quả xã hội. Hiệu quả xã hội của hoạt động kinh doanh XK của công ty được phản ánh qua mức đóng góp cho ngân sách Nhà nước, tạo công ăn việc làm cho xã hội… Các khoản đóng góp của doanh nghiệp cho ngân sách Nhà nước gồm: thuế, tiền thuê đất, thuê tài sản cố định, bảo hiểm…Và hoạt động XK của công ty hàng năm đã đóng góp cho ngân sách Nhà nước một số tiền không nhỏ, cụ thể trong năm 2008 là xấp xỉ 500 triệu đồng. Ngoài ra, hoạt động kinh doanh XK của công ty còn thu hút một số lượng lao động mới, góp phần tạo công ăn việc làm cho xã hội, từ đó phát triển kinh tế địa phương và các ngành khác. Chế độ lương bổng cho nhân viên của công ty cũng ngày càng tăng lên, góp phần cải thiện và nâng cao mức sống cho toàn xã hội. III. Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu trong hoạt động XK tại SADACO. 1. Điểm mạnh. Công ty SADACO đã thành lập được 21 năm (1987 – 2008) và được cấp giấy phép XNK từ năm 1993. SADACO đã tạo được uy tín của mình trong ngành gỗ và trên thị trường qua việc luôn tuân thủ đúng hợp đồng để giữ chữ tín với khách hàng. Hiện nay, đội ngũ nhân viên trong công ty đều ý thức làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, ham học hỏi và cầu tiến. Công nhân sản xuất tay nghề cao và quen việc do gắn bó với công ty lâu năm. Nói riêng ở bộ phận kinh doanh XNK các nhân viên càng ngày càng nâng cao kinh nghiệm trong công tác XNK và làm việc rất hiệu quả. Hơn nữa, một thế mạnh của công ty là Ban lãnh đạo đều là những người có kinh nghiệm trong ngành gỗ trên 20 năm và rất tâm huyết với sự phát triển của công ty. Một lợi thế cạnh tranh của công ty đó là giá cả. Công ty kết hợp nguồn nguyên liệu và nhân công giá rẻ ở địa phương để sản xuất hàng. Vì vậy, so với nhiều công ty trong và ngoài nước, sản phẩm của công ty có giá cả rất cạnh tranh. Phần lớn nguyên vật liệu dành cho sản xuất là từ nguồn NK (chiếm khoảng 80%) từ các nước Campuchia, Đức, Hà Lan,… công ty được phép NK trực tiếp nên có thể chủ động. Bên cạnh đó, công ty luôn được nhà nước ưu tiên khai thác gỗ trong nước. Vì vậy nguồn nguyên liệu cũng khá ổn định, đảm bảo cho việc thực hiện lập kế hoạch sản xuất và thực hiện hợp đồng đã ký. Công ty có nhiều mặt hàng sản phẩm đa dạng như đũa tre, bàn, ghế, tủ, giá đựng sách, giường, quan tài,… và hầu như cũng đã có mặt ở khắp nơi trên thế giới. Hiện nay, đa số các mẫu là do khách hàng yêu cầu hoặc đưa thiết kế mẫu yêu cầu công ty sản xuất theo các mẫu đó nên công ty ngày càng có nhiều mẫu sản phẩm hơn. Nhìn chung, công tác tổ chức XK tại SADACO diễn ra khá trôi chảy, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các khâu, đảm bảo hàng hóa được giao đúng chất lượng, mẫu mã, giá cả, số lượng cho khách hàng. 2. Điểm yếu. Công tác xây dựng thương hiệu chưa được quan tâm, nên dù đã có mặt trên thị trường hơn 20 năm nhưng SADACO vẫn chưa là một thương hiệu mạnh trong ngành gỗ. Tình hình tài chính của công ty còn kém. Vốn vay chủ yếu là ngắn hạn nên phải chịu mức lãi suất cao, quay vòng vốn chậm, dẫn đến khó đáp ứng số lượng của những đơn đặt hàng lớn như EU, Hoa Kỳ, Australia… Một trong những điểm yếu của ngành gỗ Việt Nam là nguồn nguyên vật liệu phần lớn NK nên phụ thuộc rất lớn vào nước ngoài. Riêng SADACO, khối lượng nguyên vật liệu NK chiếm 80% nguồn nguyên liệu để sản xuất nên đôi khi giá cả không ổn định, ảnh hưởng đến chính sách giá của công ty, và nhiều khi lợi nhuận thu về bị giảm đáng kể. Công ty hiện tại sản xuất nhiều mặt hàng sản phẩm đa dạng nhưng vẫn chưa chú trọng thiết kế những sản phẩm độc đáo riêng biệt so với các sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh. Đây cũng là một trong những lý do khiến giá trị sản phẩm của công ty chưa đạt được mức tương xứng khi mức độ nhận biết thương hiệu sản phẩm của người tiêu dùng cao hơn. Tập quán kinh doanh và tiêu dùng ở mỗi nước, mỗi vùng rất đa dạng, nhất là thị trường nước ngoài mình chưa hiểu nhiều, nhưng hiện tại công tác nghiên cứu thị trường của công ty chưa được quan tâm đúng mức để có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy