Đề tài Trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với người có hành vi bạo lực gia đình và các biện pháp pháp lý ngăn chặn bạo lực gia đình

Luật HN & GĐ 2000 đã quy định đầy đủ quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng, buộc vợ chồng phải thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ đó. Tuy vậy, trong thực tế đã co rất nhiều sai phạm xảy ra giữa vợ và chồng, thể hiện ở việc hiện nay giữa vợ và chồng. Các hành vi bạo lực giữa vợ và chồng rất đa dạng: có thể là bạo lực về thể chất như đánh đập , hành hạ; có thể là bạo lực về tinh thần như chửi bới, hăm dọa, ép buộc. cô lập; có thể bạo lữc về tình dục như cưỡng ép quan hệ tình dục khi một bên không muốn, bắt quan hệ tình dục quá sức; cũng có thể là các hành vi bạo lực khác liên quan đến vấn đề tái sản, con cái như: cưỡng đoạt tài sản, ép buộc mang thai, ép buộc sinh con Tất cả những hành vi này đều có thể dẫn đến hậu quả là làm tổn hại đến tinh thần, sức khỏe của vợ, chồng và nó đã vi phạm các nguyên tắc cơ bản của hôn nhân gia đình Việt Nam.

doc41 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2032 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với người có hành vi bạo lực gia đình và các biện pháp pháp lý ngăn chặn bạo lực gia đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chống bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích của các thành viên tronggia đình mà pháp luật đã quy định. Hành vi bạo lực gây cho các thành vien gia đình sự tổn thương, lo lắng, nó ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ, tình cảm của các thành viên, làm giảm sút năng lực phát triển của họ. Vì thế, phòng chống bạo lực gia đình là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất để bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên trong gia đình. Ngược lại những nguyên tắc bảo vệ quyền của các thành viên trong gia đình mà pháp luật đã quy định sẽ là cơ sở pháp lý để thực hiện công tác đấu tranh phòng chống bạo lực gia đình. Chương 2. Bạo lực gia đình, hành vi vi phạm quyền và nghĩa vụ của các thành viên gia đình. 2.1. Quyền và nghĩa vụ của các thành viên gia đình theo luật HN & GĐ 2000. Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Vì thế gia đình có một vị thế và vai trò rất lớn, gia đình vừa vừa là cơ sở, vừa là nền tảng cho sự phát triển của xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay đã luôn dành cho gia đình một sự quan tâm đặc biệt và đã có rất nhiều quy định thích hợp để điều chỉnh vấn đề này. Ngay trong bản hiến pháp 1992 đã quy định “Gia đình là tế bào của xã hội, Nhà nước bảo hộ HN & GĐ. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện tiến bộ, một vợ - một chồng, vợ chồng bình đẳng, cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái thành công dân tốt, con cái có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nước không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữ các con” - Điều 64 Hiến pháp 1992. Luật HN & GĐ 2000 đã quy định một chương riêng từ Điều 47 đến điều 60 về quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình, trong đó Điều 49 đã quy định một cách chung nhất về mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Đó là: 1. Các thành viên cùng sống chung trong gia đình đều có nghĩa vụ quan tâm, giúp đỡ nhau, cùng nhau chăm lo đời sống chung của gia đình, đóng góp công sức. tiền và tài sản khác để duy trì đời sống chung phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của mình. Các thành viên trong gia đình có quyền được hưởng sự chăm sóc, giúp đỡ nhau, quyền và lợi ích hợp pháp của cá thành viên khác trong gia đình được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 2. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để các thế hệ trong gia đình chăm sóc, giúp đỡ nhau, nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. 