Đề tài Vài nét tìm hiểu về phật giáo tại Thái Lan

 

Phần I: Mở đầu 1

Phần II: Nội dung 2

1. Vài nét về đất nước Thái Lan 2

2. Nguồn gốc truyền nhập Phật giáo vào Thái Lan. 3

3. Ảnh hưởng của Phật giáo 5

· Về giáo dục: 5

· Về kinh tế: 5

· Những nghi lễ. 6

4. Phật giáo Thái với công tác từ thiện xã hội. 9

5. Ngôi chùa và đời sống của người dân Thái. 9

6. Một số tổ chức Phật giáo tại Thái Lan. 11

Phần III. Kết luận 12

 

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3405 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vài nét tìm hiểu về phật giáo tại Thái Lan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đại học quốc gia Hà Nội Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Khoa Đông phương ------ báo cáo thực tập Đề tài: vài nét tìm hiểu về Phật giáo tại thái lan Báo cáo thực tập Vài nét tìm hiểu về Phật giáo tại Thái Lan Phần I: Mở đầu Đối với sinh viên, bên cạnh việc học tập và tìm hiểu kiến thức ở trường là cơ bản thì việc học tập từ xã hội và những kiến thức thực tế góp phần tạo cho sinh viên một cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc hơn. Nhận thấy được điều đó là quan trọng nên các trường luôn tạo mọi điều kiện giúp sinh viên có cơ hội tiếp xúc thực tế. Sau chuyến thực tập tại Thái Lan, em cũng đã thu được rất nhiều kiến thức bổ ích mà em nghĩ rằng rất thiết thực cho cuộc sống và công việc của em sau này. Có được kết quả như vậy là nhờ sự tạo điều kiện rất lớn của khoa mà đặc biệt là của thầy cô hướng dẫn đã giúp đỡ, tận tình chỉ bảo chúng em trong suốt quá trình thực tập. Một trong nhưng điều bổ ích mà em thu lượm được đó là những kiến thức về Phật giáo tại Thái Lan. Trước đây, em cũng đã được tìm hiểu về Phật giáo thông qua một số môn học. Việt Nam cũng là một nước có nhiều người dân theo Phật giáo. Tuy nhiên, chỉ khi đến Thái Lan, “đất nước của những chiếc áo cà sa”, em nhận thấy đây là một quốc gia có nền văn hoá đặc sắc thể hiện truyền thống lịch sử lâu dài của đất nước và là nước có nhiều người dân theo Đạo Phật. Người dân Thái sống chan hoà, thân thiện và chuẩn mực. Hệ thống giáo dục ở Thái Lan là nền giáo dục rất khắt khe và có chất lượng tốt. Các trường Đại học của Thái Lan có cơ sở vật chất tốt, các trang thiết bị hiện đại phục vụ tốt cho công tác giảng dạy của giáo viên cũng như học sinh, sinh viên. Tất cả đều mang đậm dấu ấn của Đạo Phật. Và đặc biệt sau khi nghe bài nói chuyện của Ni Cô Wi-Mút-Tị-Ya (PGS.TS Sụ-Pa-Pan Ná Bang Cháng) - Chủ tịch Ban quản trị Trung tâm Lưu giữ Kinh Tam Tạng vào ngày 21/3/2006 tại trường Đại học Chuealongkorn về Phật giáo, ảnh hưởng của Phật giáo và vì sao ngày nay việc nghiên cứu Phật giáo trở nên cần thiết thì tất cả những điều đó đã thôi thúc em muốn tìm hiểu sâu hơn về Phật giáo tại đất nước này. Song trong bước đầu tìm hiểu còn có rất nhiều vấn đề em chưa thể đi sâu được, em rất mong được có sự chỉ bảo của thầy cô để em có thể có được một nhận thức đúng và sâu sắc hơn về vấn đề này. Phần II: Nội dung Vài nét về đất nước Thái Lan Thái Lan (Thailand), tên cũ gọi là Siam (Xiêm-la), một quốc gia nằm trong Đông Nam á, Phía Bắc và Tây giáp với Miến - Điện, Đông Bắc giáp Nam giáp với Mã Lai, và vịnh Siam giáp với Campuchia. Thủ đô Bangkok diện tích: 514.000 Km2, dân số 60 triệu (thống kê