mà kết quả kinh doanh của công ty ở các thị trường (nhất là các thị trường cao cấp) còn nhiều hạn chế. Hiện tại, trong cơ cấu các phòng ban chưa có bộ phận marketing riêng biệt. Công ty chưa xây dựng hệ thống kênh phân phối chuyên biệt, và thường xuất hàng qua trung gian nên gia tăng các chi phí cho trung gian phân phối, làm giảm trừ lợi nhuận thu được. Những vướng mắc còn tồn tại của SADACO trong công tác tổ chức XK đó là công ty chủ yếu mua theo giá CIF và bán theo giá FOB, điều đó làm cho công ty giảm đi một phần lợi nhuận mà có thể công ty sẽ nhận được, mất đi sự chủ động trong việc thuê tàu cũng như mua bảo hiểm, không tạo điều kiện cho hãng tàu trong nước phát triển. Hiện nay, công ty thanh toán chủ yếu bằng phương thức TTR, một phương thức có khá nhiều rủi ro và không có lợi cho người bán. Do việc trả tiền hoàn toàn phụ thuộc vào người mua, không đảm bảo quyền lợi cho công ty. Một trong những vấn đề còn hạn chế của công ty trong công tác tổ chức XK là hiện tại, công ty đang thiếu đội ngũ nhân viên vừa thành thạo nghiệp vụ vừa giỏi ngoại ngữ nên dễ dẫn đến những phát sinh trong quá trình làm việc với các đối tác nước ngoài. Công ty lại biết quá ít thông tin về các thị trường nước ngoài một cách có hệ thống nên chưa nhạy bén trong việc đưa ra các sản phẩm mới nhằm đa dạng hóa sản phẩm. Cơ sở vật chất của công ty còn yếu, văn phòng chính đã cũ kỹ, hệ thống máy tính trang bị đã lâu nên xuống cấp cũng làm hạn chế hiệu quả làm việc của nhân viên. Nhiều máy móc phục vụ sản xuất đã lạc hậu cần được thay thế nhưng do điều kiện tài chính chưa cho phép công ty thay thế đồng loạt mà phải thay thế từ từ nên cũng làm giảm hiệu quả sản xuất. Một vấn đề thiết yếu hiện nay công ty cần xây dựng một show- room trưng bày sản phẩm để giới thiệu hàng hóa đến khách hàng, thay vì cứ để hàng trong kho như hiện nay. v Mặc dù chịu ảnh hưởng chung của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng nhìn chung, tình hình XK tại SADACO trong những năm qua phát triển tương đối ổn định, thể hiện qua việc kim ngạch XK của công ty qua từng năm đều có sự gia tăng đáng kể. Hiện công ty đang trong giai đoạn nỗ lực khắc phục những yếu kém còn tồn đọng, song song đó là nhiệm vụ củng cố, mở rộng thị trường XK, mục tiêu tăng kim ngạch XK trong những năm tới và tiến tới phát triển bền vững. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ XK SP GỖ CỦA SADACO. I. Triển vọng và mục tiêu phát triển XK của SADACO trong những năm tới. 1. Triển vọng. Từ năm 2000 đến nay, các doanh nghiệp chế biến gỗ tăng nhanh về số lượng và quy mô đầu tư, trong đó tập trung ở miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, đưa năng lực chế biến và XK gỗ trong nước tăng từ 40-50% mỗi năm. Đặc biệt, TP.HCM và các tỉnh lân cận như: Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh…là khu vực có tiềm năng lớn nhất nước về ngành XK sản phẩm gỗ chế biến. Nơi đây quy tụ hơn 300 doanh nghiệp có quy mô khá và khả năng chế biến chiếm trên 70% năng lực chế biến gỗ của cả nước. Phân tích về tiềm năng sản xuất sản phẩm gỗ của Việt Nam cho thấy năng lực cung ứng đồ gỗ của nước ta đang được tăng cường đáng kể và có thể đáp ứng được yêu cầu về sản phẩm gỗ - nội thất trên thế giới. Hơn nữa, với mức tiêu thụ đồ gỗ trên thế giới trong những năm gần đây liên tục tăng, triển vọng cho ngành chế biến gỗ của nước ta đang ngày một khởi sắc. Hòa cùng xu thế đó, triển vọng phát triển XK sản phẩm gỗ của SADACO cũng có những tín hiệu đáng lạc quan. Với bề dày lịch sử phát triển cộng với kinh nghiệm, cũng như uy tín mà công ty đã gây dựng được trên thị trường XK đồ gỗ những năm qua, sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc XK của công ty trong tương lai. Dự báo kim ngạch XK vào các thị trường Châu Á, Châu Âu sẽ tăng mạnh trong những năm tới, các thị trường tiềm năng khác như: Châu Phi, Châu Mỹ, Úc cũng sẽ có sự gia tăng đáng kể. Ngoài ra, sự thông thoáng trong các chính sách hỗ trợ XK của Nhà nước, các thủ tục hành chính hải quan ngày càng được đơn giản hóa,…sẽ thúc đẩy hoạt động XK của doanh nghiệp nói chung, của SADACO nói riêng. Với phương châm: Đảm bảo thời gian – Đảm bảo chất lượng – Đảm bảo cạnh tranh cùng với chiến lược hợp lý, phù hợp với thực tiễn, triển vọng XK của SADACO trong thời gian tới được đánh giá là vô cùng khả quan. Tuy nhiên, với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường và những tồn tại trước mắt như nguồn nguyên liệu NK, công nghệ, trình độ lao động, …công ty cũng cần định hướng cho mình bước phát triển đúng đắn để tận dụng cơ hội đến mức tối đa và hạn chế nguy cơ đến mức tối thiểu. 