2.1.1 Quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng Hôn nhân là một trong những yếu tố quan trọng xác lập nên quan hệ gia đình. Khi nam nữ kết hôn trở thành vợ - chồng họ sẽ được xác lập những quyền đồng thời gánh vác các nghĩa vụ giữa họ với các thành viên khác trong gia đình, giữa họ với nhau. Vợ chồng có trách nhiệm cùng nhau chung sức để vun đắp cho tổ ấm gia đình mà họ đã gây dựng. Luật HN&GĐ 2000 đã quy định “Vợ chồng chung thủy, yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững”( Điều 18). “Vợ, chồng tôn trọng và giữ gìn danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau;cấm vợ, chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau.” ( Điều 21). Mục đích của hôn nhân luôn là xây dựng một gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và bền vững. Muốn được như vây thì điều cơ bản là vợ chồng trong quan hệ hôn nhân phải biết thương yêu, chung thủy với nhau, biết dành cho nhau sự quý trọng, gĩư gìn nhân phẩm, uy tín cho nhau. Điều đó được thể hiện qua những hành vi, cách xử sự giữa vợ chồng với nhau trong cuộc sống thường ngày, bên cạnh đó vợ chồng không được phép thực hiện những hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau. Vợ, chồng trong cuộc sống gia đình phải đối xử với nhau bằng tình cảm, họ co trách nhiệm quan tâm, khuyên bảo lẫn nhau nhưng không ai có quyền ép buộc hay có những hành vi khác xâm phạm đến những quyền, lợi ích chính đáng của vợ hoặc chồng. Ngoài ra một quy định rất quan trọng trong quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng đó là vợ chồng “ bình đẳng với nhau, có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình” ( Điều 19). Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân và gia đình Việt Nam trên cơ sở nguyên tắc nam nữ bình đẳng mà Hiến pháp đã quy định. Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng là quyền bình đẳng trên mọi phương diện. Thể hiên trong việc vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận và cùng nhau quyết định các vấn đề chung của gia đình, đó là các vấn đề như: Chăm sóc giáo dục con cái, vấn đề sử dụng định đoạt tài sản chung của vợ chồng, chỉ trong một số những trường hợp nhất định khi vợ hoặc chồng không đủ điều kiện hay có sự ủy quyền giữa vợ, chồng cho nhau thì vợ hoặc chồng mới có quyền đưa ra các quyết định mà không cần sự đồng ý của người còn lại. Ngoài ra vợ chồng cũng cần có sự bàn bạc giúp đỡ tạo điều kiện cho nhau lựa chọn nghề nghiệp, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mỗi người ( Điều 23). Luật HN & GĐ 2000 quy định rõ ràng quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng khi họ xác lập quan hệ hôn nhân vì thế khi nam nữ kết hôn trở thành vợ chồng họ có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các quy định đó. Nếu vi phạm một trong các quyền và nghĩa vụ này, không những vợ , chồng người co hành vi vi phạm phải chịu trach nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình mà cao hơn nữa từ chính những hành vi đó cuộc sống gia đình sẽ mất đi sự êm ấ, hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được và nguy cơ giảm sút sự bền vững của gia đình là điều dễ xảy ra. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con cái. Quan hệ giữa cha mẹ và con cái cũng được Luật HN&GĐ 2000 quy định rất rõ ràng nhằm điều chỉnh quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau, góp phần đảm bảo cuộc sống gia đình yên ấm, bền vững. Về nghĩa vụ và quyền của cha mẹ. Luật HN&GĐ 2000 quy định nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con vẩn được xây dựng dựa trên nguyên tắc cha và mẹ bình đẳng với nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ và quyền đối với con. Điều 34 quy định: Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con, tôn trọng ý kiến của con, chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con, không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Bên cạnh đó, tại khoản 1 Điều 37 quy định “Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập. Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận, làm gương tốt cho con về mọi mặt, phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con”. Quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, thương yêu con của cha mẹ là một trong những quyền và nghĩa vụ cơ bản. Nó được coi là quyền bởi không bất cứ ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào có thể tước bỏ ngăn cản quyền được yêu thương, chăm sóc, dạy dỗ con cái mình của các bậc làm cha làm mẹ, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt khi cha mẹ đã có những hành vi vi phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khỏe của con cái. Đồng thời đây cũng là một nghĩa vụ bởi lẽ không một người cha, người mẹ nào khi đã sinh con ra lại cho phép mình cái quyền được ngược đãi, ruồng rẫy hay chối từ trách nhiệm nuôi dưỡng, yêu thương, giáo dục con cái của mình. Bên cạnh đó pháp luật cũng quy định việc bố mẹ không được ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con, cấm lạm dụng sức lao động của con, xúi giục ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo lý xã hội. Đây là một quy định cần thiết để nhằm bảo vệ cho sự phát triển lành mạnh của trẻ em, hạn chế những trường hợp cha mẹ có những hành vi đối xử tàn tệ, gây tổn hại đến sức khỏe, khiến con luôn bị dày vò về tình cảm,không thể phát triển bình thường về thể chất, Về nghĩa vụ và quyền của con đối với cha mẹ. Điều 35 quy định: “Con có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn với cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình. Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Nghiêm cấm con có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha mẹ”. Quan hệ gia đình luôn được đặt trong một khuôn khổ tôn ti, trật tự nhất định. Khi cha mẹ sinh ra con, cha mẹ có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, yêu thương con, thì ngược lại con cũng phải có bổn phận kính trọng, biết ơn với công lao “mang nặng đẻ đau” của cha mẹ. Khi cha mẹ ốm đau, bệnh tật con có trách nhiệm chăm sóc, đỡ đần cha mẹ. Con cái không được có những hành vi bất kính, như ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha mẹ, làm tổn thương đến công đức hy sinh và tình yêu thương của cha mẹ. Bên cạnh đó, Luật HN&GĐ 2000 lần đầu tiên đã quy định về nghĩa vụ, quyền của bố dượng, mẹ kế, con riêng của vợ hoặc chồng. Điều 38 quy định: Bố dượng, mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng cùng sống với mình giồng như cha mẹ đẻ với con đẻ. Con riêng có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng bố dượng, mẹ kế cùng sống chung với mình như con đẻ với cha mẹ đẻ. Bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc chồng không được ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau. Bố dượng, mẹ kế là những người đã thay thế bố mẹ đẻ chăm sóc, nuôi dưỡng những người con riêng của vợ hoặc chồng nên về nguyên tắc họ có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ như cha, mẹ đẻ đối với con ruột của mình và ngược lại. Quy định này xuất phát từ thực tế hiện nay, trong rất nhiều gia đình Việt Nam có bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc chồng cùng chung sống với nhau trong một gia đình. Do đây là một mối quan hệ mang tính chất nhạy cảm, đòng thời đê dảm bảo truyền thống thuần phong mỹ tục của gia đình Việt Nam là mọi thành viên trong gia đình phải yêu thương giúp đỡ nhau, tránh sự phân biệt đối xử giữa con chung và con riêng, nên Luật HN & GĐ đã quy định quyền và nghĩa vụ giữa bố dượng, mẹ kế và con riêng về cơ bản là giống quyền và nghĩa vụ giữa bố mẹ đẻ và con đẻ. Đây là một quy định rất tích cực, nó vừa góp phần mở rộng cách hiểu về “ Các thành viên gia đình” đồng thời giúp cho những cá nhân sống trong gia đình với tư cách là bố dượng, mẹ kế, con riêng nhận thức được đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình, không thờ ơ với quyền và nghĩa vụ đã được quy định chỉ vì lí do họ không phải là ruột thịt của nhau. Trong gia đình thì mối quan hệ giũa cha mẹ và con là mối quan hệ chặt chẽ và bên vững nhât vi thế Luật HN & GĐ 2000 đã quy định rõ quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con để họ có thể thực hiện tốt quyền và trách nhiêm của mình, tránh thực hiên những hành vi vi phạm đến quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con. Quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên khác trong gia đình. Trong gia đình, ngoài các mối quan hệ như vợ, chồng;cha mẹ ,con, còn có mối quan hệ như ông bà nội, ngoại với cháu; anh, chị, em với nhau và mối quan hệ giữa các thành viên khác, ví dụ như: bố mẹ chồng với con dâu; bố mẹ vợ với con rể; cô, dì, chú, bác với các cháu; anh chị em họ... Về quyền và nghĩa vụ giữa ông bà với cháu. Điều 47 Luật HN&GĐ 2000 quy định: Ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, trông nom, giáo dục cháu sống mẫu mực và nêu gương tốt cho các con cháu. Trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người nuôi dưỡng thì ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu. Cháu có bổn phận kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại. Việc quy định nghĩa vụ và quyền của ông bà đối với cháu là một quy định khá quan trọng, vì thực tế ông bà có một vai trò rất lớn trong việc giáo dục, chăm sóc các cháu, đây không những là quyền mà còn là trách nhiệm đặt ra đối với ông, bà. Trong cuộc sống thường ngày ông, bà phải là tấm gương sáng, mẫu mực để con cháu học tập và noi theo. Khi cháu chưa đủ tuổi hoặc không có khả năng đẻ tự nuôi sống mình thì kế sau cha mẹ, ông bà co nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu. Ông bà nội, ngoại co quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng các cháu. Ngược lại, các cháu cũng có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà, tránh tình trạng các cháu bỏ mặc, không quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng ông bà, đặc biệt khi ông bà già yếu, không nơi nương tựa. Nó phù hợp với truyền thống “kính trên nhường dưới” đã được hình thành từ lâu đời trong gia đình Việt Nam. Về nghĩa vụ và quyền của anh chị em với nhau. Điều 48 quy định: “Anh chị em có bổn phận thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, có nghĩa vụ và quyền đùm bọc, nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con”. Anh chị em có bổn phận thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Điều đó là một quy luật tất yếu của mỗi anh chị em sinh ra trong một gia đình với nhau. Ngoài ra luật còn quy định nghĩa vụ đùm bọc, nuôi dưỡng nhau giữa anh chị em trong gia đình khi cha mẹ không còn hoặc không đủ điều kiện để nuôi dưỡng con. Đây là một trong những quy định thể hiện truyền thống “anh em như thể tay chân”, giúp củng cố truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Về mối quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình, được quy định cụ thể tại Điều 49 Luật HN&GĐ 2000: “Các thành viên cùng sống chung trong gia đình đều có nghĩa vụ quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau, cung nhau chăm lo đời sống chung trong gia đình, đóng góp công sức, tiền và tài sản khác để duy trì đời sống chung phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của mình” Trong gia đình Việt Nam, từ xưa đến nay thường có nhiều thế hệ cùng chung sống với nhau dưới một mái nhà, đó không chỉ những người có quan hệ ruột thịt, nuôi dưỡng hay hôn nhân với nhau mà còn có nhiều thành phần cùng chung sống như con dâu, con rể, con chung, con riêng, con nuôi. Họ được coi là các thành viên gia đình. Vì thế họ có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ với nhau như các thành viên khác. Luật HN & GĐ 2000 đã quy dịnh rõ quyền và nghĩa vụ giữa các thanh viên gia đình. Vì thế các thành viên gia đình đều có trách nhiệm thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Nếu họ thực hiện các hành vi xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, tính mang của các thành viên gia đình là họ đã vi phạm các quy định của Luật HN & GĐ 2000 và sẽ phải gánh vác các trách nhiệm pháp lý tương xứng với hành vi vi phạm của họ. 2.2. Bạo lực gia đình vi phạm quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên gia đình. Như đã phân tích ở trên, bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác trong gia đình (Điều 9 luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007). Hành vi cố ý đó có thể là hành vi bạo lực về thể chất như đánh đập, hành hạ; đó có thể là hành vi bạo lực về tinh thần như chửi bới , hăm dọa, hạn chế về tài chính; đó cũng có thể là hành vi bạo lực về tình dục như cưỡng ép tình dục,tội loạn luân. Tất cả những hành vi này đều là những hành vi trái pháp luật, vi phạm nghiêm trọng đến các nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, nó khiến cho các thành viên gia đình mất đi sự hòa thuận, gia đình mất đi sự êm ấm, hạnh phúc, chức năng của gia đình bị giảm sút, truyền thống cao đẹp của gia đình Việt Nam bị ảnh hưởng. 2.2.1 Bạo lực gia đình vi phạm quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng. Sự kiện kết hôn làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng. Nội dung của quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản. Luật HN & GĐ 2000 khi điều chỉnh các quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng đã dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tiến bộ, phù hợp với mục đích của việc xác lập quan hệ hôn nhân là xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Luật HN & GĐ 2000 đã quy định đầy đủ quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng, buộc vợ chồng phải thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ đó. Tuy vậy, trong thực tế đã co rất nhiều sai phạm xảy ra giữa vợ và chồng, thể hiện ở việc hiện nay giữa vợ và chồng. Các hành vi bạo lực giữa vợ và chồng rất đa dạng: có thể là bạo lực về thể chất như đánh đập , hành hạ; có thể là bạo lực về tinh thần như chửi bới, hăm dọa, ép buộc. cô lập; có thể bạo lữc về tình dục như cưỡng ép quan hệ tình dục khi một bên không muốn, bắt quan hệ tình dục quá sức; cũng có thể là các hành vi bạo lực khác liên quan đến vấn đề tái sản, con cái như: cưỡng đoạt tài sản, ép buộc mang thai, ép buộc sinh con… Tất cả những hành vi này đều có thể dẫn đến hậu quả là làm tổn hại đến tinh thần, sức khỏe của vợ, chồng và nó đã vi phạm các nguyên tắc cơ bản của hôn nhân gia đình Việt Nam. Trường hợp như của chị P ở Thái Bình là một ví dụ : Chị P lấy chồng đã được 18 năm, hai dứa con chị đã lớn, nhưng cả 18 năm chung sống chị đã sống trong sự bạo hành của chồng nhưng chị vẫn cố gắng chịu đựng để nuôi con và cứu vãn hạnh phúc gia đình. Anh T chồng chị tuy có nghề nghiệp nhưng không chịu tu chí làm ăn nuôi vợ con,lo cho gia đình mà ngược lại chỉ biết ăn chơi, cờ bạc, tiêu pha bạt mạng, rồi thường xuyên gây gỗ, đánh đập vợ con tàn nhẫn, chòng chị thường lấy cớ chị ngoại tình để co lí do đánh đập, hành hạ chị nhiều hơn. Có nhiều lần chồng chị đã đánh chị khiến chị phải đi cấp cứu ở bệnh viện với bộ mặt đầy xây xước, biến dạng, nhiều lần chồng mình bị công an bất nhưng chị vẫn không muốn chồng bị đi tù vì sợ mang tiếng và cũng vì tình nghĩa vợ chồng gần 20 năm qua. Gia đình ,đồng nghiệp và những người xung quanh lại thường xuyên khuyên chị cố gắng chịu đựng để các con chị có bố, để gia đình có chỗ dựa. Cứ như thế việc chị bị chồng hành hạ, đánh đập đã kéo dài hơn 10 năm trời và không biết bao giờ có thể chấm dứt ( Dựa theo bài viết “ 10 năm trong nỗi đau câm