năm 1999). Ngôn ngữ chính là Thái ngữ, nhưng tiếng Anh và tiếng Hoa cũng rất thông dụng. Nguyên thủ quốc gia hiện nay là Vu Bhumibol Adulydej. Sau khi nền chuyên chế kết thúc và năm 1932, đất nước Thái Lan đã lật sang một trang. Là một quốc gia mà Phật giáo được xem quốc giáo và là một nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhưng chưa bao giờ biến thành một nước thuộc địa của đế quốc Châu Âu như các nước láng giềng khác. Thái Lan đã có một nên công nghiệp phát triển vào cuối những năm 80 nhờ những nguồn đầu tư nước ngoài. Thu nhập bình quân đầu người hiện nay ở Thái Lan là trên dưới 2000 đô la. Phật giáo là quốc giáo của Thái Lan (những tôn giáo nhỏ khác là Ky Tô giáo và ấn giáo). Thái Lan được biết đến như “vùng đất tự do”, “quê hương nụ cười”, “đất nước của những chiếc áo cà sa”. Tên gọi cuối cùng này để nói một cách sâu sắc về một tôn giáo lớn mà dân tộc Thái đang tôn thờ. Lịch sử Thái Lan được chia thành 4 thời kỳ qua các triều đại: Sukhothai Ayutthaya, Thon Buri và Râttnakosin (Bangkok). Thời kỳ đầu của triều Sukhothai (12370-1456), Phật giáo đã được xem là quốc giáo của dân Thái. Hiện tại, tổng số 95% dân chúng được ghi nhận là tín đồ Phật giáo, hầu hết là truyền thống Theravada. Theo sự thống kê gần đây (1998) cho thấy, có 30.000 ngôi Chùa ở 75 tỉnh thành của Thái Lan. Nguồn gốc truyền nhập Phật giáo vào Thái Lan. Nhiều nguồn tư liệu cho rằng Phật giáo được truyền vào Thái Lan đầu thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch (khoảng năm 241 tr TL) theo sau cuộc truyền bá quy mô của nhà vua Phật tử Asoka (A Dục) đến Tích Lan và Miến Điện, Thái Lan (PGTL) về sau còn tiếp nhận thêm nhiều nhà truyền bá đến từ Miến Điện năm 1044 và các pháp sư đến từ Tích lan vào năm 1155. Hầu hết là theo hệ thống Phật giáo Theravada. Tuy vậy, Phật giáo chỉ thực sự đặt lại nền móng, phát triển ảnh hưởng sâu rộng vào xã hội Thái Lan từ triều đại Sukhothai (1237 - 1456) thời kỳ này có rất nhiều vị vu tín ngưỡng Phật Pháp, xây dựng chùa chiền hộ việc đào tạo tăng tài để phát triển Chánh Pháp, thậm chí có nhiều vị vua đã học luôn, như Vua Ramkhamheng và Vua Lithai. Đặc biệt, Vua Lithai là một ông vua Phật tử anh minh, từ ái, thương dân của mình, kể cả những kẻ đối đầu với mình, những người chống lại Thái Lan đã có công xây chùa và đúc tượng Phật rất nhiều trong thời ông trị vì. Nhiều tượng đồng thật lớn hiện nay vẫn còn tôn thờ ở Chùa Buddhajimarai, Chùa Phrarinatnahadhatu, Chùa Sadassana v.v... đều được đúc từ thời của ông. Tiếp đến các triều đại Ayudhya (1350 - 1766), Thonburi (1766-?) và triều đại Bangkok (1782 - cho đến nay) do vua Rama I thiết lập, Phật giáo đã tiếp tục phát triển mạnh trong mọi lĩnh vực. Có thể nói, triều đại Bangkok là một triều đại ủng hộ cho Phật giáo nhiều nhất là Vua Rama V (Vua Mongkut) – người đã xuất gia tu học ở chùa Bovorar đã tổ chức biên tập tại Tam Tạng Thánh Điển Phật giáo, bằng tiếng Pali đến năm 1893 hoàn thành với 39 quyển. Đây là một bộ Tam tạng đầu tiên trên thế giới bằng tiếng Pàli được in trên giấy. Bộ Tam Tạng này sau đó được ấn tống ra rất nhiều để gửi tặng các nước trên. Đến năm 1934, Vua Rama VII đã cho cải biên lại thành 45 tập, biểu trung bằng năm hoằng pháp của Phật. Bộ Đại Tạng này đến năm 1940, dưới triều đại vua Rama VIII, vị