2. Mục tiêu. + Phát triển ổn định các thị trường để thương hiệu SADACO luôn trở thành một thương hiệu có uy tín trong nước và trên thế giới. + Đẩy mạnh hoạt động chế biến lâm sản theo hai hướng: - Phát triển cơ sở sản xuất. - Nâng cao chất lượng sản phẩm. + Tăng cường quản lý và đẩy mạnh việc phân công hợp lý giữa các xưởng sản xuất nhằm phát huy công suất tối đa, tiết kiệm nguyên liệu, đảm bảo đúng tiến độ giao hàng. + Về thương mại, du lịch, XNK: đa dạng hóa nghiệp vụ XNK như khai thuê hải quan, nhận ủy thác XNK. + Về phát triển du lịch: tổ chức lực lượng hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp, đa dạng hóa các hoạt động du lịch. + Triển khai Trung tâm hội chợ triển lãm Tây Nguyên, phối hợp với các đơn vị trong và ngoài nước tổ chức các đợt triển lãm trong và ngoài nước. II. Những cơ hội và thách thức đối với hoạt động XK của SADACO. 1. Cơ hội. Một thuận lợi lớn cho ngành XK gỗ là sự thông thoáng trong các chính sách của Nhà nước về hoạt động XK, cũng như sự quan tâm tạo điều kiện của các ngành chức năng. Để góp phần đẩy mạnh XK sản phẩm gỗ, Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị từ tháng 06/2004, Bộ Thương Mại phối hợp với Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, Hiệp Hội Gỗ và Lâm Sản Việt Nam cung cấp thông tin về nhu cầu XK và quy định hiện hành NK sản phẩm gỗ…, hướng dẫn và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ đồ gỗ quốc tế, xúc tiến thỏa thuận cấp Chính phủ với các nước về việc NK gỗ nguyên liệu theo hình thức đổi hàng,… Việt Nam là quốc gia có điều kiện chính trị - xã hội ổn định, góp phần không nhỏ cho sự phát triển của ngành chế biến gỗ nói riêng và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung. Thị trường đồ gỗ rất được ưa chuộng và đang ngày càng được mở rộng. Trong tương lai, sức mua sản phẩm này sẽ tăng mạnh. Thêm nữa, hiện tại Việt Nam là thành viên của các tổ chức quốc tế có uy tín như WTO, ASEAN, APEC,… và Hoa Kỳ cũng đã ký Hiệp định PNTR với Việt Nam. Điều này giúp hàng hóa Việt Nam bình đẳng hơn trên thế giới vì được hưởng nhiều ưu đãi. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam và SADACO đẩy mạnh XK. Ngành gỗ hiện nay là một trong những ngành dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng, đứng thứ 6 về kim ngạch XK trong 23 ngành hàng chủ yếu nên các doanh nghiệp XK trong lĩnh vực này sẽ thuận lợi hơn khi mức thuế suất được quy định hợp lý. Ngành gỗ của Việt Nam là một ngành truyền thống có tiếng trên thế giới, do đó các sản phẩm nội ngoại thất và các sản phẩm trang trí được người tiêu dùng ưa chuộng bởi những họa tiết chạm trổ, tạo hình độc đáo. 2. Thách thức. Trước hết, việc Việt Nam là thành viên của WTO là một cơ hội đồng thời cũng là một thách thức lớn với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh đồ gỗ và lâm sản cũng như các doanh nghiệp khác, trong đó SADACO chưa có sự chuẩn bị đầy đủ cho quá trình hội nhập kinh tế, chưa đưa ra được các chiến lược thích ứng kịp thời. Hơn nữa, xu thế hội nhập với nhiều thay đổi trong các chính sách kinh tế của nhà nước cũng là một thách thức không nhỏ đối với hoạt động XK của công ty, đòi hỏi công ty phải thường xuyên cập nhật để nâng cao hiệu quả hoạt động XK của mình. Nhiều doanh nghiệp cùng ngành khác hiện đan

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTình hình xuất khẩu tại công ty cổ phần phát triển sản xuất thương mại Sài Gòn.doc
Tài liệu liên quan