lặng ”, Báo Lao động số 303 ngày 28 tháng 12 năm 2007 ). Trường hợp của người phụ nữ bị chồng bạo hành trong nhiều năm trời trên đây đã cho thấy một thực tế là nhiều người phụ nữ Việt Nam do tư tưởng cam chịu , nhẫn nhục mà đã vô tình đuua mình trở thành nạn nhân của những hành vi bạo lực vô cớ từ người chồng, họ không có cách gì để phản kháng, để ngăn chặn những hành vi bạo lực, họ cũng không có cách gì dể tự bảo vệ mình. Những người phụ nữ này chỉ biết chịu đựng, họ muốn giữ cho gia đình sự yên ấm nhưng họ không nhận thức được rằng trong sự yên ấm của gia đình cần bao gồm cả hạnh phúc và an toàn cho mỗi cá nhân ở trong đó nữa. Nguyên nhân của bạo lực gia đình có thể xuất phát từ nhiều lí do, đó là tư tưởng trọng nam khinh nữ, luôn co trọng quyền lực của người đàn ông trong gia đình ; có thể là do sự khó khăn về kinh tế ; sự thiếu hiểu biết về pháp luật ; cũng có thể do cờ bạc, rượu chè ; đôi khi bạo lực gia đình xảy ra là do bản tidnh gia trưởng, thô bạo sẵn có của người đàn ông. Dù bạo lực có diễn do bất kì nguyên nhân nào thì đố cũng là hành vi vi phạm pháp luật. Giống nghư vậy, trường họp của người chồng trên đây, chỉ vì những lí do như rượu chè, cờ bạc, nghi ngờ vợ ngoại tình nên đã tự cho mình quyền được đánh đập, hành hạ, ngược đãi vợ. Những hành vi này đều là sự vi phạm ngiêm trọng các quy định của pháp luật, đặc biệt là Luật HN & GĐ 2000. Điều 21 Luật HN & GĐ 2000 đã quy định “ Vợ chồng tôn trọng, giữ gìn danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau ; cấm vợ chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm lẫn nhau”. Vì thế những hành vi mà anh T đã thực hiện với vợ mình la chị P đã thể hiện sự không tôn trọng đối với danh dự, nhân phẩm, hơn nữa anh lại thường xuyên có hành vi ngược đãi, hành hạ vợ, làm cho chị P luôn sống trong tình trạng đau khổ và sợ hãi. Những hành vi này nếu kéo dài hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì phải được xử lý theo quy định tại Điều 151 Bộ luật Hình sự 1999 về tội “ ngược đãi ông bà, cha mẹ. vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình ”. Bạo lực thể xác giữa vợ và chồng không chỉ dừng lại ở đó. Gần đay có rất nhiều trường hợp bạo lực gia đình xảy ra giữa vợ và chồng mà hậu quả là những bi kịch thương tâm khi vợ, chồng một trong hai bên dã bị tước đoạt di tính mạng, ra đi để lại một gia đình tan vỡ, người còn lại phải chịu những hình phạt thích đáng do hành vi của họ gây ra và rồi những đứa con lại bơ vơ trong một cuộc sống đầy rẫy những khó khăn, nghiệt ngã với hành trang đầu đời là những vết thưong lòng do cha mẹ đã gây ra cho chúng. Trường hợp sau đây của một gia đình ở Hà Nội sẽ giúp chúng ta thấy rõ hơn điều này : Theo bản án số 397/HSPT ngày 22 tháng 4 năm 2005 của Tòa án Nhân dân Tối cao – Toà Phúc thẩm tại Hà Nội, đã xét xử Phạm Hồ Văn,sinh 1958 trú tại Kim Mã- Ba Đình- Hà Nội phạm tội giết vợi mình là Nguyễn Thị Duyên sinh năm 1960.Theo bản án sơ thẩm thì Phạm Hồ Văn là một người không có nghề nghiệp, bị nghiện rượu, đã đi cai rượu nhiều lần nhưng không bỏ được mầ còn uống nhiều lần hơn dẫn đến có những biểu hiện rối loạn tâm thần.Vì vậy, mỗi ngày vợ chồng Văn- Duyên hay xảy ra mâu thuẫn, Văn chủ động mượn rượu để tăng thêm tính hung dữ, thường xuyên đánh đập, ngược đãi vợ bằng nhiều thủ đoạn khiến cho chị Duyên nhiều lần phải vào bệnh viện cấp cứu vì bị chồng đánh. Vào năm 2003 nghi ngờ vợ ngoại tình Phạm Hồ Văn đã lấy dao phay chém chết vợ mình. Cũng giống như trường hợp người chồng hành hạ vợ mình trong nhiều năm trời trong bài viết “10 năm trong nỗi đau câm lặng ” đăng trên báo Lao động số 303 ngày 28 tháng 12 năm 2007, trường hợp của Phạm Hồ Văn trong quá trình chung sống với vợ cũng đã thường xuyên có hành vi đi ngược lại với những quy dịnh về quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, đó là những quy định như : Vợ chồng