Tăng thống Tissadeva đã tập hợp được hơn 200 vị tăng lữ ngôn ngữ Pali để phiên dịch ra tiếng Thái. Cuối cùng bộ Đại Tạng Kinh cũng đã hoàn tất vào năm 1952, gồm 70 tập. Trong triều đại của Vua Bhulmibol Ađulydej (Rama IX) từ 1946 đến nay cũng phát triển đều đặn về các lĩnh vực văn hoá, y tế và giáo dục. Đặc biệt, vị vua này đã ủng hộ cho công trình đưa Tam Tạng Thánh Điển Phật giáo cát giữ trong hệ thống điện tử CD-ROM, công trình này bắt đầu thực hiện 1987 để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 60 của ông. Đến nay đã hoàn thành được đĩa CD-ROM, gồm các thứ tiếng Pali, Thái, Miến, Khmer và Tích Lan, có 115 quyển, 50.189 trang, 210 tỷ chữ địa chỉ vào xem hoặc thỉnh CD.ROM này là: ảnh hưởng của Phật giáo Chùa và tăng sĩ đóng một vai trò rất quan trọng trong xã hội Thái. Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về những vai trò này của họ qua các lĩnh vực giáo dục, kinh tế, văn hoá và xã hội sau đây: Về giáo dục: Tăng sĩ Thái Lan đã đóng một vai trò rất quan trọng trong lĩnh vực này. Trường đầu tiên được thành lập ở Thái Lan được xây dựng ngay trên khu chùa và những giáo viên đầu tiên là tăng sĩ. Phật giáo đã nắm giữ vai trò này trong thời gian dài cho đến triều đại của Vua Chulalongkorn (Râm V) thì ngành giáo dục phổ cập chính thức ra đời. Các trường công lần lượt được mở bên ngoài tu viện, các trường Phật giáo dần tiếp quản bởi bộ giáo dục Thái. Điều này dẫn tới vị trí của tăng sĩ trong hệ thống giáo dục bị thu hẹp dần. Ngày nay, tuy vai trò của Phật giáo không còn can thiệp nhiều vào ngành giáo dục phổ cập, nhưng những di sản của Phật giáo để lại, vẫn giữ nguyên giá trị và vẫn đứng vững trong lòng của dân tộc Thái. Những toà biệt thự đồ sộ của Bộ giáo dục, những trường lớn, những tổ chức từ thiện… phần lớn vẫn còn nằm trong khuôn viên chùa. Những ngôi trường trung học và đại học có uy tín và danh tiếng đạt tiêu chuẩn cao trong việc học và dạy, đều gợi lại cho người ta nhớ đến quá khứ tốt đẹp thông qua sự hoạt động của tăng sĩ Phật giáo Thái. Về kinh tế: Phật giáo cũng đóng một vai trò đáng kể trong môi trường kinh tế của người Thái. Nhiều lời Phật dạy về cách chọn nghề chân chính và thực hiện công việc làm ăn chân chính, đã được áp dụng rộng rãi trong mọi giai tầng của xã hội và người dân Thái biết làm thế nào để duy trì một gia đình hạnh phúc, ổn định kinh tế qua giáo lý của nhà của nhà Phật. Theo truyền thống, những tăng sĩ Thái thường đóng vai trò người lãnh đạo các công trình lớn. Do xuất phát từ trái tim từ bi, vô vị kỷ mà họ được xếp là những nhà cố vấn và giám sát công trình thành công nhất, chi phí được hạ xuống, những trục trặc, trở ngại trong tiến trình xây dựng cũng ít xảy ra, những chùa ở Thái Lan cũng mở trường huấn nghệ cho dân chúng bài chế thuốc nam, thợ mộc, thợ nề và nhiều ngành nghề thủcôngkhác. Dân chúng đã nhận được nhiều sự lợi lạc về kinh tế từ nhà chùa và các tăng sĩ cũng luôn ý thức rằng bổn phận của họ không chỉ có trách nhiệm giúp đỡ chăm sóc đời sống tâm linh mà còn quan tâm đến đời sống kinh tế cho người dân. Những nghi lễ. Sinh hoạt tín ngưỡng Phật giáo luôn là một phần quan trọng trong đời sống của dân Thái, từ lúc mới chào đời, trưởng thành, lễ cưới, ma chay… đều có một đến chùa chiền và tăng sĩ. Lễ đặt tên: Khi sinh con, cha mẹ thường thỉnh y Quý Thầy đặt tên cho con mình, vì họ tin rằng tên được chọn từ các Thầy sẽ vừa đẹp đẽ về mặt ý nghĩa. Tiếp đó là Quý Thầy sẽ làm lễ đặt tên và tụng một thời kinh câu cho đứa bé. Lễ Thọ giới: Nghi thức thứ hai này cũng rất quan trọng và bắt buộc đối với thanh niên Thái, kể cả các bậc vua chúa, khi họ ở vào giai đoạn trưởng thành từ mưới tám đến hai mươi tuổi. Thông thường, họ vào chùa tu tập ba tháng, một năm hoặc ba năm, tuỳ theo sở thích và ước nguyện của mỗi người. Nhiều bà mẹ muốn con cái của họ được dự lễ thọ giới này trước khi lập gia đình hoặc bắt đầu một nghề nghiệp chính thức. Vì rằng, buổi lễ này sẽ giúp cho người ta được một tâm hồn rộng lớn hơn được kèm với giới luật. Những lời phát biểu trong buổi lễ này sẽ khiến cho người ấy phải trầm trọng và giữ gìn suốt cuộc đời người. Nó là nền tảng vững chắc cho đời sống tâm linh của người dân Thái. Lễ truyền giới: Lễ được tổ chức trong suốt tháng bảy của mỗi năm. Trước khi thọ giới, vị thanh niên ấy được cạo đầu và được phép đến buổi lễ đặc biệt này để cho vị ấy tạ từ trước khi bước vào đời sống mới. Vào ngày lễ truyền giới, vị thầy tương lai này được hướng dân đi kinh cầu quanh tu viện trước khi được đưa vào bên trong điện Phật mà chư giới sẽ diện sẵn. Sau khi trải qua một loạt kiểm tra về những điều luật cần thiết của tăng sĩ, vị ấy được các bậc trưởng lão giới sư tuyên bố là các vị chính thức thành tăng sĩ Phật giáo, cho phép gia nhập vào tăng đoàn và ngay lập tức được cho ba chiếc y màu vàng nghệ, một chiếc bình bát và những vật dụng cần thiết một người tăng sĩ. Sau khi thọ giới Tỳ kheo xong, vị ấy sống tinh cần, thanh tịnh và luôn được tạo một cách nghiêm khắc để có thể kiểm soát thân và tâm của mình theo đã thọ. Vị ấy phải sống nghiêm túc theo giới luật như một tăng sĩ thật sự trong thời gian lưu trú trong tu viện. Tuy nhiên, vị ấy có thể trở về với thân phận của một người thế tục ở bất kỳ thời điểm nào mà vị ấy muốn. Lễ cưới: Phật giáo cũng đóng vai trò quan trọng trong hôn lễ, buổi lễ của hai người có một sự kết hợp thiêng liêng trong lễ cưới. Thông thường, các Tỳ kheo được cung thỉnh đến tụng kinh cầu an trong chùa của đôi tân hôn ấy vào buổi chiều trước lễ cưới của họ. Buổi sáng hôm sau, vợ chồng này đem thức ăn cúng đường cho chư Tăng trước khi họ tiến hành hôn lễ. Chư tăng tiếp đó sẽ đọc kinh cầu phúc và rải nước thánh lên cô dâu và chú rể. Những quan khách tham dự lễ cưới đổ nước thánh từ một vỏ sò xuống bàn tay đôi vợ chồng. Những bàn tay khác của quan khách được chống lại thành hình búp để tỏ lòng tôn kính và chúc mừng trong khi đôi tân hôn quỳ xuống chiếc ghế thấp, mỗi người được đeo một vòng hoa liên kết với nhau, để tượng trưng cho sự thắt chặt cuộc sống tương lai của họ. Lễ tang: Lễ nghi này cũng rất quan trọng trong đời sống của người dân Thái Tang lễ được tổ chức theo phong tục của từng địa phương, song vẫn được áp dụng theo nghi lễ Phật giáo. Sau khi một người đã qua đời, thông thường một nghi thức và thay quần áo vào buổi trưa đầu tiên. Vị thầy chủ lễ đến làm phép và rải nước hoa lên cơ thể của người chết, một sợi thiêng liêng được kéo qua ba lần trên thi thể người chết rồi cắt bỏ, tượng trưng cho sợi dây ràng buộc của tham ái, sân hận không còn nữa. Thi hài được nhập tẩm liệm vào buổi chiều và được trang trí với nhiều vòng hoa tươi xung quanh quan tài. Quý thầy và bạn bè thay nhau tụng kinh cầu siêu đến lúc lễ hoả táng hay địa táng xảy ra. Vào ngày của tang lễ, một buổi lễ cúng đường trai tăng được tổ chức để hồi hướng tới siêu độ vong linh. Sau lễ hoả táng, tro cốt của người mất được thu nhặt lại, một ít được đặt để đựng cốt, thờ tại nhà hoặc Chùa và phần còn lại được rải xuống biển hay ném vào trong gió, biểu hiện việc làm lợi ích cho môi trường xung quanh. Mỗi năm đến ngày giỗ của người mất, Quý Thầy và bè bạn được mời đến tụng kinh siêu độ, ban phúc lành lên tro cốt của người mất và trong dịp lễ cúng dường cho Quý Thấy cũng được tổ chức để tạo phước duyên cho người quá cố. Phật giáo Thái với công tác từ thiện xã hội. Được thấm nhuần từ lời dạy từ bi của Đức Phật, các tăng sĩ Phật giáo Thái đã tích cực, để hết tâm trí vào các vấn đề phúc lợi xã hội. Một trong những vị sư nổi tiếng về công tác này là Hoà Thượng Chamro Thamkrabok ở tỉnh Saraburi thuộc miền Trung Thái Lan. Vị này có uy tín, có công trong việc điều trị khỏi chứng nghiệm ma tuý. Vì nhìn thấy cái khổ triền miên của người nghiện mà Ngài đã cố công nghiên cứu và bào chế ra một loại thuốc thảo được chữa bệnh và đã thành công. Những kết quả gần đây cho thấy rằng sự điều trị của Trung tâm Ngài có hiệu quả hơn 70%. Hiện tại, nhiều ngàn người đã đổ về Trung tâm cai nghiện ma tuý của Ngài để tìm sự giúp đỡ, trong đó nghiện có cả những con nghiện đến từ Mỹ và Châu Âu. Điều đáng kể là tiền lệ chữa bệnh và ở nội trú với giá rất thấp. Nhờ thế mà Trung tâm củ Ngài ngày càng đông thêm. Chính quyền Thái Lan đã ủng hộ và tài trợ cho Trung tâm này trong nhiều năm qua. Địa chỉ web pagelà: Các tăng sĩ Phật giáo không chỉ đóng vai trò điều trị về thân bệnh mà họ còn là người xuất sắc trong lĩnh vực chữa khỏi tâm bệnh. Ngôi chùa và đời sống của người dân Thái. Chùa là một kho tàng an toàn nhất: Người dân Thái Lan thường cảm thấy bất an khi giữ những đỗ quý giá trong nhà của họ, vì thế họ đã gửi vào trong chùa cho phép vị trụ trì lưu giữ những vật quý ấy trong chùa. Chùa cũng là nơi an toàn để bảo trì bộ Đại Tạng Kinh viết trên lá bồi bài Pàli, những bộ sách lịch sử của các Vương triều của Thái Lan, những giá trị thời cổ đại của ngành thương mại của Thái Lan được viết trên lá cau, vẫn còn bảo trì cho đến ngày nay. Chùa là nơi để bảo tồn những pho tượng Phật vô giá của dân tộc Thái, nhiều tượng được đúc bằng vàng, đồng và ngọc. Theo tín ngưỡng của người dân TháI, những pho tượng lâu đời này có một sức mạnh tâm linh vô cùng đặc biệt, có thể báo trước những sự kiện nguy hiểm và tại hoạ sắp xảy ra cho người dân. Chùa là nơi tạm trú: Trong quá khứ, khi chưa có nhà trọ hay khách sạn, người khách từ nơi này đến nơi khác, không có nơi tạm trú một đêm, chỉ có Chùa là nơi họ hướng về. Cánh cửa Chùa luôn rộng mở cho những khách đến, luôn sẵn sàng giúp đỡ cho tất cả mọi người dân. Nhiều người nghèo ở nông thôn có con đi học ở Bangkok hay ở những thành phố khác, không có tiền ở kí túc xã, họ đã gửi con vào tạm trú trong Chùa. Chùa là nơi hội họp: Chùa ở Thái Lan luôn luôn có một phòng hội họp rộng và một sân chơi thể thao. Mỗi khi có hội họp trong làng xã đó, họ thường tụ tập về Chùa. Sân thể thao được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, ngoài