tôn trọng, giữ gìn danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau ; cấm vợ chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm lẫn nhau” ( Điều 21 Luật HN & GĐ ). Tuy nhiên hành vi của Phạm Hồ Văn với vợ có tính chất nguy hiểm và gây ra hậu quả nghiêm trọng hơn, đó chính là cái chết của chị Duyên. Như vậy hành vi vủa Phạm Hồ Văn không chỉ đơn thuần là vi phạm các quy định của Luật HN & GĐ 2000, hành vi mà Phạm Hồ Văn thực hiện còn thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Hình sự, cần được xử lý theo tội danh giết người theo quy định tại điều 93 Bộ luật Hình sự. Bên cạnh sự bạo hành về thể xác, trong cuộc sống gia đình giữa các cạp vợ chồng, cũng xảy ra rất nhiều tình trạng bạo hành về tinh thần , sự kiêm soát chạt chễ về tài chính giữa vợ chồng, buộc vợ chồng phải phụ thuộc vào mình,tình trạng nay nếu kéo dài, lặp di lặp lại cũng sẽ là một trong những nguyên nhân gây ra sự rạn nứt trong gia đình và đây cũng là một dạng bạo lực gia đình. Ví dụ như trường hợp của một người đàn ông ở Hà Nội, là một người khá thành đạt trong sự nghiệp, vợ anh là con gái Hà Nội nên khi lấy anh cha mẹ đã cho rất nhiều của hồi môn. Nhưng anh thường xuyên bị vợ kiểm soát chạt chẽ về tài chính, mỗi sáng vợ anh chỉ đưa cho anh vài đồng tiên lẻ đủ ăn sáng và xăng xe đên cơ quan, lương hàng tháng của anh đều phải giao nộp đủ cho vợ, anh không lúc nào có đủ tiền trong ví để có thể mời bạn bè một bữa, vợ anh lại thường xuyên đay nghiến, miệt thị anh, tự quyền quyết định mọi vấn đề trong gia đình. Mục đích của hôn nhân luôn là xây dựng một gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và bền vững. Muốn được như vậy thì bản thân vợ chồng trong cuộc sống hôn nhân phải biết thương yêu, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau, đây không những là trách nhiệm về mặt đạo đức mà nó còn là trách nhiệm pháp lý dược pháp luật quy định rõ ràng. Điều 40 Bộ luật Dân sự đã quy địnhvề quyền “ bình đẳng vợ chồng”, tương tự như vậy Luật HN & GĐ 2000 cũng đã quy định “vợ chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình”.Như vậy với trường hợp của người phụ nữ trên đây, khi có những hành vi kiểm soát chặt chẽ tài chính của chồng, coi thường vai trò của chồng trong gia đình, tự quyền quyết định các vấn đề trong gia đình mà không hỏi ý kiến của chồng là đã đi ngược lại với nguyên tắc “ vợ chồng bình đẳng ” mà Luật HN & GĐ 2000 và Bộ luật Dân sự 2005 đã quy định. Bên cạnh đó chị thường xuyên có các hành vi đay nghiến, miệt thị chồng là thể hiện sự không yêu thương, quý trọng chồng theo quy định tại Điều 21 Luật HN & GĐ 2000. 2.2.2 Bạo lực gia đình vi phạm quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ, con. Bạo lực gia đình giữa cha mẹ và con thường được thể hiện dưới các hình thức như đánh đập , hành hạ, áp đặt, chửi mắng, phân biệt đối xử. Cha mẹ khi sinh ra con có quyền được yêu thương, chăm sóc (Điều 36 Luật HN & GĐ 2000);Quyền giáo dục, dạy bảo con để con trở thành người tốt trong xă hội (Điều 37 Luat HN & GĐ 2000).Trên cơ sở pháp luật đây không những là quyền mà còn là nghĩa vụ của cha mẹ khi sinh ra con cái. Điều 43 Luật HN & GĐ 2000) đã quy định :“Cha mẹ co nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, chăm sóc ,nuôi dưỡng con cái,bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con,tôn trọng ý kiến của con; cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con,ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con, không đuựơc lạm dụng sức lao động của con,xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật,trái đạo đức xã hội”.Nếu cha mẹ có hành vi bạo lực với con cái dù dưới bất kì hình thức nào cũng được coi là hành vi vi phạm đến quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối vớ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbao luc gia dinh LL va TT.doc
Tài liệu liên quan