ra chơi thể thao cho thanh thiếu niên trong vùng, còn là nơi để tổ chức bầu cử quốc hội, nơi tuyển quân ra trận, nơi có những cuộc meeting. Chùa là một trung tâm văn hoá: chùa là nơi bảo tồn những bài hát điệu hò, những vở kịch truyền thống có giá trị của Thái Lan. Chùa cũng là nơi dư tồn lại đủ các kiểu kiến trúc, điêu khắc, chạm trở của Thái Lan từ xưa cho đến nay. Một trong ngôi chùa nổi tiếng nhất của Thái Lan là ngôi chùa Phật Ngọc tọa lạc tại bờ đông trên bờ sông Chao Phraya. Trong dinh thực tráng lệ của Hoàng Gia Thái, ngôi chùa này được vua Rama dựng vào năm 782 theo kiến trúc của Thái Lan, để tôn thờ Đức Phật và là nơi tu hành, lễ bái của đức vua và quần thần của hoàng gia. Một số tổ chức Phật giáo tại Thái Lan. Thái Lan được biết đến như là một vùng đất tự do, do đó có nhiều tổ chức Chính phủ đã được thành lập tại đất nước này, trong đó có hai tổ chức Phật giáo thế giới đều được đặt trụ sở chính tại nơi đây. Hội Liên hữu Phật giáo thế giới. Tổ chức Quốc tế các Phật giáo về hội Liên hữu Phật giáo thế giới (WBF) được thành lập vào ngày 25 tháng 5 năm 1950, chủ trương như sau: Khuyến khích hội viên học và tu theo lời Phật dạy, thắt chặt tình hữu nghị, đoàn kết và thống nhất giữa các quốc gia Phật giáo. Đẩy mạnh công tác truyền bá giáo lý “Mầu nhiệm của Phật”. Tổ chức và đưa ra hoạt động phật sự vào trong cá lĩnh vực như xã hội, giáo dục, văn hoá; mang lại hoà bình, an lạc và hạnh phúc đến cho hành tinh này và sẵn sàng liên kết những tổ chức khá có cùng đường hướng. Về hiệp hội tổ chức quốc tế các Phật giáo (INEB) do đạo hữu người Thái Sulak Sivaraksa kết hợp với thượng người Nhật Bản Teruo Muruyama thành lập ở Bangkok theo sau cuộc Hội nghị khoáng đai gồm nhiều đại biểu Phật giáo của mười ba quốc gia như úc, Mỹ, Canada, ý, Đức, Anh, Pháp, Bangladesh trên kháp thế giới về dự. Hiệp hội đã cung thỉnh Đại lão Hoà thượng người Đức Dalai Lâm, người Tây Tạng, Thiền sư người Việt Thiền Hạnh và Hoà thượng Cambốt Maha Ghosananda vào hàng chứng minh tinh thần cho Hội. Chủ trương của INEB là kết hợp với nhiều tổ chức tôn giáo trên thế giới tổ chức các cuộc hội thảo về xã hội và tôn giáo, hầu đem lại lợi ích thật sự cho hội; cung cấp những tin tức mới về Phật giáo và hỗ trợ cho các nước Phật giáo nghèo ở vùng Nam á và Đông Nam Châu á; vận động các quốc gia giảm bớt chế độ hà khắc của họ đối với tôn giáo và dân chủ; Bảo trợ và tổ chức các buổi họp xung quanh chủ dề giảm thiểu khổ đau thông qua các sinh hoạt xã hội, kinh tế, sinh thái v.v… Với mục tiêu tốt đẹp trên, từ 36 hội viên lúc ban đầu, nay phát hành Nguyệt san Seeds of Peace (Hạt giống của Hoà bình) và mở rộng báo điện tử khác để phổ biến chủ trương và giáo lý. Địa chỉ truy cập là: Phần III. Kết luận Phật giáo đã đóng góp tích cực vào trong đời sống của người dân thái Lan không những về mặt vật chất, kinh tế mà còn đi sâu vào đời sống tinh thần của người dân hiểu biết và thấm nhuần giáo lý nhân quả nghiệp báo. Nhiều giáo lý cơ bản của Phật giáo đã giúp cho người dân Thái biết sống và sống theo khuôn khổ của luật pháp. Bản chất hiền hoà, từ ái, khiêm cung và nhã nhặn của người dân Thái thể hiện một phần nào đó từ sự thực hành đạo lý của họ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDPhuong (23).doc
Tài liệu liên quan